Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.64 KB, 19 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Quan niệm về văn hóa chính trị
Trước hết, chúng ta hiểu văn hóa là toàn bộ những sản phẩm, những
vật thể hay giá trị dưới dạng vật chất và tinh thần do con người và loài
người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn để phục vụ cuộc
sống của con người, để thực hiện sự phát triển và tiến bộ xã hội. Văn hóa
thể hiện sức mạnh bản chất người, là trình độ người trong phát triển mà
mỗi thời đại đạt được trong tiến trình lịch sử, hướng tới chân - thiện - mỹ,
vì hạnh phúc và tự do của mỗi người. Còn chính trị là quan hệ giai cấp, dân
tộc trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị nhằm thực hiện quyền
con người.
Văn hóa chính trị là thể hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa văn
hóa với chính trị, giữa chính trị với văn hóa. Văn hóa chính trị nâng hoạt
động chính trị của con người và của tổ chức lên trình độ văn hóa, làm cho
hoạt động chính trị mang tính tự giác, chủ động và sáng tạo, nâng cao tính
tích cực chính trị của quần chúng. Văn hóa thấm sâu vào chính trị, nâng
chính trị lên tâm văn hóa chính trị, làm cho chính trị trở thành khoa học,
cách mạng và nhân văn. Chính trị của giai cấp công nhân, chính trị trong
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là chính trị kiểu mới với
những bản chất đặc trưng và cách mạng nhất. Vậy văn hóa chính trị là tổng
hợp những giá trị vật chất, tinh thần được hình thành trong thực tiễn chính
trị. Nó là cái góp phần chi phối hoạt động của các cá nhân, của các nhà
chính trị, định hướng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời sống
chính trị để phục vụ lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định.

1


Văn hóa chính trị góp phần định hướng mục tiêu hoạt động cho các


tổ chức chính trị, đặc biệt là Đảng và Nhà nước, cho các phong trào chính
trị trong một xã hội nhất định.
2. Thực trạng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay
2.1. Chúng ta có chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là bộ phận cốt lõi trong văn hóa chính trị ở nước ta
Khi nói đến truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, chúng ta muốn
nói đến cái phần chủ yếu, cái phần cốt lõi của nó, đó là nội dung tình cảm,
tư tưởng, đạo lý, được chứa đựng trong cái biểu hiện rất phong phú, đa
dạng nhằm thể hiện tâm hồn, cốt cách và bản lĩnh của dân tộc ta, hòa quện
với nó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ
Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là
tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta
tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lênin tin tưởng và yêu cầu Đảng Cộng sản phải trở thành trí tuệ,
danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta. Lênin chỉ ra rằng: "Chúng ta
không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả
xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn
khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về
mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống" (1). Thực
tiễn đã chỉ cho chúng ta phải sáng tạo và vận dụng một cách khoa học,
không áp dụng giáo điều máy móc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược
là cuộc chiến không cân sức, chúng ta đã toàn thắng, câu hỏi đặt ra tại sao
Việt Nam thắng Mỹ, vẫn là câu hỏi lớn làm đau đầu nhiều chính khách Mỹ.
Chúng ta không thể lấy vật chất để đánh đổ lực lượng vật chất, mà chúng ta
() V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tập 34, tr. 122.

1


2


lấy văn hóa chính trị Việt Nam để thắng Mỹ, ông cha ta đã lấy "chí nhân
thay cường bạo", "lấy đại nghĩa thắng hung tàn", "lấy văn minh thắng bạo
tàn". Chúng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim
chỉ nam cho hành động cách mạng của mình. Lênin yêu cầu rất cao đối với
những người cộng sản đó là: Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản
khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri
thức mà nhân loại đã tạo ra. Dân tộc ta đã biết chắt lọc, biết chưng cất
những giá trị văn hóa của nhân loại để làm giàu cho chính mình, cho dân
tộc mình, văn hóa chính trị không chỉ giúp con người sự lựa chọn mà còn
giúp cho con người biết vận dụng mọi tri thức và kinh nghiệm để sáng tạo
và phát hiện ra những tri thức mới trong thực tiễn cuộc sống. Có biết bao
nhà cách mạng đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng trong số họ sự
thành công rất ít. Bởi họ áp dụng máy móc tư tưởng của Mác, Ăngghen,
Lênin, thiếu sự nhạy bén chính trị. Việc áp dụng thành công trong cách
mạng nước ta, đó là sự chọn lựa mang tính sáng tạo của Hồ Chí Minh trong
việc xác định mục tiêu, đường lối chính trị. Đó là quá trình tích lũy văn hóa
từ tri thức, kinh nghiệm, vốn sống thực tế kết hợp truyền thống dân tộc và
các giá trị tinh thần nhân đạo mang tính phổ quát, để ứng xử trước tình thế
cách mạng dân tộc và thời đại đặt ra.
Trong cuốn Đường Cách mệnh Hồ Chí Minh đã viết: Sửa xã hội cũ
đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là việc khó. Nhưng biết cách làm, biết
đồng tâm hiệp lực mà làm thì làm chắc chắn được. Hồ Chí Minh còn giải
thích: Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. Vì sao cách mệnh là
việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. Đem lịch sử
cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem phong trào thế giới
nói cho đồng bào ta rõ. Cách mệnh thì phải làm thế nào.

