Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

68 Nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (30.97 MB, 174 trang )

DAI HQC QUOC GIA TP. HO CHi MINH
KHOA

KINH TE

Ha Thi Thiéu Dao

NANG CAO HIEU QUA QUAN LY NQ NUGC NGOAI
TRONG QUA TRINH PHAT TRIEN KINH TE
TAI VIET NAM

Chuyên ngành: Kinh tế học

Mã số: 62.31.01.01

LUAN AN TIEN Si KINH TE

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Nguyễn Văn Luân

ĐAI F82TS¡:Hoàng2
Vĩnh
TP.

HO

THU

CH!

MINH



VIEN

TP. HO CHi MINH - 2006

Long


LOI CAM DOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu

của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ luận án nào khác.

TÁC GIÁ LUẬN ÁN

HẠ THỊ THIÊU DAO


MUC LUC
[rang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh muc cac tir viét tat
Danh mục các bảng biếu, hình vẽ


ii
ili

Vv
vi

MO DAU

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3. Phương pháp nghiên cứu của luận án
6. Những đóng góp khoa học của luận án

7. Kết cấu luận án

m
NY

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

nA AP
DD

1. Tinh cấp thiết của đề tài

1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VẺ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ QUẢN LÝ NỢ


NƯỚC NGOÀI

7

1.1. Cơ sở lý luận về nợ nước ngoài

7
7

1.1.1. Khái niệm nợ nước ngoài và tái cơ cấu nợ nước ngoài

1.1.2. Phân loại luồng vốn vào và phân loại nợ nước ngoài

11

1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngồi

16

1.1.4. Đánh giá tình trạng nợ nước ngồi theo nhóm chỉ tiêu

20

1.1.5. Lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ và các biến số kinh tế vĩ mô

23

1.2. Cơ sở lý luận về quản lý nợ nước ngoài

34


1.2.1. Khái niệm về quản lý nợ nước ngoài

34

1.2.2. Nội dung quản lý nợ

35

1.3. Kinh nghiệm quản lý nợ nước ngoài của một số nước

46


iv

1.3.1. Philippines thất bại trong việc quản lý nợ nước ngồi

46

1.3.2. Các nước thành cơng trong quản lý nợ nước ngồi

49

1.3.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam
Tóm lược chương 1

32
34


Chương 2. ĐÁNH

GIÁ THỰC

TRẠNG

NỢ VÀ QUẢN

LÝ NỢ NƯỚC

NGOÀI CỦA VIỆT NAM

57

2.1. Tống quan quá trình vay trả nợ của Việt Nam qua các giai đoạn

57

2.1.1.Giai đoạn 1975-1988
2.1.2.Giai đoạn 1988 _ 1992

57
60

2.1.3.Giai đoạn 1993 — 2004

62

2.2. Đánh giá thực trạng nợ và quản lý nợ của Việt Nam từ 1993 -2004


63

2.2.1. Đánh giá thực trạng nợ và quản lý nợ từ khía cạnh kỹ thuật

63

2.2.2. Đánh giá thực trạng nợ và quản lý nợ nước ngồi khía cạnh thể chế

96

2.3. Đánh giá chung về thực trạng nợ và quản lý nợ của Việt Nam
Tóm lược chương 2:

102
107

Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUÁ
QUAN LY NQ TRONG TIEN TRINH PHAT TRIEN KINH TE TAI VIET
NAM

109

3.1. Một số quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài

109

3.1.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp và đưa ra các quan điểm

109


3.1.2. Những quan điểm nhằm đảm bảo quản lý nợ nước ngoài hiệu quả

113

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ
3.2.1. Những giải pháp nhằm tăng cường quản lý nợ về mặt kỹ thuật

117
117

3.2.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngồi khía

cạnh thé chế
3.3. Những giải pháp hỗ trợ
3.3.1. Ơn định mơi trường thể chế

144
152
152

3.3.2. Cải thiện môi trường đầu tư

152


3.3.3. Cải tổ hệ thống tài chính
3.3.4. Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân
3.3.5. Thay đơi hình ảnh của Việt Nam trên thị trường tài chính thế giới

157


Tóm lược chương 3:

160

153
158

KẾT LUẬN

162

DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

167

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

168

DANH SÁCH CÁC PHỤ LỤC

177


MO DAU
1. Tính cắp thiết của đề tài
Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác có tỷ lệ tiết kiệm trong
nước thấp và nhu cầu đầu tư cao. Vì vậy, Việt Nam phải dựa vào nguồn vốn nước


ngồi bù dap cho khoản chênh lệch giữa tích lũy và đầu tư nhằm thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Xét riêng khoản vay từ bên ngồi, theo ơng Klaus
Rohland, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, tính đến tháng 12/2004, tổng
số nợ nước ngồi của Việt Nam là 15 ty đô la (tức khoảng 225000 tỷ đồng Việt

Nam), trong đó 3,5 tỷ là nợ của Ngân hàng Thế giới. Tính theo đầu người, mỗi
người dân Việt Nam đang nợ khoảng 180 đô la. Mức nợ này so với các nước chưa
phải là cao. Mỗi người chỉ phải trả khoảng 5 đơ la một năm vì có tới 90% nợ là vốn

vay ưu đãi. Theo báo cáo Tài chính Phát triển Tồn cầu 2005, Việt Nam được xếp
vào nhóm nước thu nhập thấp nợ ít. Đó là tình hình khá lạc quan về tình trạng nợ
hiện thời của Việt Nam.

