Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Quản lý nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Bình Dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.12 KB, 99 trang )

Tên đề tài “Quản lý nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Bình Dương
hiện nay”

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH

: Công nghiệp hoá

HĐH

: Hiện đại hoá

CNKT

: Công nhân kỹ thuật

CSXH

: Chính sách xã hội

GDI

: Chỉ số phát triển giới

GDP

: Tổng sản phẩm nội địa

HDI


: Chỉ số phát triển con người

THCN

: Trung học chuyên nghiệp

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
Chương 1: QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC NỮ VỚI SỤ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1
Quản lý nguồn nhân lực nữ và những nhân tố tác động đến
việc quản lý nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay
1.2
Tầm quan trọng của việc quản lý nguồn nhân lực nữ và yêu
cầu mới đối với quản lý nguồn nhân lực nữ trong phát triển
kinh tế-xã hội ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NỮ VÀ VIỆC QUẢN LÝ
NGUỒN NHÂN LỰC NỮ TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở BÌNH DƯƠNG
HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA
2.1.

Thực trạng nguồn nhân lực nữ và công tác quản lý nguồn nhân
nữ ở Bình Dương hiện nay.
2.2
Những vấn đề đặt ra đối với quản lý nguồn nhân lực nữ ở Bình
Dương hiện nay.
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU ĐỂ QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC NỮ TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY
3.1.
Phương hướng quản lý nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương hiện nay
3.2.
Những giải pháp chủ yếu để quản lý nguồn nhân lực nữ trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương hiện nay

1
5
19

31

32
32
57

61
61
67
86

89

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
2


1. Tính cấp thiết của đề tài
CNH-HĐH là con đường tất yếu của mọi quốc gia nhằm phát triển kinh tế - xã
hội. Để thực hiện CNH-HĐH cần phải huy động mọi nguồn lực cần thiết ở trong và
ngoài nước, bao gồm: nguồn nhân lực, nguồn tài lực, công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên, các ưu thế và lợi thế (về điều kiện địa lý, thể chế chính trị, …). Trong các
nguồn này thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, quyết định các nguồn lực khác.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và xu thế chuyển nền kinh tế
chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế tri thức đã làm cho lao
động trí tuệ trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ
xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và trở thành tài nguyên quý giá nhất của
mỗi quốc gia, dân tộc. Vì vậy, vấn đề nguồn nhân lực ngày càng giữ vị trí trung tâm
đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Con người đang được coi là động lực đồng thời là mục tiêu cuối cùng trong quá trình
phát triển của nước ta.
Với thiên chức của mình, phụ nữ là người đảm nhiệm vai trò “kép”: vừa là lực
lượng lao động cơ bản của xã hội, vừa có trách nhiệm trực tiếp tái sản xuất ra con
người. Quan tâm đến sự phát triển của phụ nữ nói chung, quản lý, khai thác và bồi
dưỡng nguồn nhân lực nữ nói riêng không chỉ là vấn đề nhân đạo của một quốc gia,
một xã hội mà còn là đòi hỏi thiết yếu, ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.

Trong chiến lược chung về phát triển nguồn nhân lực, xuất phát từ những nhu
cầu khách quan và quan điểm mácxít về vai trò của phụ nữ, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn coi phụ nữ là động lực quan trọng của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước
ta đã có nhiều biện pháp, chính sách sử dụng nguồn nhân lực nữ và đã huy động được
sức mạnh to lớn của phụ nữ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Định hướng
chiến lược của Việt Nam hiện nay là đổi mới và phát triển. Những cơ hội và thử thách
đặt ra đã và đang đòi hỏi hơn bao giờ hết mọi tiềm năng quốc gia phải được khai thác
hợp lý, trong đó có nguồn nhân lực nữ.
3


So với cả nước, Bình Dương là một trong những địa phương có tốc độ tăng
trưởng cao với mức tăng GDP bình quân của cả nước, đạt trên 14%/năm. Đóng góp
cho sự phát triển chung của tỉnh không thể không kể đến vai trò quan trọng của phụ
nữ - chiếm trên 51,9% dân số và 53% lực lượng lao động toàn tỉnh. Chủ trương phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tạo cơ hội cho sự phát triển của phụ
nữ, song, cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho phụ nữ trong việc tiếp cận với
các cơ hội về việc làm, giáo dục - đào tạo, trong hưởng thụ các thành quả của sự phát
triển. Trong khi đó, sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở Bình Dương đang yêu cầu
ngày càng cao đối với nguồn nhân lực nữ về trình độ chuyên môn, thể lực, kỹ năng
lao động...
Vấn đề đặt ra đối với các nhà nước là phải quản lý khai thác, bồi dưỡng và phát
huy tiềm năng nguồn nhân lực nữ tạo động lực cho sự phát triển của tỉnh. Do đó, việc
nghiên cứu làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ, tìm giải pháp để quản lý, bồi dưỡng
và phát huy nguồn lực này là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết đối với
Bình Dương. Vì thế, tôi chọn vấn đề “Quản lý nguồn nhân lực nữ trong quá trình
phát triển kinh tế-xã hội ở Bình Dương hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Quản
lý hành chính công.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Do vị trí, vai trò và ý nghĩa chiến lược quan trọng của nguồn nhân lực đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nên đã có nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề này. Tiêu biểu như:“ Con người và nguồn lực con người trong phát triển” của
Viện Thông tin Khoa học xã hội (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995); Công trình
KHCN cấp nhà nước KX - 07 “ Con người Việt Nam - Mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội” năm 1995, “ Phát triển nguồn nhân lực. Kinh nghiệm thế
giới và thực tiễn nước ta” của PTS Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm ( Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996), “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH - HĐH” của
Phạm Minh Hạc (Nxb Chính trị Quốc gia, 2001), “ Lao động, việc làm và nguồn nhân
lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới” của Nolwen Henaff và Jean - Yves Martin…
4