Hồ Chí Minh đã khơi dậy truyền thống ngàn năm của lịch sử Việt
Nam, văn hóa chính trị Việt Nam kết hợp phương Đông, phương Tây và tư
tưởng cách mạng Mác - Lênin. Tư tưởng dựa vào sức mạnh của nhân dân:
dân là gốc, chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng đoàn kết
3


dân tộc từ huyền thoại "Tiên rồng". Ngày nay, trong thời đại mới, Hồ Chí
Minh đã phát triển những tư tưởng đó lên một chất lượng mới: "Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công". Hồ Chí
Minh la người giáo dục, sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Người thấy rõ vai
trò to lớn của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Cách mạng
trước hết phải có gì? trước hết phải có đảng cách mệnh, Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, đảng có vững phải lấy chủ nghĩa làm cốt, Hồ Chí
Minh còn ví như người cầm lái có vững thuyền mới chạy, Đảng không có
chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Hồ Chí Minh không chỉ trang bị lý luận cách mạng cho những người
cộng sản, mà còn giáo dục cho họ "tư cách người cách mạng" và đạo đức
người cách mạng. Người nói: người cách mạng phải là người ít ham muốn
về vật chất vì bệnh cá nhân đẻ ra đủ thứ bệnh như: tham lam, lười biếng,
hẹp hòi... khi đã mắc những bệnh đó thì không tiến đến chí công, vô tư...
khi đã không chí công vô tư thì không dũng cảm. Đối với dũng cảm Hồ Chí
Minh nói dũng cảm là gan góc, gặp việc khó phải có gan làm, thấy khuyết
điểm phải có gan sửa chữa, cực khổ, khó khăn phải cố gắng chịu đựng...
nếu cần phải có gan hy sinh cả tính mạng cho Đảng, cho Tổ quốc, không
bao giờ rụt rè, nhút nhát.
Văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay là hệ tư tưởng của dân tộc Việt
Nam với hạt nhân cơ bản là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Nhân tố đó trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và
nhân dân ta trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Lịch sử Việt

Nam thời kỳ hiện đại đã chứng minh tính tất yếu của con đường giải phóng
dân tộc bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân
tố cơ bản đảm bảo tính khoa học, tính cách mạng, tính tiên tiến của văn hóa
chính trị nước ta, mặt khác, lịch sử loài người nói chung, lịch sử phát triển
của văn hóa trong đó có văn hóa chính trị nói riêng cũng là một dòng chảy
liên tục, trong đó những giá trị tích cực, tiến bộ của thế hệ trước luôn được

4


thế hệ sau kế thừa có chọn lọc, những giá trị văn hóa chính trị của truyền
thống đã được hình thành trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc.
Có thể nói rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi đường, chỉ lối cho
cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với truyền thống quý báu của dân tộc đã tạo thành nhân
tố mới trong văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay. Trong nền văn hóa chính
trị đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từng bước hoàn thiện
một nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng
một hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế đảm bảo quyền dân chủ của
nhân dân, không ngừng đổi mới theo hướng từng bước hình thành nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa mà nội dung cơ bản của nó là: "Toàn bộ quyền lực
thuộc về nhân dân".
Đảng ta dân tộc ta đã biết phát huy truyền thống yêu nước của dân
tộc kết hợp với sức mạnh dân tộc thời đại chủ nghĩa Mác - Lênin - tư tưởng
Hồ Chí Minh để đem lại độc lập, tự do, hòa bình cho nhân dân ta. Thành
tựu của gần 20 năm đổi mới càng khẳng định điều đúng đắn đó.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra phương hướng chung
của công tác tư tưởng, lý luận là: "Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động

là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng
ta", và cần phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo
luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh
từ thực tiễn, từng bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển đường lối, chính sách
của Đảng, đấu tranh với những khuynh hướng tư tưởng sai trái. Theo đó, có
thể thấy, trong thời gian tới phương hướng chung của công tác tư tưởng, lý
luận cần thực hiện các bước sau:

5


Một là, nghiên cứu toàn diện, sâu sắc và có hệ thống chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn công cuộc
đổi mới đất nước. Nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước đi trước.
Hai là, nắm vững thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện
chứng, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng,
tiếp thu có chọn lọc các giá trị tư tưởng khoa học, những tinh hoa lý luận
của thế giới, đấu tranh chống những tư tưởng sai trái, thù địch, chống chủ
nghĩa cơ hội chính trị, chủ nghĩa xét lại, nâng cao cảnh giác, chống "diễn
biến hòa bình" của kẻ thù trên lĩnh vực tư tưởng lý luận.
Ba là, khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều trong
hoạt động nghiên cứu lý luận, thực hiện phương châm đổi mới tư duy, thực
sự cầu thị, tôn trọng khách quan, phát huy dân chủ, nghiên cứu lý luận
phục vụ đắc lực sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Phương hướng chung nói trên của công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng trong tình hình mới đã tiếp tục được nêu rõ trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 (khóa IX): "Quán triệt đường lối đổi mới, phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, từ Trung ương đến cơ sở. Đổi mới
mạnh mẽ nội dung và phương pháp công tác tư tưởng, đẩy mạnh tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
2.2. Duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng
Việt Nam
Hồ Chí Minh đã có luận điểm quan trọng là: Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt
Nam. Luận điểm đó đã chỉ đạo cách thức tổ chức và hoạt động của Đảng
Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất giai cấp công nhân, mà
còn gắn bó máu thịt với dân tộc. Mọi hoạt động của Đảng không có lợi ích

6


nào khác ngoài phụng sự giai cấp, phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc.
Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân thừa nhận gọi trừu
mến, gần gũi là "Đảng ta". Đó là cội nguồn sức mạnh của Đảng. Lịch sử
dân tộc cũng chứng minh chỉ có Đảng Cộng sản mới đem lại độc lập, tự do,
cơm no áo ấm cho nhân dân được nhân dân thừa nhận. Nhân dân tin tưởng
và giao gánh nặng đó cho Đảng Cộng sản.
Trong những năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đã và đang không ngừng hoàn thiện để phục vụ tốt cho yêu cầu
đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có việc nâng cao nhận
thức văn hóa chính trị. Toàn hệ thống chính trị có chung một mục tiêu là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến tới một xã hội công bằng, dân
chủ văn minh. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, toàn bộ
hệ thống chính trị đứng trước thử thách mới đòi hỏi phải tiến hành đổi mới
toàn diện và sâu sắc để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Hệ thống tổ
chức chính trị được tổ chức lại theo hướng tinh giảm gọn nhẹ và hiệu quả.
Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã khẳng định cần phải: "Đẩy mạnh
cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế - xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh

đạo của Đảng". Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước,
phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế. Sau
nhiều năm hoạt động theo cơ chế cũ với nhiều bất cập hạn chế, Đảng ta đã
tiến hành đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới chính trị,
hệ thống chính trị có những bước thay đổi nhất định và đã thu được những
kết quả tích cực. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị, hệ thống chính trị nếu hoạt động không hiệu quả thì sẽ dẫn đến trì
trệ, thậm chí có thể làm sụp đổ cả hệ thống chính trị đó. Cho đến nay, hoạt
động của hệ thống chính trị trong công cuộc đổi mới đã có được những
thành tựu nổi bật, là nhân tố xuyên suốt mọi thắng lợi của cách mạng.

7


Trong quá trình đổi mới, việc đổi mới hệ thống chính trị từ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chúng ta không
tránh khỏi những vướng mắc, thậm chí là sai lầm trong việc thực hiện các
cơ chế, chính sách đổi mới, nhưng điều đó không có nghĩa là sự nghiệp đổi
mới toàn bộ hệ thống chính trị của chúng ta là sai lầm. Tổng kết thực tiễn
để rút ra được những bài học từ chính quá trình đổi mới để hoàn thiện môi
trường, mục tiêu chính trị, khắc phục dần những khó khăn là vấn đề đặt ra
cho công tác lý luận. Chúng ta biết nhận sai lầm và dám sửa chữa những
tồn tại của cơ chế cũ như tệ quan liêu bao cấp, cơ chế hoạt động rườm rà
với nhiều thủ tục chồng chéo. Sự yếu kém về mặt nhận thức tư duy lý luận
trong một bộ phận cán bộ quản lý. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
nhất là tổ chức bộ máy quản lý hành chính của nhà nước còn có quá nhiều
đầu mối dễ gây ra sự chồng chéo về các chức năng dẫn đến hoạt động kém
hiệu quả, thậm chí đóng băng trong một số trường hợp nhất định. Trách
nhiệm của tập thể và cá nhân chưa rõ ràng, cụ thể, chất lượng hoạt động và