Tuy nhiên, theo Báo cáo Tài chính Phát triển Toàn năm 2001 (số liệu 1999),
tổng nợ của Việt Nam đã từng lên đến 23,21 tỷ đô la và được Ngân Hàng thế giới
xếp vào một trong ba nước ở châu Á và một trong 42 nước trên thế BIỚI, rơi vào
nhóm nghèo nợ nghiêm trọng (HIPCs: Heavily Indebted Poor Countries). Báo cáo
năm 2002, nợ năm 2000 của Việt Nam ở mức 12,7 tỷ đô la, bằng 43% so với GDP
và 89% so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Dịch vụ nợ của Việt Nam
chiếm khoảng 11% so với kim ngạch xuất khẩu và 7% so với GDP và được ngân
hàng thế giới đánh giá đang ở trạng thái nợ bền vững. Dự đoán đến 2005 dư nợ Việt

Nam sẽ là 34.9% GDP [77]
Như vậy, chỉ trong vòng hai năm, Việt Nam đã giảm dư nợ xuống gần một

nửa. Điều gì đã làm nên điều thần kỳ đó? Có phải do Việt Nam quản lý nợ tốt hơn
trước?

Những năm gần đây, nhờ những tiến bộ vượt bậc trong quá trình phát triển


kinh tế, sự bắt kịp và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã
tăng dần tỷ lệ giải ngân vốn viện trợ cam kết và gần đây nhất Hội nghị nhóm tư vấn


các nhà tai tre CG (Consultant Group) dién ra trong 2 ngày 01 - 02/12/2004 tại Hà

Nội đã cam kết tài trợ cho Việt Nam một số vốn ODA kỷ lục 3,4 tỷ đơ la cho năm
tài khóa 2005 (tăng 600 triệu đô la so với năm 2003). Đây là điều đáng mừng vì

cộng đồng tài chính quốc tế đã đánh giá cao những thành quá kinh tế - xã hội mà
Việt Nam đạt được trong những năm qua. Tuy nhiên, điều đó cũng đặt ra những
thách thức đối với Việt Nam trước cộng đồng quốc tế về việc nâng cao hiệu quả
nguồn vốn ODA, nâng cao khả năng trả nợ và nâng cao năng lực quản lý nợ.
Sự tương phản giữa triển vọng luồng vốn vào và tình hình kinh tế thực tế của
Việt Nam đã đặt ra câu hỏi: Liệu Việt Nam có một chiến lược quản lý việc vay và

trả nợ hợp lý để nguồn vốn vay nợ trở thành một động lực phát triển kinh tế hay
khơng? Liệu với luồng vốn vào Việt Nam có trở thành gánh nặng cho quốc gia, một
rào cân đối với con đường tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước như trước

năm 1999 hay không khi Việt Nam vẫn là nước có thu nhập bình qn đầu người

thấp, nguồn thu để trả nợ từ xuất khẩu khá bấp bênh vì kim ngạch xuất sản phẩm
thơ và sơ chế còn chiếm tỷ trọng khá cao?
Từ những trăn trở muốn tìm hiểu nhờ đâu mà dư nợ của Việt Nam giảm phân
nửa vào năm 2001, những âu lo muốn biết điều gì sẽ xây ra cho quản lý nợ Việt
Nam trong những năm tới và mong muốn đối đầu với thách thức trong khó khăn khi
tìm nguồn tài liệu về nợ đã thôi thúc tôi chọn đề tài: “Nang cao hiéu qua quan ly ng

nước ngồi trong q trình phát triển kinh tế tại Việt Nam ” làm luận án tiến sĩ,


chuyên ngành kinh tế học, để đánh giá thực trạng nợ và quản lý nợ của Việt Nam
trong những thập niên qua, hiện tại cũng như xu hướng trong những năm tiếp theo.

Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm hồn thiện q trình quản lý nợ nước
ngồi của Việt Nam trên bước đường phát triển.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để trả lời cho những điều trăn trở, tác giả cố gắng tiếp cận nhiều tài liệu. Nhìn
chung, trong phạm vi tài liệu tiếp cận cho đến nay, van để này mới chỉ được trình

bày trên một số báo, tạp chí dưới dạng nêu van dé hoặc nêu tổng quan tình trạng nợ


và những bài học cho Việt Nam. Những đề tài nghiên cứu tương đối có hệ thống về
vấn đề này là:
Luận án phó tiến sĩ “Các Giải Pháp Giải Quyết Nợ Nước Ngoài Của

Việt

Nam” (1992) của tác giả Đào Quang Thơng đã trình bày hệ thống tình trạng nợ của
Việt Nam trước năm 1993. Thời điểm mà Việt Nam chưa thực hiện xử lý nợ thương
mại qua Câu lạc bộ Luân đôn, xử lý nợ với Nga và chưa nhận được những cam kết
cho vay liên tục và tăng cao.
Luận văn cao học thuộc chuyên ngành quản trị kinh doanh

“Mộ số vấn dé

quản lý nợ nước ngoài của ngân hàng nhà nước Việt Nam” (1996) của tác giả Hà


Quốc Quyền chuyên sâu về nâng cao hiệu quả của Ngân Hàng Nhà Nước trong

quản lý nợ nước ngồi của chính phủ.
Luận văn cao học (1998) của tác giả Nguyễn Duy Vũ với đề tài: “Nguyên
nhân của khủng hoảng nợ. Bài học cho Việt Nam” cũng đã nêu ra những nguyên

nhân dẫn đến khủng hoảng nợ và sử dụng mơ hình hồi quy tương quan gồm 15 quan

sát để xác nhận tác động của những biến nảy.