Luận án tiến sĩ: “ Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục - đào
tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH” của Nguyễn
Thanh, 2001; Luận án phó tiến sĩ: “Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình CNH HĐH ở nước ta” của Trần Kim Hải, 1999…; Nguồn nhân lực nữ là bộ phận quan
trọng trong chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, vì thế đã thu hút được
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học nghiên
cứu về phụ nữ. Tiêu biểu như: GS triết học Lê Thi với Vấn đề tạo việc làm tăng thu
nhập nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay, Vài suy nghĩ về phương pháp luận tiếp
cận việc nghiên cứu người phụ nữ và vai trò của giáo dục gia đình trong sự phát triển
nguồn nhân lực, 1993; Tiến sĩ Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng với “Phụ nữ, giới
và phát triển” năm 2000…
Trước những yêu cầu cấp thiết của việc nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực nữ
trong phát triển kinh tế - xã hội, từ phía các cơ quan hoạch định chính sách cũng đã có
một số hội thảo tập trung bàn về vấn đề này như: “Vai trò giới tính và nguồn nhân
lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội” do Uỷ ban Các vấn đề xã hội của
Quốc hội tổ chức năm 1995, hội thảo “Đưa vấn đề giới vào phát triển - Thông qua sự
bình đẳng giới về quyền hạn, nguồn lực và tiếng nói” do Ngân hàng Tái thiết và phát
triển Quốc tế/ Ngân hàng Thế giới tổ chức tại Hà Nội năm 2000.
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí đề cập đến vấn đề

nguồn lực phụ nữ như “Quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của PGS Bùi Thị Kim Quỳ (Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, số 2, 1996); “Cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định nghề
đào tạo dự phòng cho phụ nữ” của Tiến sĩ Nguyễn Tín Nhiệm và Tiến sĩ Phan Thị
Thanh (Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 4,2002); Điều tra cơ bản nguồn nhân lực
nữ cho CNH-HĐH- của Trần Hàn Giang (Tạp chí khoa học của Viện khoa học xã
hội Việt Nam, năm 2001); Phạm Thị Thanh Hương (2005), “Những nhân tố tác
động đến nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội”, Tạp chí
Nghiên cứu con người, Viện Nghiên cứu con người, tr. 15-20.
5


Ở Bình Dương, cho đến thời điểm hiện tại chưa có đề tài riêng biệt chuyên
nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ, đặc biệt là vấn đề quản lý nguồn nhân lực nữ. Chỉ
có một số vấn đề về nguồn nhân lực nữ được nghiên cứu lồng ghép trong các đề tài
chung về nguồn nhân lực của tỉnh như: Luận văn tiến sĩ “Những chuyển biến kinh tếxã hội tỉnh Bình Dương” (1945-2005) của Nguyễn Văn Hiệp, 2007; Chương trình
hành động số 56/CTr-TU của Tỉnh ủy Bình Dương về Tăng cường công tác phụ nữ
trong thời kỳ CNH-HĐH; Đề án Tăng cường công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên
công nhân tỉnh Bình Dương (2007-2010) của UBND tỉnh Bình Dương; Nghiên cứu,
đánh giá tác động của quá trình CNH-HĐH đến nguồn lao động tại Bình Dương của
Sở LĐTB-XH tỉnh.
Các công trình nghiên cứu, các bài viết đã đề cập những khía cạnh khác nhau
về nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực nữ nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay
các nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ tại tỉnh Bình Dương còn rất phân tán, thiếu
những chuyên khảo về thực trạng nguồn nhân lực nữ một cách toàn diện, hệ thống để
từ đó đề xuất các giải pháp nhằm quản lý nguồn nhân lực nữ dựa trên cơ sở đảm bảo
quyền lợi và trách nhiệm một cách công bằng giữa hai giới. Vì vậy, vấn đề Quản lý
nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương hiện nay vẫn là
một mảng trống cần được nghiên cứu làm sáng tỏ.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn

Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý nguồn nhân lực nữ ở Bình
Dương hiện nay, luận văn đưa ra những giải pháp chủ yếu để quản lý nhằm phát huy
tối ưu nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương.
Để đạt mục đích đó, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận chung về quản lý nguồn nhân lực nữ,
những nhân tố tác động đến quản lý nguồn nhân lực nữ cũng như tầm quan trọng của
việc quản lý nguồn nhân lực nữ trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ và quản lý nguồn nhân lực nữ ở Bình
Dương hiện nay.
6


- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm quản lý để phát huy tối ưu nguồn
nhân lực nữ ở Bình Dương hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội từ khi Đảng ta chủ trương đổi mới đất nước, trong đó tập
trung nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực nữ và những khía cạnh chủ yếu trong
việc quản lý để phát huy nguồn nhân lực nữ ở Bình Dương từ năm 2000 đến 2010.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người, nguồn lực con
người, quan điểm về vai trò của phụ nữ và giải phóng phụ nữ.
Phương pháp thực hiện đề tài là các nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong phân tích những vấn đề
thực tiễn xã hội, chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng
hợp, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử dụng
phương pháp thống kê, thu thập xử lý thông tin và áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu
bình đẳng giới.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ và quản lý nguồn nhân lực nữ ở Bình

Dương hiện nay.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu để quản lý nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực nữ ở Bình Dương hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn lực phụ nữ, bổ
sung thêm những cơ sở khoa học có thể tham khảo trong hoạch định chiến lược tổng
thể và chính sách cụ thể liên quan đến vấn đề nguồn nhân lực nữ ở tỉnh Bình Dương.
Dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về nguồn
nhân lực nữ trong hệ thống Hội LHPN tỉnh Bình Dương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
7


Chương 1:
QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC NỮ VỚI SỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
-XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC NỮ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC
ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.1. Quản lý nguồn nhân lực nữ - một số vấn đề lý luận chung
1.1.1.1 Quan niệm về nguồn lực con người (nguồn nhân lực)
Theo Từ điển Tiếng Việt : Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân lực là
sức của con người bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức được vận dụng
vào quá trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham muốn, hoài bão của bản
thân người lao động hướng tới một mục đích xác định (tâm lực) [36, tr.97]. Nhân lực
với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố có sự liên hệ biện chứng với nhau, đó là
thể lực, trí lực, tâm lực. Nguồn nhân lực được hiểu là nơi phát sinh, nơi cung cấp sức
của con người trên đầy đủ các phương diện cho lao động sản xuất.
″Nguồn lực con người" hay ″nguồn nhân lực" là khái niệm được hình thành trong

quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực của sự
phát triển. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đề cập đến khái
niệm nguồn nhân lực theo các góc độ khác nhau.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “ Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề,
là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm
năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng” [2, tr.3]. Việc quản lý và sử
dụng nguồn lực con người khó khăn phức tạp hơn nhiều so với các nguồn lực khác
bởi con người là một thực thể sinh vật - xã hội, rất nhạy cảm với những tác động qua
lại của các mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội diễn ra trong môi trường sống của họ.
Các chuyên gia Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ “vốn
người” (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Nguồn lực
con người được coi như là một nguồn vốn bên cạnh các nguồn vốn khác như tài
chính, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên...
8


Ở nước ta, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học - công nghệ cấp
nhà nước mang mã số KX - 07 cho rằng nguồn lực con người được hiểu là dân số và chất
lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm
chất, thái độ và phong cách làm việc. GS. Phạm Minh Hạc cho rằng “Nguồn nhân lực là
tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao
động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao
động nào đó” [13, tr.269]. TS Nguyễn Thanh xác định “nguồn nhân lực đó là tổng thể
sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của
con người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội” [32, tr.70].
Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn thuần
là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ,
tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có
khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Khái niệm ″nguồn nhân lực" (Human Resoures) được hiểu như khái niệm