hiệu quả hoạt động thấp. Hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực hoạt động
chưa đổi mới kịp với đòi hỏi của thực tế, các tệ nạn phát sinh trong công
cuộc đổi mới như nạn tham nhũng, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý đang bùng phát cũng như những hạn
chế của nhận thức trong tư duy. Trước đó, hệ thống chính trị hoạt động
theo cơ chế tập trung, bao cấp là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc
đổi mới hệ thống chính trị còn có những tồn tại cần phải nhanh chóng khắc
phục. Sự nghiệp đổi mới đã đi qua được một chặng đường đầy khó khăn,
gian khổ; nhưng để hoàn thành công cuộc đổi mới, hệ thống chính trị còn
rất nhiều tồn tại cần khắc phục. Điều đó càng đòi hỏi phải đổi mới hệ thống
chính trị như một yêu cầu tất yếu hiện nay.
Tổng kết kinh nghiệm hoạt động thực tiễn đã cho thấy, chúng ta còn
rất nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Việc tổ chức tuyên truyền, thực hiện
các chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
còn chưa tốt nên việc nâng cao nhận thức cho nhân dân về chính trị còn
8


chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Còn tồn tại tình trạng tùy tiện, thiếu ý
thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong hoạt động chính trị.
Công tác chỉ đạo điều hành cũng như xây dựng các nội dung chế định còn
chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, đoàn thể từ Trung
ương đến địa phương. Một số quan điểm, chủ trương trong quá trình xây
dựng cũng như khi đã đưa vào trong hoạt động thực tế còn chưa rõ ràng,
chưa có sự nhận thức đúng đắn và thống nhất. Do đó cũng còn nhiều tồn tại
cần phải nhanh chóng khắc phục. Việc xây dựng và thực hiện các chính
sách và pháp luật còn nhiều vướng mắc, trong đó có tình trạng thiếu tính
khả thi trong công việc, yêu cầu xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật là
rất bức xúc, nhu cầu lập pháp là rất lớn, nhưng khả năng và trình độ của đội
ngũ cán bộ còn hạn chế, dẫn đến tình trạng không ít luật, pháp lệnh, tính

khả thi chưa cao và chậm đi vào cuộc sống. Bộ máy hành chính nhà nước
các cấp chưa phát huy đầy đủ vai trò và quyền hạn của bản thân trong việc
quản lý hành chính nhà nước phù hợp với cơ chế hoạt động của nền kinh tế
thị trường. Hệ thống hành chính còn nhiều khâu, nhiều cửa, cách giải quyết
công việc còn chậm chạp, hệ thống tổ chức hành chính nặng về quản lý
chung mà chưa xây dựng được một cơ chế quản lý mang tính chuyên sâu,
chuyên nghiệp ở trình độ cao.
Trên lĩnh vực văn hóa chính trị, các thiết chế văn hóa được xây
dựng thông qua các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đã thực sự tạo điều kiện cho việc nâng cao trình độ văn hóa
chính trị một cách toàn diện. Sự nghiệp đổi mới xây dựng các thiết chế,
định chế đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định. Khi đổi
mới kinh tế thì các thiết chế chính trị cũng phải thay đổi cho phù hợp với
đường lối phát triển kinh tế. Văn hóa chính trị muốn được nâng cao thì các
thiết chế văn hóa cũng phải phát triển ở trình độ tương ứng. Nhìn lại chặng
đường đổi mới đã qua, chúng ta có thể nhận thấy nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho chúng ta những thắng lợi to
lớn, nền kinh tế phát triển đã giúp cho chúng ta có thêm điều kiện để nâng

9


cao trình độ dân trí, đời sống cho nhân dân và nâng cao trình độ văn hóa
chính trị trong toàn bộ xã hội. Sự mở rộng giao lưu quốc tế đã tăng cường
tìm hiểu và tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho
mình.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, toàn bộ hoạt động của
hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới đều hướng tới mục tiêu xây dựng một xã
hội theo định hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động đã nảy sinh nhiều tình huống