Luận án tiến sĩ (2002) của tác giả Tạ Thị Thu với đề tài: “Mộ số vấn đề về
chiến lược vay trả nợ nước ngoài dài hạn ở Việt nam” đã nêu lên thực trạng và
thách thức của nợ nước ngoài của Việt Nam trước năm 2001.
Luận án tiến sĩ “Những giải pháp tăng cường quản ly vay va trad nợ Hước

ngoài ở Việt nam” (2002) của tác giả Nguyễn Ngọc Thủy Tiên đề cập đến những
hạn chế trong khung pháp lý về quản lý nợ trước năm 2002 và giải pháp khắc phục.
Tuy nhiên, do mục đích, nhiệm vụ, phương pháp tiếp cận và thời điểm nghiên

cứu khác nhau, các cơng trình trên chưa nghiên cứu vẻ thực trạng nợ và quản lý nợ

của Việt Nam từ nước thu nhập thấp nợ nghiêm trọng chuyển sang mức nợ bền
vững. Sự hiếm hoi của các công trình nghiên cứu thực trạng nợ của Việt Nam có thể
do thông tin về nợ và quan lý nợ là thơng tin tài chính thuộc dạng nhạy cảm và cũng
có thể do có nhiều khó khăn trong việc thu thập và tổng hợp số liệu, đánh giá thực
trạng nợ nước ngoài của Việt Nam.


Sự phát triển của thực tiễn quản lý nợ nước ngồi tại Việt Nam địi hỏi phải


giải quyết các vấn đề chính:
- _ Những tiêu chí nào làm cơ sở đánh giá hiệu quả quản lý nợ tại Việt Nam?

-_

Mức nợ của Việt Nam liệu có bền vững trong trung hạn?

- _ Việc quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam đã hiệu quả chưa?

- _ Những nguyên tắc, quan điểm và giải pháp nào cho việc nâng cao hiệu quả quản
lý nợ nước ngồi trong q trình phát triển kinh tế tại Việt Nam?

Những vấn đề trên nếu được giải quyết thỏa đáng sẽ tìm ra được những đề
xuất mang tính kỹ thuật và thể chế nhằm nâng cao hiệu quả nợ nước ngồi của Việt
Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nợ nước
ngoài của Việt Nam trong những năm qua. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam trong thời gian tới. Hướng tới
mục đích trên, luận án đề ra các nhiệm vụ sau:

-

Trinh bay, phan tích có hệ thống những vấn đề liên quan đến nợ nước ngoài và

quản lý nợ nước ngoài. Làm rõ các khái niệm nợ nước ngoài, quản lý nợ nước
ngoài, các lý thuyết liên quan đến vấn đề tích lũy nợ, các chỉ tiêu được sử dụng để


đánh giá tính hiệu quả của quản lý nợ cả về khía cạnh thể chế lẫn khía cạnh kỹ
thuật.

- - Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nợ nước ngoài của những nước đã quản lý nợ
thành công và cả những nước không thành cơng để tìm ra những nhân tổ tác động

đến tích lũy nợ nước ngồi.
- _ Phân tích tồn diện thực trạng nợ nước ngoài và quản lý nợ nước ngoài của Việt
Nam; đánh giá những khó khăn, hạn chế, kém hiệu quả trong quản lý nợ và những

nguyên nhân dẫn đến tỉnh trạng này theo các giai đoạn.
- _ Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, luận án sẽ đưa ra các giải pháp khả thi
nhằm giảm bớt gánh nặng nợ nần, duy trì được trạng thái nợ bên vững và nâng cao

hiệu quả quản lý nợ nước ngồi trong q trình phát triển của Việt Nam trong thời


gian tới. Đặc biệt, luận án để xuất xây dựng một nhu cầu vay mượn và khả năng
chịu đựng mức nợ tối đa để đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam
đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu của luận án
- _ Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình quản lý nợ nước ngồi được đánh

giá cả khía cạnh kỹ thuật lẫn thể chế quản lý nợ. Bao gồm mức vay mượn bên ngoài

cần thiết để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế đến năm 2020, những điều khoản

và điều kiện vay mượn phù hợp với khả năng hoàn trả trong tương lai, khía cạnh thể
chế nhằm gia tăng hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam trong thời gian tới.


-_

Về thời gian, giới hạn nghiên cứu của để tài là từ sau năm 1975 cho đến nay.

Đặc biệt chú ý giai đoạn 1993-2004: giai đoạn Việt Nam thực sự chuyển đổi từ nền

kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà

nước và thực sự trở lại với cộng đồng tải chính quốc tế.
- Vé khơng gian, luận án nghiên cứu trên địa bàn cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, để tài
luận án được nghiên cứu bằng các phương pháp cụ thể:
Thứ nhất, luận án thuộc chuyên ngành kinh tế học nên phương pháp phân tích,
tổng hợp được sử dụng xuyên suốt nhằm làm rõ các mối quan hệ giữa nợ và các

biến số kinh tế vĩ mô. Thứ hai, phương pháp thống kê mô tả và so sánh, đối chiếu
được áp dụng để đưa ra một cái nhìn bao qt về tình hình nợ và đo lường tính hiệu
quả về quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam. Phương pháp này cho phép luận án

phân tích và lựa chọn những thơng tin xác thực, điển hình giúp cho việc lượng hóa
tình hình nợ một cách chính xác. Thứ ba, phương pháp dự báo sử dụng mơ hình
Jaime de Pines nhằm tính tốn mức vay nợ tối thiểu và khả năng chịu đựng được
nợ. Thứ tư, phương pháp phân tích ma trận SWOT nhằm đánh giá tỗổng quan điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội, cản ngại trong quản lý nợ để đề ra những giải pháp kết hợp
một cách hiệu quả.