″nguồn lực con người". Khi được sử dụng như một khái niệm công cụ để điều hành,
thực thi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có
tham gia lao động - hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao động
gồm toàn bộ những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu lao động
được gọi là lực lượng lao động.
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những cách hiểu, quan
niệm khác nhau về nguồn nhân lực nhưng những quan niệm này đều thống nhất nội
dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con người
với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ
bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển thì không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở
góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng;
không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với
những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
9


Chính từ các quan niệm trên cho thấy rằng: nguồn nhân lực là tổng thể số
lượng và chất lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và
những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và
xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và
tiến bộ xã hội.
Khái niệm nguồn lực con người bao quát được những mặt, những khía cạnh,
phương diện cơ bản của nguồn lực con người, khắc phục được những hạn chế trong
nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa các mặt số lượng và chất lượng con người
với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và tâm lực, khẳng định nguồn lực con
người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và quan hệ xã hội.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến con người đã, đang và sẽ tham gia vào quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Ở đây, cần lưu ý đến một số vấn đề sau:
Con người nói chung và nguồn nhân lực xã hội nói riêng vừa là lực lượng tiêu

thụ sản phẩm, vừa là lực lực lượng lao động sản xuất tạo ra sản phẩm. Do đó, vai trò
của nguồn nhân lực xã hội rất quan trọng, là trung tâm của sự phát triển, nên có thể
nói nguồn nhân lực xã hội vừa là động lực, mục tiêu vừa đóng vai trò quyết định đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế - xã hội được dựa trên nhiều nguồn
lực: nhân lực (nguồn lực con người), vật lực (nguồn lực vật chất), tài lực (nguồn lực
về tài chính, tiền tệ), vv..,. Song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho
sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có thể thông
qua nguồn lực con người. Ngay cả trong điều kiện đạt được tiến bộ khoa học kỹ thuật
hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người. Chính con
người tạo ra những máy móc thiết bị hiện đại. Điều đó thể hiện mức độ hiểu biết và
chế ngự tự nhiên của con người. Ngay cả đối với máy móc thiết bị hiện đại, nếu thiếu
sự điều khiển, kiểm tra của con người thì chúng chỉ là vật vô dụng. Chỉ có tác động
của con người mới đưa chúng vào hoạt động và phát huy được sức mạnh của chúng.
Con người có khả năng sáng tạo cao, có khả năng phát huy vận dụng có hiệu quả các
nguồn lực khác nên vai trò của nguồn nhân lực xã hội được xác định đóng vai trò
nhân tố quyết định cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con người
10


không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển, thể hiện mức độ chế ngự tự nhiên,
bắt thiên nhiên phụ vụ cho con người, mà còn tạo ra những điều kiện để hoàn thiện
chính bản thân con người. Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh rằng trải
qua quá trình lao động hàng triệu năm mới trở thành con người ngày nay và trong quá
trình đó, mỗi giai đoạn phát triển của con người lại làm tăng thêm sức mạnh chế ngự
tự nhiên, tăng thêm động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, động lực,
mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát triển tới bản thân con người cũng
nằm trong chính bản thân con người. Điều đó lý giải tại sao con người được coi là
nhân tố năng động nhất, quyết định nhất của sự phát triển.
Nói tới nguồn lực con người, không thể bỏ qua phẩm chất đạo đức, nhân cách
con người. Ngày nay, cái đem lại lợi thế cho nguồn nhân lực ngoài trí lực và thể lực,

còn phải tính đến phẩm chất đạo đức, nhân cách con người. Bởi vì, trí lực cũng như
thể lực chỉ có thể tạo ra sức mạnh thúc đẩy tiến bộ xã hội khi chủ nhân của nó là
những con người có phẩm chất đạo đức, nhân cách tốt. Trình độ phát triển nhân cách,
đạo đức đem lại cho con người khả năng thực hiện tốt các chức năng xã hội, nâng cao
năng lực sáng tạo của họ trong hoạt động thực tiễn xã hội. Do vậy, phát triển nguồn
nhân lực, ngoài việc quan tâm nâng cao mặt bằng và đỉnh cao dân trí, tới việc bồi
dưỡng và nâng cao sức khoẻ cho mỗi con người, cho cộng đồng xã hội, chúng ta phải
đặc biệt coi trọng việc xây dựng đạo đức, nhân cách, lý tưởng cho con người.
Kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy thành tựu phát triển kinh tế - xã hội
phụ thuộc chủ yếu vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu tư cho chiến lược
con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao động, coi giáo dục - đào tạo là chìa
khoá của sự tăng trưởng đã đem lại thành công cho các nước công nghiệp mới Đông
Á. Hàn Quốc từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những
quốc gia công nghiệp mới hùng mạnh nhất về kinh tế của thế giới thứ ba, vượt xa Angiê-ri - quốc gia có cùng điểm xuất phát về trình độ cách đây 40 năm. Một nước Nhật
đạt được những bước tiến vượt bậc cũng do biết đặt vấn đề con người vào trung tâm
của sự phát triển bằng các triết lý nhân sự mang tính dân tộc, biết sử dụng nguồn lực
11


con người thông qua các thành tựu khoa học công nghệ và đã nhanh chóng bứt lên trở
thành cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới.
Do vậy, không phải ngẫu nhiên các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã
khẳng định: lịch sử phát triển chân chính của xã hội là lịch sử phát triển con người, do
con người và vì con người. Tiến trình phát triển lịch sử được quyết định bởi trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó người lao động ngày càng trở thành yếu tố
quan trọng hàng đầu. Nhận thức sâu sắc về vai trò của con người trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Sự
nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng
kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhiều lần

khẳng định mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con
người. Vì vậy, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, xét về thực chất là
chiến lược con người. ″Nâng cao dân trí, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH đất
nước" [8, tr.21]. Đại hội toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục xác
định “ nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững ...” [9, tr.112]. Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân
lực được coi là một trong ba khâu đột phá để làm chuyển động toàn bộ tình hình kinh
tế - xã hội.
Từ vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề
tất yếu đặt ra là phải quản lý được nguồn lực con người một cách tối ưu.
Việc quản lý nguồn lực đòi hỏi sự hiểu biết về con người ở nhiều khía cạnh,
và trên quan niệm con người là yếu tố trung tâm của sự phát triển. Các kỹ thuật quản
lý nhân lực thường có mục đích tạo điều kiện để con người phát huy hết khả năng
tiềm ẩn, giảm lãng phí nguồn lực, tăng hiệu quả của tổ chức. Theo đó Quản lý nguồn
nhân lực chính là sử dụng các chính sách nhằm nâng cao vai trò của nguồn lực con
người trong sự phát triển kinh tế - xã hội, qua đó làm gia tăng giá trị của con người.
Quản lý nguồn lực con người thể hiện ở ba mặt: phát triển nguồn nhân lực, sử
dụng nguồn nhân lực và nuôi dưỡng môi trường cho nguồn nhân lực [41, tr.287].
Điều đó liên quan đến hàng loạt vấn đề từ việc nuôi dưỡng, giáo dục - đào tạo đến
12


việc tổ chức khai thác, sử dụng nguồn nhân lực; từ việc phát huy tính chủ động, tích
cực, sáng tạo của mỗi cá nhân đến việc tạo môi trường xã hội thuận lợi cho sự cống
hiến và hưởng thụ của con người; từ việc nâng cao năng lực và phẩm chất của người
lao động với tư cách là chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội đến khâu khai thác hợp lý, có hiệu quả trí lực, thể lực, tâm lực
của họ với tư cách là khách thể của sự khai thác; từ việc sử dụng con người với tư
cách là một nguồn lực, động lực cho sự phát triển đến việc chăm lo cho con người với

tư cách là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội... Những vấn đề trên nếu thực
hiện tốt sẽ phát huy được vai trò của nguồn lực con người trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
1.1.1.2