chính trị phức tạp từ bên trong cũng như bên ngoài cản trở hoạt động chính
trị của chúng ta, hệ thống chính trị đang phải đối phó với nhiều nguy cơ
phá hoại, trong đó nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Nguy cơ tụt hậu về kinh tế, đói nghèo là những thách thức to lớn trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động chính trị trong
thời kỳ đổi mới được xây dựng trên cơ sở hướng tới mở rộng dân chủ trong
hoạt động chính trị để mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội có thể tham gia
vào đời sống chính trị và có ý thức tham gia vào mọi hoạt động chính trị
một cách tự giác và hăng hái. Tuy nhiên, việc nâng cao nhận thức chính trị
ở một bộ phận nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là nhân dân
ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đang khó khăn về kinh tế. Chính
những tồn tại đó là kẽ hở để kẻ thù lợi dụng phá hoại, mua chuộc quần
chúng. Bên cạnh đó vấn đề sử dụng, đào tạo cán bộ còn có nhiều bất cập,
hạn chế như tệ quan liêu, tham nhũng. Những khiếm khuyết trong quá trình
hoạt động của hệ thống chính trị đã tạo nên những lực cản không nhỏ đối
với quá trình đổi mới. Điều đó càng đòi hỏi hệ thống chính trị phải nỗ lực
hơn nữa trong quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị, tiến tới một hệ thống
chính trị dân chủ vì tiến bộ xã hội.
2.3. Dân tộc Việt Nam không cam chịu, không sùng tín, năng lực
tiếp biến mạnh

10


Truyền thống văn hóa chính trị của nước ta được tiếp tục phát huy
với những giá trị tích cực. Lịch sử dân tộc đã chứng minh không có hệ tư
tưởng tôn giáo nào hoặc học thuyết cai trị nào khiến người Việt Nam sùng
bái đến mức cực đoan, mê muội. Nhân dân ta luôn có sự kế thừa sáng tạo,
như trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc bị phong kiến Trung Quốc đô hộ
nhưng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam luôn được giữ gìn và phát huy,

thậm chí còn tiếp biến thành những giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam.
Những giá trị văn hóa như chữ Hán đã được biến đổi thành chữ Nôm. Cũng
như sau này, trong thời kỳ bị phương Tây xâm lược, chúng ta đã tiếp thu
những giá trị văn hóa tích cực của phương Tây, sáng tạo nên chữ quốc ngữ
ngày nay. Người Việt Nam có mẫn cảm về chính trị, thường can dự vào các
công việc chính trị. Bởi vậy, trong quá trình dân chủ hóa hiện nay, khi
Đảng và Nhà nước cần lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân về các dự thảo
quyết sách chính trị của mình thì số lượng người tham gia góp ý, phê bình
dưới nhiều hình thức khác nhau, với số lượng tham gia đông đảo, những ý
kiến đóng góp đều mang nặng nhiệt huyết yêu nước. Việt Nam là một dân
tộc bất khuất không cam chịu làm nô lệ, dù kẻ thù xâm lược có mạnh đến
chừng nào cũng không khuất phục được ý chí quật cường của một dân tộc
nhỏ bé nhưng anh hùng. Truyền thống không cam chịu khó khăn lại một
lần nữa thúc đẩy mọi người Việt Nam mang hết tiềm lực trí tuệ, tinh thần,
vật chất để thực hiện thành công công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh".
Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã hình thành cho mình
một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có bề dày kinh nghiệm
giải quyết nhiều vấn đề chính trị phức tạp. Trong quá trình đổi mới hiện
nay, đội ngũ cán bộ đã có những bước chuyển đổi hoạt động ngày càng có
hiệu quả trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

11


3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa chính trị ở
nước ta hiện nay
3.1. Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Con đường Đảng và Bác Hồ đã chọn cho dân tộc ta là độc lập dân

tộc gắn liền với CNXH. Không phải ngẫu nhiên Đảng và Bác lại chọn như
vậy, vì chỉ có đi lên CNXH thì con người mới được tự do và hạnh phúc,
nếu không xây dựng CNXH thì nhân dân ta lại phải làm cách mạng một lần
nữa, khủng hoảng XHCN ở Đông Âu và Liên Xô càng cho chúng ta bài
học sâu sắc về xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự
thật trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn đổi mới ở nước ta: Trong lúc một số cán bộ, đảng viên
dao động hoặc thiếu niềm tin về CNXH về con đường đã chọn của Đảng và
Hồ Chí Minh. Hơn lúc nào hết chính lúc này chúng ta cần phải làm rõ con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam, bước đi và tuần tự, lý luận phải trả lời.
Chúng ta không thể coi chủ nghĩa Mác - Lênin là cái gì đó xong xuôi hẳn
mà nó chỉ là môn khoa học để lý giải để định hướng và áp dụng cho con
đường xây dựng CNXH ở nước ta. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là vấn
đề quan trọng đối với mỗi cán bộ đảng viên, không đứng vững trên lập
trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì dễ bị dao động, chùn bước
trước khó khăn, gian khổ, dễ bị kẻ thù lợi dụng và mua chuộc. Hiện nay kẻ
thù đang lợi dụng những khó khăn trước mắt của chúng ta để xuyên tạc chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tuyên truyền rằng độc
lập dân tộc không cần gắn liền với CNXH, đây là cuộc hôn nhân không bền
vững trước sau cũng tan vỡ, chúng hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, bóp méo
tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong toàn Đảng toàn dân là nhiệm vụ quan trọng, sống còn của Đảng ta.
Có như vậy chúng ta mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành

12


Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định:
"Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của
nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, về quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển kinh tế và văn
hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, về
đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, về chăm lo bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho muôn đời sau, về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân"(1).
3.2. Kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới
hiện nay phải gắn liền với quá trình nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Kinh tế thị trường làm cho con người năng động, nhưng nó cũng dẫn đến
mặt trái như trọng "tiền" hơn trọng "tình", bất chấp đạo lý, làm hư hỏng
một bộ phận cán bộ của Đảng và Nhà nước... Do vậy, xây dựng một đời
sống văn hóa chính trị tốt đẹp là nhiệm vụ trọng tâm. Trên cơ sở đấu tranh
kiên quyết chống lại các tư tưởng sai trái với đường lối quan điểm của
Đảng, đấu tranh chống lại cái xấu để khẳng định bản chất tốt đẹp của cách
mạng, kiên quyết loại trừ các phần tử xấu ra khỏi bộ máy của Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội. Để làm điều này Đảng phải nâng cao
năng lực lãnh đạo để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới. Xây
dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, nâng cao năng lực của cán bộ là vấn đề
(1)

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 83 - 84.


13


sống còn của cách mạng trong mọi giai đoạn, xây dựng môi trường văn hóa
chính trị lành mạnh trong Đảng có ý nghĩa quyết định tới quá trình nâng
cao văn hóa chính trị của toàn xã hội. Trong thời kỳ hiện nay, việc nâng
cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đấu tranh chống chủ nghĩa hữu
khuynh, chống các biểu hiện suy thoái về chính trị, đạo đức trong Đảng và
chính quyền các cấp, xây dựng tri thức và bản lĩnh chính trị vững vàng,
từng bước cải cách bộ máy hành chính nhà nước hướng tới phục vụ nhân
dân, xứng đáng là nhà nước của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ của toàn
bộ hệ thống chính trị. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng phải gắn
liền với quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy pháp quyền nhà nước,
nâng cao năng lực quản lý của nhà nước để nhà nước là công cụ quyền lực
của hệ thống chính trị, là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cũng chính là giữ vững
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, một khi vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản không còn thì nhân dân ta lại tiếp tục bị áp bức, bóc lột và
nô dịch. Nó sẽ đi ngược lại lợi ích của nhân dân và tiến bộ xã hội. Cái giá
mà độc lập dân tộc chúng ta đã trả là rất lớn, con đường mà Đảng và Bác
Hồ đã chọn là con đường của lịch sử, của xã hội mà loài người dù sớm hay
muộn cũng đi đến đó. Mặc dù trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo, Đảng ta
còn chút sai lầm nhưng đó là điều khó tránh khỏi vì một Đảng còn trẻ như
Đảng ta, nước ta lại bỏ qua trường học dân chủ tư sản nên hẫng hụt nhiều
tiền đề mà chúng ta phải khắc phục, phải trả giá nhất định. Chúng ta đang
xây dựng nhà nước pháp quyền lấy pháp luật làm tối thượng, phát huy dân
chủ cơ sở, trao quyền lực thực sự cho nhân dân lao động, cán bộ chỉ là công
bộc của dân, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân.

Để giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì Đảng
phải xây dựng một nền văn hóa chính trị lành mạnh và tiến bộ. Chống các
biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức chính trị, lối sống không lành
mạnh, trước hết là trong đội ngũ lãnh đạo, đảng viên, kết hợp giữa xây và

14


chống, trong đó nhiệm vụ xây dựng một đời sống văn hóa chính trị tốt đẹp
là nhiệm vụ trọng tâm. Trên cơ sở đấu tranh kiên quyết chống lại các tư
tưởng sai trái với đường lối quan điểm của Đảng, đấu tranh chống lại cái
xấu để khẳng định bản chất tốt đẹp của cách mạng, kiên quyết loại trừ các
phần tử xấu ra khỏi Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội là góp
phần xây dựng một môi trường tốt cho việc nâng cao trình độ nhận thức
chính trị về văn hóa chính trị nói chung.
3.3. Tăng cường giao lưu quốc tế
Trong bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa như hiện nay không cho
phép một nước nào đứng biệt lập. Chúng ta đã mở cửa thu hút khoa học
công nghệ, vốn của tư bản. Tuy nhiên khi mở cửa chúng ta hòa nhập nhưng
không hòa tan, đón gió lành ngăn gió độc, chúng ta phải biết giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, biết chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu
cho dân tộc mình. Bác Hồ kính yêu đã nói: Bản sắc dân tộc chính là căn
cước của dân tộc đó. Quá trình mở cửa hội nhập uy tín nước ta ngày một
nâng cao. Sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi ngày càng phát triển mạnh mẽ
và đã đưa vị trí, tầm vóc nước ta lên tầm cao mới, sự nghiệp đổi mới mà
nước ta đang tiến hành đã thể hiện một bước phát triển về văn hóa chính trị
của Đảng. Với đường lối đó, chúng ta đang khắc phục những sai lầm trục
trặc, thiếu sót trong tư duy chính trị trước đây, những thích ứng mới, với
yêu cầu phát triển của đất nước. Tính đúng đắng và khoa học của chính
sách mở cửa đang tạo nên những động lực mới thúc đẩy nhanh chóng công