6. Những đóng góp khoa học của luận án

- _ Hệ thống hóa các quan điểm vay mượn nhằm đảm báo quản lý nợ hiệu quả.
Chuẩn xác và làm rõ cơ sở của việc xây dựng các chỉ tiêu đánh giá tình trạng nợ mà
trước giờ các nghiên cứu thường hay sử dụng như một thói quen. Tổng hợp, so

sánh, đánh giá, hệ thống hóa được các lý thuyết vĩ mơ về ngun nhân tích tụ nợ và
các lý thuyết quản lý nợ nước ngoài hiệu quả.

- _ Sưu tầm, tổng hợp và phân loại một khối lượng lớn tài liệu có liên quan đến vấn
đề nợ của Việt Nam trong thời kỳ từ 1975 cho đến nay. Đây sẽ là những tài liệu
không chỉ phục vụ cho việc nghiên cứu để tài mà cịn cung cấp một cái nhìn tổng

quan về quá trình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ 1975 đến nay.
- _ Phân tích, rút ra những bài học kinh nghiệm của các nước đi trước trong quản lý
nợ nước ngoài giúp Việt Nam tránh những sai lầm mà các nước khác đã trải qua.

- _ Dựa trên những nền tảng các lý thuyết về quản lý nợ nước ngồi được trình bày

theo cách đối chiếu, so sánh giữa thông lệ quốc tế với đặc thù của Việt Nam, luận
án đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống về thực trạng nợ, tính hiệu quả của
quản lý nợ của Việt Nam trong thời gian qua ở cả khía cạnh kỹ thuật lẫn thé chế.
- - Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ về mặt thể chế và kỷ
thuật. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hỗ trợ nhằm tạo môi trường cho quản lý
nợ hiệu quả.

7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án

gồm ba chương:
Chương l: Cơ sở lý luận về nợ nước ngoài và quản lý nợ nước ngoài.
Chương 2: Đánh giá thực trạng nợ và quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam.


Chương 3: Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ trong
tiến trình phát triển kinh tế tại Việt Nam


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VẺ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI
1.1. Cơ sở lý luận về nợ nước ngoài
1.1.1. Khái niệm nợ nước ngoài và tái cơ cấu nợ nước ngoài

1.1.1.1. Khái niệm vỀ nợ nước ngoài
Nợ nước ngoài là một khái niệm cần làm rõ để quản lý một cách hiệu quả, với

cách hiểu khác nhau sẽ cho số liệu khác nhau dẫn đến đánh giá và giải quyết vấn đề
nợ khác nhau.
Theo quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài, (Ban hành kèm nghị định số
90/1998/NĐ/CP ngày 07/11/1998 của Chính phủ) thì khơng gọi là nợ mà gọi là vay
nước ngồi: “vay nước ngoài là khoản vay ngắn, trung và dài hạn (có hoặc khơng có
lãi) do nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hoặc doanh nghiệp là pháp nhân
Việt Nam (kế cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi) vay của tổ chức tài chính

quốc tế, của chính phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức và cá nhân
nước ngoài khác (sau đây gọi là bên cho vay nước ngoài)” [7]. Như vậy, theo cách
hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các khoản vay mượn của tắt cả các pháp nhân Việt
Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và

hộ gia đình).

Theo [20, 3.57, “Tơng nợ nước ngồi là tổng khối lượng tài sản nợ (tính theo

giá trị hiện tại) cam kết đối với những người không cư trú. Cam kết ở đây được hiểu

là nghĩa vụ cam kết đối với các khoản nợ ngắn hạn, dài hạn đã được giải ngân, của
trái phiếu và tín dụng thương mại (kể cả nợ gốc lẫn lãi)”. Theo khái niệm này, nợ
nước ngoài là nợ của người cư trú đối với người không cư trú; không phân biệt loại

tiền tệ, không phân biệt thời hạn.
Theo 8 tổ chức quốc tế nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài, gồm Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế, Ban thư ký Khối Thịnh vượng chung, Tổ chức Thống kê Châu

Âu, Quỹ tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Ban thư ký Câu lạc
bộ Paris, Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên Hiệp Quốc, nợ nước ngoài
được thống nhất định nghĩa: “Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào, là tổng


dư nợ của các nghĩa vụ nợ tại thời điểm đó, khơng bao gồm

các nghĩa vụ nợ dự

phịng, địi hỏi người đi vay phải thanh tốn nợ gốc có hay khơng có lãi trong trong

lai và khoản nợ này là nợ của người cư trú với người không cư trú trong quốc gia”
[74, tr.7].
Như vậy, theo định nghĩa được quốc tế thừa nhận rộng rãi này, nợ nước ngoài

của một nước là tất cả các khoản nợ của nước đó với nước ngồi, bất kế người đi
vay là Chính phủ, các Tổ chức của Chính phủ hay các doanh nghiệp tư nhân; các

chủ nợ có thể là các Tổ chức quốc tế, Chính phủ, các Tổ chức thuộc Chính phủ hoặc
các doanh nghiệp tư nhân nước ngồi.