Quan niệm về nguồn nhân lực nữ

Nếu con người là nguồn lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tếxã hội thì phụ nữ là bộ phận cơ bản cấu thành nguồn lực ấy.
Hiểu theo nghĩa rộng: nguồn nhân lực nữ bao gồm tổng hoà các tiêu chí của bộ
phận dân số nữ đang có khả năng tham gia vào quá trình lao động xã hội và các thế hệ
phụ nữ nối tiếp sẽ phục vụ xã hội. Nói cách khác, nguồn nhân lực nữ được hiểu không
chỉ đơn thuần là lực lượng lao động nữ đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh trí
tuệ, thể chất, tinh thần của các cá nhân nữ trong một cộng đồng, quốc gia được đem ra
hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Nguồn nhân lực nữ - theo nghĩa hẹp - với tư cách là lực lượng lao động của xã
hội, bao gồm nhóm phụ nữ đến tuổi lao động trở lên có khả năng lao động. Pháp luật
Việt Nam quy định độ tuổi lao động đối với nữ trong khoảng nhỏ hơn của độ tuổi lao
động nam (nữ từ đủ 15 đến hết 55 tuổi, nam từ đủ 15 đến hết 60 tuổi) nên mặc dù dân
số nữ thường xuyên cao hơn (thường chiếm trên 51% dân số) song, lực lượng lao
động nữ lại thường chiếm tỷ lệ nhỏ hơn (khoảng 46,6% lao động xã hội).
Nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ cần chú ý đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc quan niệm nguồn nhân lực nữ (rộng hay hẹp) chỉ mang tính chất
tương đối, phụ thuộc vào phạm vi điều chỉnh của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội. Với tư cách là phần nửa dân số và lực lượng lao động xã hội, vừa là người trực
13


tiếp tái sản xuất ra nguồn nhân lực cho đất nước, phụ nữ luôn là vấn đề lớn đối với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ quốc gia nào. Vì thế, nguồn nhân lực
nữ phải được đề cập đến theo nghĩa rộng, có nghĩa là các mục tiêu phát triển nguồn

nhân lực hướng tới khả năng lao động của các thế hệ phụ nữ.
Thứ hai, nghiên cứu về phụ nữ và nguồn nhân lực nữ đòi hỏi phải có phương
pháp tiếp cận đúng đắn. Phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu ở đây là xem
xét mối quan hệ giữa cái chung (con người) và cái riêng (giới nam, giới nữ). Đó là
quan điểm tiếp cận về giới. Điều này là do chính đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
quy định.
Là con người, nam giới và phụ nữ giống nhau - đều vừa là thực thể sinh vật vừa
là thực thể xã hội - nhưng họ có khác biệt về mặt tự nhiên - sinh học của cơ thể.
Những đặc điểm sinh học về giới tính là bẩm sinh và không thể thay đổi được. Từ
những đặc điểm sinh học, xét về mặt xã hội, phụ nữ đảm nhiệm chức năng xã hội
khác nam giới, đó là chức năng trực tiếp tái sản xuất ra con người. Từ đó nảy sinh
những khó khăn, thuận lợi khác nhau giữa giới nam và giới nữ trong học tập, làm
việc, sinh sống. Phụ nữ thường gắn với con cái và gia đình. Họ có những nhu cầu cấp
thiết hơn nam giới về những dịch vụ y tế, dịch vụ gia đình, về điều kiện làm việc gần
gia đình...
Sự phân biệt về giới tính giữa nam và nữ có tính tự nhiên, bẩm sinh không tất
yếu dẫn tới sự phân biệt về giới có tính xã hội. Tuy nhiên, từ trong lịch sử kéo dài đến
ngày nay đã tồn tại sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong đời sống xã hội và gia
đình. Phụ nữ thường được coi là người hiển nhiên phải chịu trách nhiệm và thích hợp
với việc chăm sóc con cái, gia đình. Những công việc này thường ít được nhìn nhận ở
góc độ kinh tế. Sự đánh giá thấp của xã hội về khả năng, giá trị của lao động nữ trong
lao động sản xuất đã giam hãm người phụ nữ ở địa vị thấp kém trong xã hội và gia
đình với tất cả những bất công và thiệt thòi.
Tóm lại, việc nghiên cứu về người phụ nữ nói chung và nguồn nhân lực nữ nói
riêng không thể tách rời việc nghiên cứu về giới tính và giới, về sự bình đẳng giới và
14


hậu quả đem lại cho sự phát triển chung khi lực lượng phụ nữ bị kìm hãm, không phát
huy được đầy đủ những tiềm năng cho việc cải tạo thiên nhiên, xã hội. Vấn đề đặt ra

trước hết đối với việc quản lý nguồn nhân lực nữ là phải xác định được những nhân tố
cơ bản tác động đến nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển.
1.1.1.3 Quản lý nguồn nhân lực nữ
Quản lý nhân lực là một lĩnh vực khó và cần nhiều phương thức khác nhau.
Chính vì vậy có rất nhiều quan điểm khác nhau về quản lý nhân lực, chẳng hạn như :
coi quản lý nguồn nhân lực vừa là nghệ thuật vừa là khoa học làm cho những mong
muốn của tổ chức và mong muốn của nhân viên tương hợp với nhau, cùng đạt đến
mục tiêu. Hay xem quản lý nguồn nhân lực là những hoạt động (một quy trình) mà tổ
chức và người quản lý nhân sự tiến hành triển khai sắp xếp nhân lực nhằm đạt được
các mục tiêu chiến lược của tổ chức. Quy trình này gồm các bước tuyển dụng, quản
lý, trả lương, nâng cao hiệu quả hoạt động, và sa thải nhân viên trong tổ chức. Quản
lý nguồn nhân lực là sự khai thác và sử dụng nguồn nhân lực của một tổ chức một
cách hợp lý và hiệu quả,v..
Nguồn nhân lực nữ là bộ phận quan trọng cấu thành nguồn nhân lực. Do đó,
quản lý nguồn nhân lực nữ gắn liền với quản lý nguồn nhân lực chung của tổ chức.
Quản lý nguồn nhân lực nữ chính là việc phát huy tối đa năng lực, khai thác và sử
dụng nguồn nhân lực nữ một cách hợp lý và có hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, quản lý
nguồn nhân lực nữ thường mang những đặc trưng về giới. Chính vì vậy, quản lý
nguồn nhân lực nữ thường lưu ý đến một số vấn đề như:
- Phụ nữ khi đi làm còn có gánh nặng về gia đình và con cái hơn so với nam giới.
Vì vậy, quản lý nguồn nhân lực nữ thường phải có các chính sách nhằm tạo điều kiện
để người phụ nữ có thể điều hòa giữa gia đình và phát triển chuyên môn nghề nghiệp.
- Tạo dựng các chính sách về bình đẳng giới. Cả nam và nữ đều phải có những
cơ hội bình đẳng ở mỗi khu vực của quản lý nguồn nhân lực.
- Tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa trong các chính sách của Chính phủ về các
dịch vụ chăm sóc gia đình, trẻ em để phụ nữ yên tâm với công việc.
15


Vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn nhân lực nữ không chỉ biểu hiện số lượng

lớn trong dân cư và lực lượng lao động xã hội, mà chất lượng của nó quyết định sự
phát triển hiện tại và tương lai của một dân tộc, quốc gia. Nhưng nguồn nhân lực nữ
chỉ đem lại sự phát triển bền vững khi việc quản lý nó dựa trên cơ sở công bằng và
hiệu quả, do đó bình đẳng giới cần được coi là một trong những mục tiêu của chiến
lược phát triển nguồn nhân lực.
Ở Việt Nam với tỷ lệ nữ chiếm hơn 51% trong tổng số dân thì nguồn nhân lực nữ
sẽ là nguồn lao động quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Quản lý nguồn nhân lực nữ tốt sẽ phát huy tối đa nguồn nhân lực nữ hiện có vào sự
nghiệp CNH-HĐH.
Không chỉ đối với Việt Nam, việc quản lý nguồn nhân lực nữ để tạo động lực
phát triển kinh tế bền vững và đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội đã và đang được đặt
ra trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ
XX, người ta chủ yếu đề cập đến mô hình phát triển hướng vào tăng trưởng kinh tế và
cho rằng tăng thu nhập quốc dân là biện pháp cần và đủ đối với sự phát triển của một
đất nước. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế đã chỉ ra rằng việc tập trung quá cao cho
mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã khiến cho các mục tiêu xã hội, vốn gắn chặt với người
phụ nữ như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục không được đầu tư phát triển một cách
tương xứng với tầm quan trọng của nó. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng của
nguồn nhân lực và đến lượt nó lại có tác động tiêu cực trở lại đối với tăng trưởng kinh
tế. Sự phát triển kinh tế vì thế không thể duy trì tính bền vững như mong muốn. Quan
điểm mới về phát triển đòi hỏi trong việc quản lý nguồn nhân lực nữ không chỉ chú ý
đến việc khai thác tối đa tiềm năng của nguồn lực này mà phải đồng thời quan tâm
đầy đủ đến lợi ích và nhu cầu phát triển của phụ nữ.
1.1.2 Những nhân tố tác động đến việc quản lý nguồn nhân lực nữ ở nước ta
hiện nay
Thứ nhất, nhân tố tự nhiên - sinh học có tác động rất lớn đến thể lực và trí lực
của nguồn nhân lực nữ, từ đó sẽ ảnh hưởng đến việc quản lý nguồn nhân lực này. Do
cấu tạo cơ thể của phụ nữ khác với nam giới (phụ nữ thường thấp, bé, nhẹ cân hơn) và
16



do đặc điểm sinh lý của phụ nữ cũng khác nam giới (phụ nữ phải sinh con và nuôi
con) nên nhìn chung sức khoẻ của phụ nữ thường yếu hơn so với nam giới. Phụ nữ
gắn liền với việc sinh con duy trì sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Việc sinh con
vì thế là hiện tượng xã hội, nhưng trước hết cũng là hiện tượng tự nhiên, sinh học.
Song, chức năng sinh học đó được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ và chịu sự tác
động của nhiều nhân tố như gia đình, môi trường kinh tế, môi trường giáo dục, môi
trường cộng đồng. Không quan tâm đúng mức đến các nhân tố tự nhiên - sinh học của
phụ nữ sẽ không chỉ mất mát hiện tại về năng suất, hiệu quả lao động, tác động tiêu
cực đến việc phát triển trí lực của phụ nữ mà còn là những cái giá phải trả trong một
vài thế hệ tương lai của dân tộc xét về mặt giống nòi và phát triển bền vững đất nước.
Quản lý nguồn nhân lực nữ vì thế cần thấy được những đặc điểm riêng về mặt tự
nhiên - sinh học của phụ nữ để có những giải pháp và chính sách xã hội hợp lý.
Thứ hai, nhân tố giáo dục - đào tạo. Do vai trò quan trọng trong sự hình thành
và phát triển trí tuệ và nhân cách của con người nên nhân tố này đang được coi là
phương thức phát triển nhanh chất lượng nguồn nhân lực. Các quốc gia hiện nay đều
coi đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển, đầu tư trực tiếp vào nguồn
lực con người. Đối với nguồn nhân lực nữ, sự tác động của giáo dục - đào tạo có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng vì không chỉ liên quan đến 1/2 nguồn nhân lực mà còn ảnh
hưởng đến sự phát triển trong tương lai của lực lượng lao động. Điều này xuất phát từ
mối liên hệ giữa học vấn của phụ nữ với sự phát triển của xã hội theo tác động dây
chuyền giữa trẻ em gái - người mẹ - thế hệ tương lai. Các nghiên cứu cho thấy việc
học tập của phụ nữ mang lại những lợi ích đặc biệt quan trọng cho gia đình và xã hội.
Giáo dục cho các em gái có sức tác động mạnh mẽ đối với mọi khía cạnh của sự phát
triển - từ việc hạ tỉ lệ sinh đến việc tăng năng suất lao động và quản lý sử dụng môi
trường. Theo khảo sát của Ngân hàng thế giới năm 2000: Số lần khám thai của phụ nữ
tỷ lệ thuận với trình độ học vấn, tỉ lệ trẻ sơ sinh chết ở các bà mẹ có học vấn bậc trung
học cơ sở giảm hơn 75% so với các bà mẹ không đi học, học vấn của người mẹ cũng
góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng qua cách chăm sóc và khả năng quản lý của
17