cuộc CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên quá trình thực hiện văn hóa chính trị
của chúng ta đã bộc lộ nhiều yếu kém. Nền kinh tế thị trường đã làm phát
sinh nhiều tệ nạn cũng như những khó khăn thử thách. Phẩm chất của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có không ít trường hợp thoái hóa, biến
chất vì nhiều lý do, nhưng tựu trung lại là sự yếu kém về văn hóa chính trị.
Đảng và Nhà nước ta đã có những giải pháp chống quan liêu, tham nhũng,
chống các tiêu cực khác, nhưng các tệ nạn đó không giảm mà còn có chiều
hướng gia tăng, điều đó chứng tỏ sự yếu kém về văn hóa chính trị của cán

15


bộ công chức đang là một vấn đề cần xem xét nghiêm túc. Phân tích sự yếu
kém về trình độ nhận thức văn hóa chính trị của một số cán bộ lãnh đạo
quản lý, chúng ta thấy có khá nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên
nhân chính sau:
- Sự yếu kém về nhận thức.
- Sự thiếu ý thức rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng.
- Những sai lầm và thiếu sót trong quá trình quản lý xã hội.
Nói đến nhận thức là nói đến tri thức và học vấn, nhưng có tri thức
và học vấn chưa đủ, để có được nhận thức đúng cần phải có bản lĩnh chính
trị vững vàng và đạo đức trong sáng. Cán bộ lãnh đạo quản lý ở cấp càng
cao thì càng đòi hỏi phải nâng cao trình độ văn hóa chính trị và tri thức
khoa học. Có trình độ, có kiến thức mới nắm được thời cơ, thực hiện được
nhiệm vụ trong hoàn cảnh mới. Khi trình độ nhận thức và năng lực chính
trị yếu và thiếu sẽ là lực cản của sự phát triển. Sự yếu kém về tri thức
không chỉ dẫn tới nhận thức hời hợt, phiến diện, mà lớn hơn là không đủ
sức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng cũng như tổng kết các kinh nghiệm
và sáng kiến của quần chúng từ thực tế công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Nói về nguyên nhân nhận thức không chỉ là dừng lại ở các kiến thức

sách vở. Những kinh nghiệm thực tế cũng có một vai trò rất quan trọng, các
tri thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn đều được xây dựng trên một nền
tảng văn hóa nhất định. Văn hóa chính trị có liên quan chặt chẽ đến lịch sử
và truyền thống dân tộc. Thế hệ trẻ ngày nay đang đứng trước những nguy
cơ thiếu hiểu biết về lịch sử và truyền thống dân tộc. Đó chính là những trở
lực không nhỏ mà không phải ai trong chúng ta cũng nhận thức được đối
với sự phát triển của xã hội. Khi lịch sử và truyền thống dân tộc bị xem nhẹ
dẫn tới lòng tự hào dân tộc và truyền thống văn hóa dễ bị xuống cấp, hiệu
quả của các chính sách kinh tế - xã hội trước khi được đưa vào trong thực
tế đều cần phải được xem xét điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn và
truyền thống lịch sử dân tộc. Cùng với nhận thức là vấn đề phẩm chất đạo