Có sự khác nhau khá cơ bản giữa khái niệm nợ của Việt Nam và các tổ chức

quốc tế về thông kê nợ. Khái niệm nợ của Việt Nam chỉ tính các pháp nhân khơng
tính các thể nhân trong khi đó nợ theo các tổ chức quốc tế về thống kê nợ bao gồm
nợ của “người cư trú” nghĩa là tính cả nợ của các thể nhân; về thời hạn nợ của Việt

Nam chia ra nợ ngắn hạn, trung han va dai hạn trong khi đó nợ theo các tỗ chức

thống kê nợ quốc tế chỉ có đài bạn và ngắn hạn. Tuy nhiên, sự khác biệt này không
ảnh hưởng đến đánh giá về nợ của Việt Nam vì hiện tại Việt Nam vẫn chưa cho
phép thể nhân vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, về lâu về dài, khái niệm nợ của Việt

Nam phải được điều chỉnh lại cho phù hợp với thông lệ quốc tế vì Việt Nam cũng
đang trong tiễn trình hội nhập quốc tế.
Vì có nhiều khái niệm nợ khác nhau, luận án sẽ phân tích dựa trên định nghĩa

được chấp nhận chung bởi 8 tổ chức quốc tế. Đây là khái niệm nợ được dùng để

đánh giá tình trạng nợ của các quốc gia trong WDT bây giờ là GDF”. Khái niệm nợ

và số liệu này hồn tồn có thể sử dụng để đánh giá tình trạng nợ của Việt Nam vì:

(0 Nợ theo thống kê trong GDF được cung cấp bởi các cơ quan hữu quan của Việt
Nam; (ii) GDF là báo cáo tình trạng nợ của WB, một tổ chức chuyên về thống kê

nợ, đặc biệt là nợ dài hạn, tương đối trung dung về mặt chính sách nên số liệu này
đáng tin cậy và chấp nhận được; (ii) số liệu trong GDF là số liệu hệ thống, có thé
! Ngân hàng thế giới xuất bản báo cáo hàng năm về nợ và tài trợ bên ngoài vào các nước đ:
tên WDT (World Debt Tables- Bảng nợ thê giới ) lần đầu tiên năm 1989. Từ năm 1997 đến
đổi tên thanh GDF (Global Development Finance


- Báo cáo tài chính tồn cầu) [70, tr. 21].


so sánh được qua các năm, đáp ứng được yêu cầu quản lý sao khơng có một khoản

ng nao tính thiếu, khơng có khoản nợ nảo tính trùng.

11.12. Tải cơ cẫu nợ nước ngoài
Tái cơ cầu nợ hay tái tổ chức nợ có nhiều đạng: (ï) Thay đổi kỳ hạn nợ là hoãn

trả nợ cho tới một thời điểm thuận tiện trong tương lai; (ii) Xóa nợ là bất kỳ việc cắt
giảm nào về giá trị của khoản nợ theo hợp đồng. Điều này có thể thực hiện được
bằng nhiều cách khác nhau, rõ ràng nhất là xóa tồn bộ nợ [Corden trích trong 21,
tr. 280]; (ii) Giảm giá trị hiện tại của khoản nợ là bất kỳ biện pháp nào làm giảm
giá trị hiện tại của các khoản thanh tốn tới hạn, ví dụ kéo dài thời gian ân hạn. Cần

lưu ý rằng thay đổi kỳ hạn nợ có thể làm giảm các khoản thanh toán, quốc gia đi
vay có thể có thêm nguồn lực đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu thay
đổi kỳ hạn nợ mà chỉ làm giảm các khoản thanh toán trong ngắn hạn, làm tăng năng

lực trả nợ trong tương lai nhưng làm tăng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi sau này thì
khơng xem là giảm giá trị hiện tại của khoản nợ [21, tr. 280); (iv) Giam ng 1a bat ky
biện pháp nào có thể giảm giá trị khoản nợ của một quốc gia [96], ví dụ nợ có thể

chuyển thành vốn sở hữu, mua lại nợ, hoặc chuyên thành trái phiếu dài hạn với một
suất chiết khấu. Giảm nợ có thé làm giảm giá trị khoản nợ nhưng khơng chắc sẽ làm

giảm các khoản thanh toán trong tương lai. Ví dụ, chuyển nợ thành vốn sở hữu nợ
sẽ giảm nhưng các khoản thanh tốn khơng giảm mà chỉ thay thế khoản thanh toán


lãi suất trước đây bằng thanh toán cổ tức. Trong dài hạn các khoản thanh toán sẽ
thật sự gia tăng [21, tr. 280] và [78, tr. 373].

Ban đầu tái cơ cầu nợ thường được thực hiện thông qua hình thức chuyên nợ
thành vốn, nhưng về sau càng có nhiều nghiệp vụ khác được áp dụng hơn. Theo
[78, tr. 375] có 5 dạng nghiệp vụ thường gặp trên thị trường thứ cấp:

Thứ nhất, chuyển nợ thành vốn là nghiệp vụ liên quan đến việc mua nợ trên

thị trường thứ cấp, rồi chuyển thành vốn đầu tư vào nước đi vay. Việc mua nợ

thường áp dụng với một mức chiết khấu. Đồng ngoại tệ của khoản nợ vì vậy có thể
chuyển sang trái phiếu hoặc cổ phiếu bằng đồng tiền của nước đi vay. Nợ chuyển


10

thành đầu tư vào các dự án bảo vệ môi trường, phúc lợi xã hội cũng thuộc dạng này
[15, tr.16]. Nghiệp vụ này thường được sử dụng nhất.

