Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.15 KB, 21 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ MÔI TRƯỜNG
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
1.1. Khái niệm, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối
với Việt Nam
1.1.1. Khái niệm
Theo quĩ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là một khoản đầu tư với những quan
hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lơi ích lâu
dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp
là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác
đó.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và phát triển UNCTAD cũng đưa ra một khái niệm về
FDI. Theo đó, nguồn vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua
các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp
FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI, FDI
gồm có 3 bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công
ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại
nước này hoặc mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một
khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng
quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể
kinh tế ấy.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: một doanh nghiệp đầu
tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân
trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu
quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công
ty. Tuy nhiên không phải hầu hết các quốc gia đều sử dụng mốc 10% làm mốc xác định
FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỉ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ
đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong
khi nhiều lúc lớn hơn vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài


như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một
nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để được quyền sở
hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu
tối đa hóa lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế có thể hiểu là tài sản hữu hình (máy
móc, thiêt bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá
trị…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc
tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ
cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
1.1.2. Các hình thức FDI.
1.1.2.1. Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử dụng
rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay. Nó là công
cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu quả thông
qua hoạt động hợp tác.
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình
thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính, luật
pháp và bản sắc văn hoá, hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn, quản lý
lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra, hoạt
động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ,
hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
1.1.2.2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư cách
pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu
tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh
của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế luật pháp văn hoá, mức độ cạnh
tranh…

1.1.2.3. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết
quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp
nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm quyền của
các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định từ việc thực hiện phân chia kết
quả kinh doanh cho mỗi bên.
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong quá trình kinh doanh các
bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp
đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp doanh không
phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ
góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài
chính đối với nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh
doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại, chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở
tại. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hơp doanh được ghi trong hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
1.1.2.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô hình hay
một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn được
dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một doanh nghiệp
tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà thường do chính phủ
thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối
giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính
phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm
quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng,
nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất định để thu
hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình
cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng chuyển giao

BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác là: đối với hợp
đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho
nước chủ nhà và được Chính phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình
đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi
nhuận thoả đáng về công trình xây dựng và chuyển giao đó.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà thanh toán bằng tiền hoặc
bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đó bỏ ra và một tỉ lệ lợi nhuận hợp lí.
1.1.2.5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lý được thừa nhận rộng rãi
ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức đủ để kiểm
soát hoạt động quản lý và điều hành công ty đó thông qua việc gây ảnh hưởng hoặc lựa
chọn thành viên hợp đồng quản trị.
Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ giới hạn hoạt động
của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và giám sát hoạt động quản lí
của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh
của mình một cách độc lập, tạo rất nhiều thuận lợi:
- Cho phép các nhà đầu tư không chỉ huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư
khác nhau mà còn tạo điểu kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các công
ty trực thuộc trong việc tiếp thị, tiệu thụ hàng hoá, điều tiết chi phí thu nhập và các
nghiệp vụ tài chính.
- Quản lí các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống nhất và
chịu trách nhiệm về việc ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược điều phối các hoạt
động và tài chính của cả nhóm công ty.
- Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục đầu tư.
Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho các công ty con và
cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.
- Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ, quan hệ đối ngoại,
phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển (R&D)…

1.1.2.6. Hình thức công ty cổ phần
Công ty cổ phần (công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn) là doanh nghiệp trong đó vốn
điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, các cổ đông chỉ chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp vào
doanh nghiệp, cổ đông có thể là tổ chức cá nhân với số lượng tối đa không hạn chế,
nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của công ty cổ phần là
nó có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
Cơ cấu tổ chức, công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám
đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên
10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia giám sát quản lý hoạt dộng của cty cổ phần.
Đại hôi cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết là cơ quan quyết định cao nhất
của công ty cổ phần.
Ở một số nước khác, cty cổ phần hữu hạn có vốn đầu nước ngoài được thành lập theo
cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp liên doanh và doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong
nước cổ phần hoá.
1.1.2.7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước ngoài ở chỗ
chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong khi công ty con thường là
một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty con thường giới hạn trong phạm vi tài
sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiệm của chi nhánh theo quy định của một số nước,
không chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả
phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài. Chi nhánh được phép khấu trừ các khoản lỗ
ở nước sở tại và các khoản chi phí thành lập ban đầu vào các khoản thu nhập của công
ty mẹ tại nước ngoài. Ngoài ra chi nhánh còn được khấu trừ một phần các chi phí quản
lý của công ty mẹ ở nước ngoài vào phần thu nhập chịu thuế ở nước sở tại.
Việc thành lập chi nhánh thường đơn giản hơn so với việc thành lập công ty con. Do
không thành lập 1 pháp nhân độc lập, việc thành lập chi nhánh không phải tuân thủ theo
các quy định về thành lập công ty, thường chỉ thông qua việc đăng kí tại các cơ quan có