các bà mẹ. Những nghiên cứu về sức khoẻ ở Việt Nam cũng cho thấy người mẹ có
học vấn càng cao thì sinh ít con hơn. Quan trọng hơn, học vấn của mẹ còn có tác động
trực tiếp đến việc học của con. Con của người mẹ có học vấn cao hơn có nhiều cơ hội
được đến trường hơn với tỉ lệ cứ ba năm học cao hơn của mẹ tạo ra 10% khả năng đi
học cao hơn cho con. Mối liên hệ giữa khả năng đi học của con với học vấn của cha
cũng có xu hướng tương tự nhưng thấp hơn.
Việc nâng cao địa vị phụ nữ và tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển bền vững
đất nước phụ thuộc rất nhiều vào sự kiên trì thực hiện quốc sách giáo dục - đào tạo.
Giảm khoảng cách về giới trong giáo dục - đào tạo sẽ thúc đẩy sự phát triển toàn diện
nguồn nhân lực trước mắt cũng như lâu dài.
Thứ ba, việc sử dụng đúng lao động nữ là một nhân tố rất quan trọng để phát
huy tiềm năng tri thức và kỹ năng của người lao động nữ. Sử dụng đúng ngành nghề
và trình độ thì người lao động sẽ phát huy được tài năng trí tuệ, tay nghề và ra sức
phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Sử dụng lao động hợp lý sẽ tạo ra môi trường phù hợp
cho người lao động phát triển nhanh chóng. Ngược lại, nếu sử dụng lao động không
hợp lý sẽ làm cho người lao động bị hạn chế thậm chí thui chột khả năng lao động của
mình. Sử dụng lao động nữ hợp lý không chỉ đơn thuần dựa vào kỹ năng, trình độ
chuyên môn nhằm đạt hiệu quả kinh tế trước mắt mà còn phải đảm bảo được sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững và sự bình đẳng giới. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, việc sử dụng lao động nữ sao cho hợp lý và hiệu quả là một trong những vấn
đề rất phức tạp. Có ý kiến cho rằng, đã là nền kinh tế thị trường thì hãy để cho thị
trường lao động quyết định việc lựa chọn và sử dụng các loại lao động. Không ít ý
kiến đã đặt niềm tin vào sự chi phối của cơ chế thị trường trong việc tự động đem lại
sự công bằng xã hội và bình đẳng nam - nữ. Theo chúng tôi, đó là một sự công bằng
máy móc, lạnh lùng, vì trên thực tế bên cạnh chức năng là người lao động như nam
giới thì phụ nữ còn đảm nhận chức năng-thiên chức- sinh con. “Khi thực hiện chức
năng này người lao động nữ chẳng những phải tiêu hao sức vóc, một phần khả năng
lao động mà còn mất hàng thập kỷ về thời gian lao động, hơn thế nữa lại là thời gian

vàng ngọc, trẻ khoẻ, sung sức nhất” [40,tr.8].
18


Vì vậy, sử dụng lao động nữ phải chú ý đến đặc điểm của họ, vừa có chức năng
lao động như nam giới, vừa có chức năng tái sản xuất dân số và nguồn lao động, phải
tính đến tiêu hao sức lực và thời gian của phụ nữ trong việc thực hiện chức năng thứ
hai một cách hợp lý để phụ nữ có điểm xuất phát ngang bằng về mặt sức lao động với
nam giới trong nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, chính sách xã hội là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến
việc quản lý nguồn nhân lực nữ. Chính sách xã hội là một công cụ quan trọng của
quản lý nhà nước nhằm thực hiện và điều chỉnh các mối quan hệ của con người xoay
quanh mối quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Chính sách xã hội đúng đắn vì
hạnh phúc của con người là động lực to lớn khơi dậy tiềm năng của con người, tạo
điều kiện thuận lợi để con người lao động phát huy năng lực sáng tạo của mình đóng
góp cho sự phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Ngược lại, nếu hệ thống chính
sách không phù hợp, thiếu đồng bộ thì nó sẽ trở thành rào cản kìm hãm năng lực và tư
duy sáng tạo của mỗi con người. Như vậy, trong đời sống xã hội, việc tạo động lực
hoạt động cho người lao động thực chất là thiết lập được môi trường pháp lý thuận lợi
cũng như những điều kiện thích hợp để con người có thể phát huy tối đa tính tích cực
và khả năng sáng tạo của mình. Do những đặc điểm về giới tính và giới nên phụ nữ
thường chịu những thiệt thòi hơn so với nam giới. Vì vậy, chính sách xã hội đối với
phụ nữ phải phản ánh được lợi ích và nguyện vọng của nữ giới. Chính sách xã hội phù
hợp với phụ nữ khi nó tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển năng lực của mình trong
mọi hoạt động của đời sống xã hội, đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng giữa phụ
nữ và nam giới.
Thứ năm, truyền thống văn hoá dân tộc có tác động rất lớn đến chất lượng nguồn
nhân lực nữ - nhất là về mặt tinh thần, trên cơ sở đó ảnh hưởng tới việc quản lý nguồn
nhân lực này. Các giá trị văn hốa truyền thống dân tộc là nhân tố quan trọng, là môi
trường lành mạnh để hình thành và phát triển nguồn lực con người nói chung, nguồn

nhân lực nữ nói riêng. Một dân tộc, một quốc gia có truyền thống tốt, những tập quán
lành mạnh, có nền văn hoá phát triển cao thì đó chính là cơ sở điều kiện tốt để xây dựng
19


một nguồn nhân lực vừa có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, vừa có thái độ, tinh thần,
tác phong làm việc tốt. Ngược lại, nếu một dân tộc, một quốc gia có những phong tục,
tập quán lạc hậu thì sẽ kìm hãm sự vươn lên của chính quốc gia, dân tộc đó. Mặt khác,
những đặc trưng văn hoá - xã hội của một dân tộc còn là cơ sở cho việc sử dụng nguồn
nhân lực hợp lý và hiệu quả cao. ″Yếu tố văn hoá và truyền thống dân tộc như tinh thần
lao động, tính kỷ luật cao, tinh thần học tập và niềm tự hào dân tộc đã đưa Hàn Quốc
vươn lên vị trí xứng đáng trong chưa đầy 1/2 thế kỷ qua” .[36, tr.125]
Chúng ta thường hay nhắc tới truyền thống yêu nước, cần cù, thông minh, sáng
tạo trong lao động và những phẩm chất trung hậu, đảm đang, kiên cường... của phụ nữ
Việt Nam. Những truyền thống quý báu và phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam
chính là sức mạnh, là điểm tựa tinh thần để phụ nữ vươn lên đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của
sự phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Liên quan đến việc phát
triển nguồn nhân lực nữ hiện nay, bên cạnh việc phát huy các giá trị văn hoá, truyền
thống dân tộc đề cao vai trò của phụ nữ, quan tâm đến sự phát triển của phụ nữ, thì phải
loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu, lối tư duy theo kiểu “trọng nam, khinh nữ” để
tạo điều kiện cho sự phát triển mọi mặt của phụ nữ vì mục tiêu phát triển kinh tế và tiến
bộ xã hội.
Thứ sáu, gia đình là nhân tố liên quan mật thiết và tác động thường xuyên đến
việc quản lý nguồn nhân lực nữ.
Có thể khẳng định rằng gia đình là tổ chức xã hội đầu tiên có khả năng nhất
trong việc chăm lo cho sự phát triển của mỗi con người trên cả ba phương diện: thể
chất, trí tuệ và tình cảm tâm lý. Sự tác động của gia đình được diễn ra ngay từ khi đứa
trẻ còn trong bào thai đến khi ra đời và sự tác động này tồn tại trong suốt quá trình
sinh trưởng.
Do chức năng sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái mà phụ nữ luôn luôn gắn liền với