16


đức của đội ngũ cán bộ. Nhiều vấn đề nhức nhối đang diễn ra trên lĩnh vực
này, Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần phải lên tiếng vì sự xuống cấp đạo
đức trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý; thói quan liêu, cửa quyền
còn sót lại từ cơ chế cũ, nạn tham nhũng, tâm lý chạy theo đồng tiền nảy
sinh trong cơ chế thị trường đã làm hư hỏng một số cán bộ trong đó có cả
cán bộ cấp cao thuộc Trung ương quản lý. Đây là những tồn tại cần khắc
phục.
3.4. Phát huy những yếu tố tích cực của truyền thống văn hóa
chính trị Việt Nam
Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý
báu của dân tộc ta. Thời nào cũng vậy từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần đều theo
đuổi một chính sách chống giặc ngoại xâm, giành độc lập, phát huy cao độ
chủ nghĩa yêu nước. Trong đối nội, các nhà vua thực hiện chính sách thân
dân. Về tổ chức bộ máy, các nhà vua thời phong kiến thịnh trị đều quan
tâm đào tạo và sử dụng người tài, giữ vững kỷ cương luật lệ. Bên cạnh các

vua thường có các gián quan, những người tài cao đức rộng, có nhiệm vụ
khuyến khích vua làm điều tốt, can ngăn vua làm điều xấu. Những quan
điểm và thiết chế chính trị đó đã được xây dựng trên một nền tảng văn hóa
chính trị của dân tộc, tạo nên sự bền vững của chế độ phong kiến trong một
giai đoạn lịch sử khá lâu dài ở nước ta. Chính trong bối cảnh đó đã làm
xuất hiện các nhân vật chính trị xuất sắc như Nguyễn Trãi, Lê Thánh
Tông... Tư tưởng của Nguyễn Trãi là "trong thôn cùng xóm vắng, không có
một tiếng hờn giận oán sầu". Trần Quốc Tuấn thì: "khoan thư sức dân để
làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước", "anh em hòa mục",
"cả nước gắng sức". Có thể nói rằng, khi một chế độ chính trị đối lập với
quần chúng nhân dân thì chế độ đó cũng xa rời các giá trị nhân văn, xa rời
các tiêu chuẩn Chân, Thiện, Mỹ và sự sụp đổ của chế độ đó là điều khó
tránh khỏi.

17


Đối với Hồ Chí Minh văn hóa chính trị thực sự trở thành động lực
và mục tiêu của hoạt động chính trị. Điều này cũng dễ hiểu vì chính trị Hồ
Chí Minh là chính trị của dân, do dân và vì dân, đó là chính trị mà mục tiêu
cuối cùng là sự phát triển của đất nước và hạnh phúc cho mỗi người. Đây là
bài học lớn, có ý nghĩa thiết thực đối với sự lãnh đạo chính trị của Đảng ta
trong công cuộc đổi mới hiện nay. Biết khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ý chí
sắt đá của người Việt Nam, một khi văn hóa chính trị xâm nhập được vào
quần chúng thì nó trở thành một lực lượng vật chất vô cùng to lớn. Nhân
dân Việt Nam rất anh hùng, cần cù, chịu khó, chịu khổ, chịu thương.
Nhưng con người Việt Nam không chịu nhục, không chịu khuất phục. Đây
là truyền thống quý báu của dân tộc ta cần bảo tồn và phát triển.
Chúng ta đang tiến hành đổi mới, thực chất đó là cuộc vận động văn
hóa chính trị, đánh dấu sự phát triển về văn hóa chính trị của Đảng. Trước

mắt chúng ta còn ngổn ngang vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội. Sự yếu
kém trong tri thức của chúng ta về các vấn đề đó đang tạo nên những bước
đi mò mẫm, nhiều khi chông chênh. Thêm vào đó một thử thách lớn đối với
Đảng khi bước vào kinh tế thị trường là làm sao giữ được định hướng
XHCN, vừa phát huy tính năng động trong tư duy, vừa tăng nhanh của cải
vật chất cho xã hội, vừa giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc. Nhiều hiện
tượng tiêu cực có nguyên nhân chủ yếu từ mặt trái của kinh tế thị trường
đang thâm nhập và phổ biến ở diện khá rộng trong hàng ngũ cán bộ. Điều
đó rõ ràng có liên quan đến trình độ văn hóa chính trị của cán bộ, đảng
viên. Nói cách khác các hiện tượng tiêu cực xã hội nói chung và trong một
bộ phận cán bộ có chức có quyền nói riêng cũng là biểu hiện của sự suy
thoái về đạo đức, phẩm chất và tinh thần. Chủ nghĩa thực dụng trong lối
sống, bệnh tham nhũng, hối lộ, sự thờ ơ lạnh nhạt đối với người xung
quanh, xa dân, xa quần chúng. Điều đó đều xa lạ với văn hóa chính trị của
chúng ta hiện nay.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS.TS Lưu Văn Sùng (Chủ nhiệm đề tài), Giáo trình Chính trị học (hệ
cao cấp lý luận), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Hồ Chí Minh văn hóa và đổi mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
3. Vai trò văn hóa trong hoạt động chính trị của Đảng ta hiện nay, Nxb Lao
động, Hà Nội, 2000.
4. Thông tin Chính trị học, số 3, 2003, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
5. Thông tin Chính trị học, số 4, 2003, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh.


19



×