Thứ hai, chuyển đổi nợ: các khoản nợ ngân hàng được chuyển thành các dạng

trái quyền khác, thông thường là trái phiểu như trái phiếu chiết khấu, trái phiếu
ngang giá; các trái phiếu này có thể được đám bảo bằng ký quỹ cho phần gốc hoặc

lãi, giá trị trái phiếu có thể bằng hoặc thấp hơn giá trị khoản nợ và lãi suất có thể cố
định hoặc thả nỗi. Mua nợ trả bằng hàng hoá xuất khẩu hoặc bằng viện trợ cũng
thuộc dạng này.
Thứ ba, chuyển đổi nợ thành nợ: các ngân hàng sẽ mua bán các khoản nợ của


khách hàng trên thị trường nợ thứ cấp theo mức chiết khẩn được định bởi thị trường
nay [18]. Tai tai tro hay còn gọi là khoản vay bắc cầu - khoản vay mới được sử
dụng để trang trải nợ cũ cũng thuộc nhóm

này. Tuy

nhiên, hình thức tái tài trợ

khơng phổ biến ở các nước đang phát triển vì thị trường tài chính ở các nước này

kém phát triển và khả năng tiếp cận thị trường vốn quốc tế còn hạn chế [64, tr. 11].
Thứ tư, mua lại nợ: nước đi vay được phép mua lại nợ bằng cách trả tiền mặt

cho nước cho vay. Thông thường các nước đi vay sẽ trả nợ gốc với một mức chiết
khấu. Đây là một dạng của trả nợ trước hạn nhưng có thể có những miễn giảm.
Thứ năm, bán nợ bằng tiền mặt: một ngân hàng hay một nhà đầu tư mua lại
một khoản nợ. Đây là cách quen thuộc mà người cho vay hay làm khi muốn rút khỏi
một quốc gia đi vay nào đó. Tuy nhiên, người cho vay đầu tiên phải chịu một khoản

lỗ đáng kể [33, tr. 13].
Các nghiệp vụ xử lý nợ này thường liên quan đến các chủ nợ là các ngân hàng,

nhà đầu tư, cơng ty cung ứng hoặc Chính phú và nhà trung gian môi giới. Nghiệp
vụ xử lý nợ do các nhà chuyên môn ở các ngân hàng thương mại, công ty dau tu va

các tổ chức chuyên doanh thực hiện. Nghiệp vụ này có thể tiễn hành bằng nhiều
hình thức, kỹ thuật rất phức tạp, đặc biệt là việc thiết lập các chứng từ giao dịch
[18]. Nghiên cứu sẽ khơng đi sâu phân tích khía cạnh kỹ thuật của các nghiệp vụ
này.



11

1.1.2. Phân loại luồng vốn vào và phân loại nợ nước ngoài
Phân loại nợ nước ngoài trước hết phải dựa trên luồng vốn vào để nắm được

tính chat, cơ cấu của từng loại vốn, từ đó lựa chọn cơ cấu vốn phù hợp đáp ứng nhu
cầu tăng trưởng ổn định, giúp quản lý nợ nước ngoài hiệu quả hơn.

1.1.2.1. Phân loại lung vẫn vào theo xuất xứ vẫn
Dòng vốn vào một quốc gia có cấu trúc nhự trong hình 1.1.
Dịng vốn vào

Tài trợ phát triển chính thức
Viện trợ phát triển

chính thức

————

Viện trợ
khơng

YF

Tài trợ phát triển

chính thức khác


Viện trợ
có hồn

hồn lại

Vốn tư nhân

[
'—==—=—Y-"_—`

Đâu i“

Dau tu

ngoai

khốn

TP || chứng

Vay thương mại

lại

`

Vay tur

nhân
fe


Tín dụng thương mại

Nguon: [101].

Hình 1.1: Cơ cầu luồng vốn vào
Trong đó, tài trợ phát triển chính thức (ODF) thường là luồng vốn ưu đãi (lãi

suất thấp, thời hạn vay dài, thời gian ân hạn dài) đầu tư vào cơ sở hạ tầng sản xuất
và xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và thu hút đầu tư ở

nước tiếp nhận. Trong luồng tài trợ phát triển chính thức, viện trợ phát triển chính
thức (ODA) chiếm tỷ trọng cao.

Luỗng vốn tư nhân đỗ vào các nước đang phát triển thường dưới dạng: (¡) đầu
tư trực tiếp; (ii) đầu tư chứng khoán; (i1) khoản cho vay tư nhân khác như cho vay
thương mại, tín dụng thương mại và (iv) các khoản chuyến vốn của các tổ chức phi
chính phủ.


12

Đầu tư trực tiếp (FDI) là đầu tư để nắm giữ quyền quản lý lâu dai (thông
thường 10% cỗ phiếu có quyền bỏ phiếu) tại một cơng ty ở một quốc gia khác với

quốc gia của nhà đầu tư. Đầu tư trực tiếp gồm ba phần: vốn chủ sở hữu, tái đầu tư từ

lợi nhuận để lại và các khoản vay ngắn han va dai han [82, tr. 20]. Như vậy, vốn
đầu tư trực tiếp ở dạng vốn chủ sở hữu và tái đầu tư từ lợi nhuận để lại làm tăng tài
sản của người nước ngoài tại nước nhận vốn nhưng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