gia đình. Đề cập đến sự tác động của gia đình đến nguồn nhân lực nữ cần phải hiểu
đây là sự tác động hai chiều. Gia đình là nơi phụ nữ thực hiện chức năng tái sản xuất
ra con người, nuôi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đồng thời là nơi phụ nữ
tiếp nhận những nguồn lực cho sự phát triển của chính mình. Không thể nói đến quản
20


lý phụ nữ chỉ căn cứ vào sự tham gia hoạt động xã hội mà coi nhẹ vai trò to lớn của
họ trong gia đình. Cũng như không thể chỉ đề cao vai trò của phụ nữ trong gia đình
mà quên đi trách nhiệm của gia đình trong việc chăm lo cho sự phát triển của phụ nữ.
Khi gia đình tái sản xuất ra nguồn nhân lực nữ có chất lượng cao cũng chính là điều
kiện cơ bản để gia đình thực hiện tốt chức năng của mình. Do vậy, phụ nữ được tạo
các điều kiện phát triển toàn diện ngay từ trong gia đình thì chính gia đình cũng sẽ có
những biến đổi tích cực.
Tóm lại, việc quản lý nguồn nhân lực nữ chủ yếu chịu sự tác động của các nhân
tố trên. Mỗi một nhân tố tác động đến từng mặt của nguồn nhân lực nữ và từng mặt
của việc quản lý nguồn nhân lực này. Tuy nhiên, do các đặc điểm về giới tính và giới
nên phụ nữ thường phải chịu những tác động tiêu cực nhiều hơn nam giới. Vì thế khi
xem xét, đánh giá, xây dựng chiến lược phát triển, quản lý nguồn nhân lực nữ cần
phải phân tích đầy đủ và sử dụng tổng hợp tất cả các nhân tố này.
1.2. TẦM QUẢN TRỌNG CỦA VIỆC QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC
NỮ VÀ YÊU CẦU MỚI ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC NỮ
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.2.1. Vai trò của quản lý nguồn nhân lực nữ trong phát triển kinh tế - xã
hội
Là bộ phận cơ bản của nguồn lực con người, nguồn nhân lực nữ có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của các quốc gia. Vấn đề phát huy nguồn nhân lực nữ đã
được Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng ngay từ ngày đầu mới thành lập. Một trong
những luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh là phụ nữ được nhìn nhận như một lực
lượng cơ bản của cách mạng và nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia

vào các cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi được. Phụ nữ
còn được coi là nguồn lực to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. "Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải làm gì? Nhất định phải tăng gia sản xuất thật nhiều.
Muốn sản xuất nhiều thì phải có nhiều sức lao động. Muốn có nhiều sức lao động phải
giải phóng sức lao động của phụ nữ" [16,tr.33].
21


Xuất phát từ vai trò to lớn của phụ nữ, Hồ Chí Minh xác định một cách nhất
quán rằng giải phóng phụ nữ là một trong những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
″…Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.."
[16,tr.167].
Có thể khẳng định rằng: xuất phát từ nhu cầu khách quan về các nguồn lực,
trước hết là nguồn lực con người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi phụ nữ là
động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Để quản lý nhằm phát huy
nguồn lực phụ nữ, các chính sách của Đảng và Nhà nước đã có một cách nhìn nhận
tương đối toàn diện về các vai trò khác nhau mà người phụ nữ gánh vác trong gia
đình và ngoài xã hội. Nhờ kiên trì quan điểm phát huy nguồn lực phụ nữ mà Đảng
ta đã động viên được các tầng lớp phụ nữ tham gia vào công cuộc bảo vệ và xây
dựng đất nước. Vai trò và địa vị xã hội của phụ nữ Việt Nam được nâng cao qua
từng giai đoạn phát triển. Điều này chứng tỏ rằng một trình độ mới về tiến bộ xã
hội thể hiện ở mức độ bình đẳng giới có thể được tạo lập ngay cả trong điều kiện
kinh tế còn chưa thật phát triển.
Ngày nay, quản lý để sử dụng, phát huy nguồn nhân lực nữ càng có ý nghĩa
quyết định đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tầm quan trọng
của việc quản lý nguồn nhân lực nữ thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quản lý nguồn nhân lực nữ sẽ tác động trực tiếp và lâu dài đến sự
phát triển kinh tế - xã hội và phát triển con người.
Phụ nữ là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc tái sản xuất con người. Xã
hội tồn tại và phát triển dựa trên hai cơ sở quan trọng: sản xuất ra của cải vật chất,

tinh thần và tái sản xuất ra bản thân con người. Sản xuất vật chất, tinh thần là cơ sở
của tái sản xuất con người. Ngược lại, tái sản xuất con người lại là tiền đề của sản
xuất vật chất, tinh thần. Vai trò hay ảnh hưởng của phụ nữ đối với xã hội được xét
trên hai phương diện chủ yếu: thứ nhất, phụ nữ tác động đến sự phát triển của xã hội
thông qua các hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần của họ; thứ hai, phụ nữ
tác động đến xã hội thông qua việc thực hiện chức năng trực tiếp tái sản xuất ra bản
22


thân con người. Chiếm phần nửa trong lực lượng lao động xã hội, nên đương nhiên
phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Khái niệm tái sản xuất ra con người bao gồm hai nội dung cơ bản, đó là tái sản
xuất về mặt thể chất và tái sản xuất về mặt tinh thần. Cho dù khoa học kỹ thuật phát
triển đang mở ra khả năng có thể tiến hành việc sinh sản ra con người một cách nhân
tạo thì sự tái sản xuất con người vẫn phải được thực hiện thông qua người phụ nữ. Xét
cả trên phương diện sinh học và phương diện xã hội, người phụ nữ vẫn giữ vai trò
không thể thay thế được. Bởi tái sản xuất ra con người không đơn thuần chỉ là tạo ra
một con người sinh học mà điều quan trọng và chủ yếu hơn là sự giáo dục, nuôi
dưỡng để hình thành và phát triển một con người xã hội, trở thành những công dân
hữu ích cho xã hội. Đối với mỗi con người điều đó lại được bắt đầu chủ yếu và trước
hết bởi người mẹ, không một công nghệ, kỹ thuật thuần tuý nào có thể thay thế được.
Sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay không chỉ chú ý đến vấn đề số lượng dân
số - như một lực lượng lao động chủ yếu, mà điều quan trọng hơn là nâng cao chất
lượng dân số như là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Con người là nhân tố hàng đầu,
quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngay cả khi khoa học công nghệ, kỹ
thuật phát triển như hiện nay, nhân tố con người lại càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã đặt con người vào quá
trình lao động hết sức phức tạp, đòi hỏi một năng lực sáng tạo, một trình độ kỹ thuật
cao và ý thức trách nhiệm rất lớn. Có như vậy, lực lượng vật chất to lớn, đồ sộ của xã
hội mới được sử dụng một cách tốt nhất, hiệu quả nhất và đồng thời chính con người