thẩm quyền của nước chủ nhà.
1.1.2.8. Hình thức công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các
thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân
có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về nghĩa vụ của cty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của cty trong phạm vi số vốn góp vào cty. Cty hợp danh không được phát
hành bất kì loại chứng khoản nào. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi
quyết định các vấn đề quản lý công ty, còn thành viên góp vốn có quyền được chia lợi
nhuận theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty nhưng không được tham gia quản lý cty và
hoạt động kinh doanh nhân danh cty.
1.1.2.9. Hình thức công ty mua lại và sát nhập (M&A)
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và tập trung vào các lĩnh vự
công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước phát triển.
Mục đích chủ yếu :
- Khai thác lợi thế của thị trường mới mà hoạt động thương mại quốc tế hay đầu tư mới
theo kênh truyền thống không mang lại hiệu quả mong đợi. Hoạt động M&A tạo cho
các công ty cơ hội mở rộng nhanh chóng hoạt động ra thị trường nước ngoài.
- Bằng con đường M&A, các TNC có thể sáp nhập các cty của mình với nhau, hình
thành một cty khổng lồ hoạt động trong nhiều lĩnh vự hay các cty khác nhau cùng hoạt
động trong một lĩnh vực có thể sáp nhập lại nhằm tăng khả năng cạnh tranh toàn cầu
của tập đoàn.
- Các cty vì mục đích quốc tế hoá sản phẩm muốn lấp chỗ trống trong hệ thống phân
phối của họ trên thị trường thế giới.
- Thông qua con đường M&A các ty có thể giảm chi phí từng lĩnh vực nghiên cứu và
phát triển sản xuất, phân phối và lưu thông.
- M&A tao điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và cơ cấu
ngành công nghiệp ở các quốc gia, do đó, hình thức này đóng vai trò quan trọng trong
sự phát triển công nghiệp ở mọi quốc gia.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam

(nước nhận đầu tư).
1.1.3.1. Tác động tích cực của FDI.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã kịp thời bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ của
các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn”. Đó là: Thu nhập
thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại là thu nhập thấp.
Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này phải vượt qua để
hội nhập vào quỹ đạo kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của nghèo
đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính xác.
Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước kém phát triển là vốn đầu tư và
kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ,
kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho
sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì hậu quả khó
tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước ngoài sẽ
là một “cú hích” để góp phần đột phá vào cái “vòng luẩn quẩn” đó. Đặc biệt là FDI:
nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho các nước
nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi nhuận thích đáng
khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn này còn có lợi thế hơn
nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so
với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh hoạt hơn.
* Chuyển giao công nghệ.
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ sảo chuyên
môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ
đưa vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu...(hay còn gọi là phần cứng), tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng
lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.) Do vậy đứng về lâu dài đây chính
là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI có thể thúc đẩy phát triển các

nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác
dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, dịch chuyển cơ cấu kinh tế nhanh của
các nước nhận đầu tư. FDI đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình
độ kỹ thuật cho các đối tác trong nước nhận đầu tư, thông qua những chương trình đào
tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI còn mang lại cho họ những kiến thức sản xuất
phức tạp trong khi tiếp nhận công nghệ của các nước nhận đầu tư. FDI còn thúc đẩy các
nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo những kỹ sư, những nhà quản lý có trình độ
chuyên môn để tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài.
* Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn thực hiện
mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước
đang phát triển khoát ra khỏi các vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh
nghiệm của nhiều nước cho thấy, các quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở của
với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các nhân tố bên ngoài biến nó
thành những nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo được tốc độ tăng trưởng cao.
Mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư, nhờ đó các
nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng, năng suất lao động cũng tăng lên
theo.
Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác những
tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát triển nền kinh tế.
* Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Yêu cầu dịch chuyển trong nền kinh tế không chỉ đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội
tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hứng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra
mạnh mẽ hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối
ngoại. Thông qua các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao
động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc
gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động
quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nước phù hợp với trình độ chung trên thế

giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Ngược lại, chính hoạt
động đầu tư lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì:
Một là, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh
vực và ngành kinh tế mới ở các nước nhận đầu tư. Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài
góp phần vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh
tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở một số ngành này và tăng tỷ phần của
nó trong nền kinh tế. Ba là, một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp
nước ngoài, nhưng cũng có nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xóa bỏ.
* Một số tác động khác.
Ngoài những tác động trên, đầư tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác động sau:
- Góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của
các đơn vị đầu tư và tiền thu từ việc cho thuê đất ....
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho nước tiếp
nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất ra các sản
phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản nước ngoài và việc phát triển
xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển. Cùng với việc tăng khả năng
xuất khẩu hàng hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mở rộng thị trường cả trong nước
và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có phương án bao tiêu
sản phẩm. Đây gọi là hiên tượng “hai chiều” đang trở nên khá phổ biến ở nhiều nước
đang phát triển hiện nay.
- Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu hút
một khối lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc tại các đơn vị
của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt nạn thất
nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước
đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai
thác và sử dụng được, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là chìa khóa quan trọng

×