ở dạng vốn vay là khoản nợ của pháp nhân nước nhận đầu tư đối với cá nhân hoặc
tổ chức nước ngoài.
Đầu tư chứng khốn hay cịn gọi là danh mục đầu tư là dạng mua chứng khoán
nợ, chứng khoán cỗ phần hoặc các công cụ phái sinh. Danh mục đầu tư là tổng các

nguồn quỹ tài trợ quốc gia, biên nhận tiền gởi và trực tiếp mua các cổ phần bởi nhà
đầu tư nước ngoài. Nếu việc mua cổ phiếu được thực hiện theo các đầu cơ vốn ngắn

hạn cé thé thúc đây thị trường tài chính vận hành và cũng có thể tạo nên những cú

sốc kinh tế [46, tr. 75], [56], [69, tr. 26].
Khoản cho vay tư nhân gồm: (¡) khoản vay thương mại: vay theo điều kiện của

thị trường tiền tệ quốc tế (không được ưu đãi); (ii) khoản tín dụng thương mại:
khoản vay giữa các doanh nghiệp với nhau thường liên quan đến mua bán hàng hóa
trả chậm; (iii) khoản chuyển vốn của các tổ chức phi chính phủ nước ngồi đưới
dạng viện trợ tài chính hoặc hiện vật thơng qua việc cung cấp các hàng hóa và dịch

vụ. Những khoản này thường rất khó có số liệu thống kê chính thức và với lãi suất
thương mại của các khoản vay, nếu không sử dụng hợp lý rất dễ trở thành gánh

nặng về nợ nước ngoài của quốc gia trong tương lai.
Như vậy, dựa trên đặc điểm, tính chất các nguồn

vốn, có thể rủi ra các nhận

xét sau:

Thứ nhất, tài trợ phát triển chính thức là luồng vốn có tính ưu đãi cao và nhằm
hỗ trợ mục tiêu phát triển ở các quốc gia tiếp nhận. Tuy nhiên, “tài trợ phát triển

chính thức là thị trường vốn đặc biệt căng thẳng về nguồn cung và có tính cạnh
tranh cao” [6, tr. 136] và chỉ cung cấp cho các nước thuộc nhóm thu nhập thấp nên
cần có chính sách thu hút luồng vốn này. Bên cạnh đó, các nước tiếp nhận luồng


13

vốn này nên sử dụng cho các dự án có thời gian thu hồi vốn dai, nhưng cần thiết cho

nền kinh tế, khơng nên dùng vốn này vào mục đích kinh doanh bình thường [45].
Thứ bai, đối với luồng vốn tư nhân, nên thu hat FDI do tác động tích cực của
nó như: (¡) khơng gây nợ (nếu chính xác thì phải nói là khơng gây nợ trực tiếp); (ii)

đi kèm với vốn là kỹ thuật, cơng nghệ, bí quyết kinh đoanh và năng lye tiép thi; (iii)
phát triển nhiều ngành nghề mới, đặc biệt là các ngành nghề đời hỏi cao về kỹ thuật
— công nghệ [6, tr. 30] và [20, 3.67]. Xu hướng thay đổi của luồng tài chính gần đây
cho thấy sự gia tăng nhanh chóng của luồng đầu tư tư nhân trong tổng nguồn vốn

nước ngoài và sự gia tăng mạnh của đầu tư trực tiếp cả về khối lượng tuyệt đối lẫn
ty trong {6, tr. 72]. Sự tăng lên này là do sự lớn mạnh không ngừng của các công ty
đa quốc gia với chiến lược mở rộng đầu tư và sự ưa chuộng hình thức đầu tư này ở
hầu hết các nước đo những đặc điểm phù hợp với yêu cầu tăng trưởng nhanh [6, tr.

136]. Tuy nhiên, cần lưu ý rang FDI: (i) dé làm lệch cơ cấu kinh tế vì liên quan trực
tiếp đến lợi ích của bên nước ngồi bỏ vốn nên họ thường chọn các lĩnh vực tương

đối dễ làm, dé thu hồi vốn, và các khu vực có cơ sở hạ tầng khá phát triển; (ii) có
thể làm tăng một số luồng luân chuyên vốn ra bên ngoài khi lợi nhuận được chuyển

về nước; (ii) không tạo nợ nhưng lại kéo theo một lượng vay thương mại đáng kể

làm tang chi phi tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai; (iv) có xu hướng chạy sang
các nước đã phát triển hơn là đang phát triển. Do vậy, cần có một cơ chế thu hút

FDI, đặc biệt là cơ chế chuyền lãi ra nước ngoài sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp

thuế [45].
Thứ ba, các khoản tín dụng thương mại tương đối nhỏ, chỉ vài tỷ đô la mỗi
năm cho tất cả các nước đang phát triển. Nguồn này có thời hạn trả nhanh và lãi
suất cao nên cần thận trọng duy trì chúng ở mức độ phù hợp với kim ngạch ngoại

thương, đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu [29], [86]. Chỉ nên dùng như một nguồn bỗ
sung không nên dùng đẻ tài trợ cho tiêu dùng [45].