lại đạt đến một bước phát triển mới, tăng thêm sức mạnh chinh phục thiên nhiên, tăng
thêm động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
"Chất lượng của tái sản xuất xã hội được thực hiện thông qua người phụ nữ là
yếu tố chủ yếu của phát triển nguồn nhân lực và hơn nữa là nguồn đầu tư đặc biệt dài
hạn" [40, tr.26].
Thứ hai, quản lý nguồn nhân lực nữ góp phần thực hiện bình đẳng giới trên
thực tế.
23


Con người vừa là sản phẩm lịch sử vừa là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch
sử. Xã hội dưới mọi hình thức đều chỉ là quan hệ giữa người với người, giữa nam và
nữ. Người phụ nữ trước hết là sản phẩm lịch sử (như người đàn ông) và cũng là chủ
thể sáng tạo ra lịch sử (như người đàn ông). Sự ra đời của loài người gồm có nam và
nữ, họ cùng xuất hiện trong tiến trình phát triển của loài người. Nhưng ở phương Tây
truyền tụng câu chuyện coi phụ nữ - Eva, là cái xương sườn của Adam do Chúa nặn
ra, nữ là một bộ phận cơ thể của nam và phụ thuộc vào nam. Ở phương Đông, người
ta quan niệm rằng vũ trụ hợp nhất bởi âm và dương. Con người cũng vậy, nam giới là
khí dương - biểu tượng cho sức mạnh, quyền năng, thống trị.. còn nữ giới là khí âm
với đặc trưng là sự mềm yếu, nương tựa, phụ thuộc...Câu chuyện khởi thuỷ và những
quan niệm ngây thơ đó được hậu thuẫn bởi sự áp bức, nô dịch phụ nữ về mặt kinh tế
đã trở thành nguyên cớ làm nảy sinh những phong tục tập quán, thiên kiến xã hội đề
cao nam giới, chỉ coi nam giới là chủ thể sáng tạo còn phụ nữ chỉ là đối tượng bị sai
khiến và phải phục tùng. Từ đó đã hình thành và củng cố những quan niệm về địa vị
thấp hèn của phụ nữ suốt bao thế kỷ, đòi hỏi ở người phụ nữ chỉ có trách nhiệm và hy
sinh. “Người ta sinh ra không phải là phụ nữ (với ý nghĩa có sự phân biệt nam nữ về
mặt xã hội) mà trở thành phụ nữ, do kết quả của những định kiến, những phân biệt
đối xử trong lao động và hưởng thụ, trong học hành và nghỉ ngơi” [31, tr.53].
Ngay cả khi vai trò hết sức to lớn, quan trọng, cần thiết của phụ nữ trong quá
trình phát triển được thừa nhận thì địa vị chủ thể của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội cũng chưa được nhận thức một cách toàn diện. Điều đó thể hiện ở chỗ phụ nữ

được coi là động lực và là lực lượng cần thu hút vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, nhưng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khi được xác định lại thường ít tính
đến nhu cầu của phụ nữ. Các vấn đề của phụ nữ mới được nhắc tới, tính đến hay lồng
ghép vào các chương trình, dự án phát triển. Trên thực tế quan điểm này chưa đặt vấn
đề phụ nữ là chủ thể của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Điều này không chỉ hạn
chế khả năng phát huy tính chủ động, sáng tạo của phụ nữ mà có thể làm giảm hiệu
quả xã hội của các quá trình kinh tế. Việc phát triển kinh tế - xã hội một cách lâu bền
vì thế khó có thể thực hiện một cách triệt để.
24


Được coi là hợp lý trong việc đánh giá vai trò của phụ nữ hiện nay là quan điểm
khẳng định mối quan hệ hữu cơ giữa phụ nữ và phát triển, giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội, đồng thời nhấn mạnh vai trò chủ thể của phụ nữ trong quá trình
hoạch định, thực hiện và đánh giá các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Công cuộc
đổi mới kinh tế - xã hội hiện nay đang cho thấy rõ ràng là ″chỉ có thể nói tới phát triển
với nghĩa sâu rộng nhất của từ này nếu phụ nữ có cơ hội phát huy hết năng lực của
mình và có điều kiện phát triển một cách toàn diện và bình đẳng với nam giới”
[1,tr.93].
Khi phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội, các định kiến tư tưởng ″trọng
nam – khinh nữ” đã có nhiều thay đổi. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể
về tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ. So với các quốc gia cùng
trình độ phát triển và thu nhập. Việt Nam có các chỉ số về bình đẳng giới khá cao.
Việt Nam đã cơ bản thu hẹp đáng kể bất bình đẳng về giới trong giáo dục ở tất cả các
cấp học (tỷ lệ nữ học sinh trong năm học 2008-2009 đạt 47,9% ở bậc tiểu học ;
48,5% ở bậc trung học cơ sở ; 52,6% ở bậc trung học phổ thông và 48,5% ở bậc Đại
học). Bình đẳng về việc làm và thu nhập cũng đạt được những bước tiến quan trọng,
hàng năm có khoảng 49% lao động nữ trong số lao động mới được giải quyết việc
làm. Phụ nữ tham gia tích cực hơn trong công tác, quản lý, lãnh đạo, trong các vị trí
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, lãnh đạo các tổ chức chính trị, xã

hội, nghề nghiệp. Điều đó được thể hiện qua tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội trong ba khóa
gần đây đạt được trên 25%, đứng vị trí thứ 2 trong khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương. Tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành TW Đảng nhiệm kỳ 2006 – 2010 là 10%
(trong đó chính thức là 8,3% và dự khuyết là 14,28%), tăng 1,4% so với nhiệm kỳ
2001 – 2005. Ở địa phương, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2004 – 2011 ở cả ba
cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước, đạt 23,9% ở cấp tỉnh, 23% ở cấp huyện và 19,5%
ở cấp xã. Có được những kết quả trên là sự nỗ lực phấn đấu của phụ nữ và toàn xã
hội.
″Phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ và công bằng giới” đã được Liên Hợp Quốc
đưa ra bằng chỉ số phát triển liên quan đến giới viết tắt là GDI (Gender - related
25


×