Thứ tư, cần chú ý là nguồn vốn tư nhân thơng thường mang tính chất đầu cơ,
khơng ổn định và nhằm vào tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn hơn là hỗ trợ các mục

tiêu phát triển dài hạn. Do vậy cần sử dụng một cách thận trọng để tránh xu thê vôn


14

đảo dòng, một hiện tượng thường xảy ra khi nhà đầu tư thiếu lòng tin vào nền kinh

tế trong nước (đặc biệt trong điều kiện lạm phát cao, ty giá hối đoái bị giảm, lợi

nhuận dự đoán thu được từ tài sản tài chính bằng đồng nội tệ thấp hơn so với lợi
nhuận thu được từ tài sản ngoại tệ) [56]. Bên cạnh đó, ở nhiều nước đang phát triển,
các cơng cụ trên thị trường tài chính cịn nghèo nàn, các luồng vốn ra bên ngồi

thường khơng được ghi chép trong các thống kê chính thức trong khi xu hướng hội


nhập kinh tế quốc tế của các thị trường tài chính thế giới càng tăng, luồng vốn tư
nhân càng nhiều [20, 3.69]. Điều này đòi hỏi phải đánh giá đúng luồng vốn này để
có giải pháp thích hợp.
1.1.2.2. Phân loại nợ nước ngồi
Trong số các luồng vốn vào, có những luồng vốn gây nợ và không gây nợ.
Luồng gây nợ bao gồm: nợ dài hạn, trái phiếu,

nợ ngắn hạn, tín dụng thương mại

[20, 3.58]. Luồng không gây nợ bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngồi rịng, danh
mục đầu tư (dạng mua cổ phiếu), viện trợ khơng hồn lại chính thức trong đó khơng

tính hợp tác kỹ thuật. ODA được xếp một phần vào luồng không gây nợ (phần cho
không ) và một phần vào luồng gây nợ (khoản cho vay).
Luéng vốn gây nợ tạo rủi ro cao hơn cho nước di vay nhưng hứa hẹn lợi tức

cao hơn [86]. Tuy nhiên, luồng vốn gây nợ thường gây ra nhiều biến động đối với

nên kinh tế nên thông thường để quản lý và theo dõi các nước có thẻ thực hiện phân
loại theo các cách khác nhau tùy theo mục đích của quốc gia. Chủ yếu nợ nước
ngồi được phân loại theo các tiêu chí sau:
Phân loại theo điều kiện vay: ưu đãi và không ưu đãi. Theo định nghĩa của Uỷ

ban Hỗ trợ phát triển, khoản vay ưu đãi là khoản vay trong đó yếu tố viện trợ từ
25% trở lên; yếu tố viện trợ của một khoản vay là giá trị cam kết của nó trừ đi giá trị

dịch vụ nợ phải thanh tốn theo hợp đồng (tính bằng giá trị hiện tại với suất chiết
khấu theo thông lệ là 10% ) [69, tr. 25] và ngược lại là khoản vay không ưu đãi.
Phân loại theo thời hạn vay: ngắn hạn và dài hạn. Nợ ngắn hạn từ 1 năm trở


xuống và nợ đài hạn trên 1 năm. Nợ ngắn hạn là những khoản nợ có ảnh hưởng frực
tiếp đến tình hình thanh khoản của quốc gia và có khả năng gây ra khủng hoảng


15

kinh tế như kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng ở châu Á năm

1997 vita qua. Do

vậy, cần phải điều chỉnh đến mức thấp nhất những khoản nợ ngắn hạn để giảm bớt
áp lực thanh toán và những tác động tiêu cực lên nền kinh tế khi có sự rút lui đột
ngột các luồng vốn ngắn hạn.
Phân loại theo chủ thể đi vay: nợ chính thức (khu vực cơng) và nợ tư nhân
(khu vực tư). Nợ chính thức hay nợ chính phú bao gồm nợ của các tổ chức Nhà
nước (đối với một liên bang thì gồm cả nợ của các bang trong liên bang) và nợ của

cơ quan hành chính, tỉnh, thành phố. Ngoài ra, các khoản nợ của khu vực tư nhân do
nhà nước hoặc tổ chức chính thức bảo lãnh cũng được coi là nợ chính thức vì chính
phủ của nước đi vay sẽ chịu trách nhiệm trả vốn và lãi cho nước cho vay trong
trường hợp tổ chức di vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết trong hợp
đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp chính quyền địa phương hoặc doanh nghiệp vỡ
nợ thì nghĩa vụ nợ bất thường có thể đè lên vai chính phủ trung ương, tùy thuộc vào

điều khoản được quy định trong luật lệ về vay mượn [64, tr.12] hoặc trong bối cảnh
khủng hoảng. Trong khi đó các khoản nợ do doanh nghiệp trực tiếp vay mượn hoặc
đo chính quyền địa phương mượn khơng được bảo lãnh của chính phủ trung ương là
nợ tư nhân. Nợ tư nhân thường là nợ trên thị trường trái phiếu, nợ ngân hàng thương
mại và các tư nhân khác [69, tr. 26]. Chính vì vậy, nợ chính thức và nợ tư nhân phải

được phân tích riêng vì có những yếu tố ánh hưởng khác nhau và chính phủ cũng
phải tính đến các khoản nợ dự phòng cho các nghĩa vụ nợ bắt thường.
Phân loại theo chủ thể cho vay: nợ đa phương và nợ song phương. Nợ đa
phương đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ
Tiền tệ Quốc tế, các ngân hàng phát triển khu vực, các cơ quan đa phương như
OPEC và liên chính phủ. Trong khi đó, nợ song phương đến từ chính phủ một nước
như các nước thuộc OECDỶ và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân

danh một chính phủ duy nhất dưới các dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng

hiện vật [45] và [46 , tr. 72].
? OECD mỗi năm khuyến cáo các nước thành viên để dành 0,7%GDP để tạo vốn ODA hỗ trợ cho các nước
đang phát triển có thu nhập đầu người thuộc nhóm có thu nhập thắp (dưới 765 đơ la/ người/ năm).



×