Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

bối cảnh thời đại ảnh hưởng đến giai cấp công nhân nước tư sản phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.57 KB, 29 trang )

Phần thứ nhất
bối cảnh mới của thời đại ảnh hởng đến giai cấp
công nhân ở các nớc t bản phát triển

I. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân

Khi đề cập đến giai cấp công nhân, Mác và Ăngghen đã sử dụng nhiều
thuật ngữ khác nhau nh những cụm từ đồng nghĩa, có nội hàm giống nhau để chỉ
giai cấp này nh: "giai cấp vô sản", "vô sản đại cơ khí", "vô sản đại công nghiệp",
"giai cấp những ngời lao động làm thuê của thế kỷ XIX", "giai cấp vô sản hiện
đại", "giai cấp công nhân hiện đại"... Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội
khoa học không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra giai cấp vô sản, giai cấp công nhân l
gì, mà quan trọng hơn, giai cấp này phải làm gì để tự giải phóng mình? Giai cấp
vô sản là gì? vấn đề này đã đợc C.Mác, Ph.Ănghen đề cập trong nhiều tác phẩm,
và hai ông đã nêu nhiều thuộc tính của giai cấp vô sản.
Trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghenlời nói đầu, Mác đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế, xã hội, xu hớng phát triển của giai
cấp vô sản (GCVS), và Mác nêu rõ: ở Đức GCVS chỉ mới bắt đầu hình thành nhờ
sự phát triển của công nghiệp. Giai cấp vô sản ra đời gắn với công nghiệp, nó là
sản phẩm của công nghiệp. Về mặt xã hội, GCVS nảy sinh và hình thành trong
quá trình tan rã của xã hội phong kiến chuyển lên chế độ TBCN, do sự phân rã của
tất cả các đẳng cấp, trớc hết là sự phân rã của đẳng cấp trung gian. Xu hớng phát
triển của GCVS là đi tới chỗ xóa bỏ nó với t cách là một giai cấp(2) .
Trong tác phẩm Gia đình thần thánh, C.Mác, Ph.Ănghen phân tích mối
quan hệ giữa GCVS và chế độ t hữu. Hai ông chỉ ra rằng, GCVS là sản phẩm
của chế độ t hữu và cũng là điều kiện tồn tại của chế độ t hữu. Chế độ t hữu
muốn duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của bản thân nó, thì nó phải duy trì sự tồn tại
vĩnh viễn của mặt đối lập với nó là GCVS. Chế độ t hữu tìm đợc sự thỏa mãn
trong bản thân mình là mặt khẳng định của sự đối lập. GCVS và giai cấp t sản
(GCTS) là hai mặt đối lập của một chỉnh thể thống nhất - chế độ t hữu. Cả hai
đều là sản phẩm của chế độ ấy. Xu hớng phát triển của GCVS là đi tới thủ tiêu sự
tồn tại của bản thân mình với t cách là GCVS, do đó, tiêu diệt cả mặt đối lập với


(2)

C.Mác, Ph.Ănghen: Toàn tập, tập1, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, tr.589-590

7


nó là chế độ t hữu - đang chi phối và làm cho nó thành GCVS. Mác và Ăngghen
viết: "Vấn đề không phải là ở chỗ GCVS muốn gì mà là ở chỗ giai cấp vô sản
thực ra là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, GCVS buộc phải làm gì
về mặt lịch sử"( 3).
Đến tác phẩm Tình cảnh của giai cấp lao động Anh, Ănghen khẳng
định: Anh là nớc điển hình của sự phát triển của GCVS và nó là kết quả chủ yếu
của cuộc cách mạng công nghiệp Anh. Lịch sử GCCN bắt đầu nửa sau thế kỷ thế
kỷ XVIII. Công nghiệp nhỏ đã làm nảy sinh ra GCTS, công nghiệp lớn đã nảy
sinh ra GCCN. Công nhân công nghiệp là hạt nhân của PTCN. Họ là những ngời
nhận thức đợc rõ ràng nhất những lợi ích của bản thân mình. Trình độ văn hóa
của các loại công nhân liên quan trực tiếp với mối quan hệ của họ với công
nghiệp(4).
Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ănghen
định nghĩa giai cấp vô sản nh sau: Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn
toàn chỉ sống dựa vào việc bán lao động của mình, chứ không phải sống dựa vào
lợi nhuận của bất cứ số nhà t bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau
khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao
động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào
những sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại,
GCVS hay giai cấp của những ngời vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX
Giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra(5).
Lần đầu tiên, Mác và Ăngghen đã trình bày khái niệm GCVS tơng đối đầy
đủ trên các phơng diện trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và có thể khái quát

lại với một số điểm chủ yếu là: Thứ nhất, về nguồn gốc kinh tế, GCVS ra đời gắn
với đại công nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, nền
sản xuất xã hội hoá ngày càng cao. Thứ hai, về nguồn gốc xã hội, GCVS đợc
tuyển mộ từ tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Thứ ba, những đặc trng
chủ yếu của GCVS hiện đại bao gồm: không có t liệu sản xuất; về lợi ích cơ bản,
đối lập trực tiếp với GCTS; GCVS là hiện thân của phơng thức sản xuất (PTSX)
tiên tiến; có tính quốc tế, tinh thần quốc tế vô sản, tính tiên phong, tinh thần cách
mạng triệt để, đoàn kết giai cấp, tính tổ chức kỷ luật cao. Thứ t, bản chất quốc tế
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr.56
C.Mác, Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà nội 1995, tr 348-349, 353-354
(5)
C.Mác, Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, tr. 456-457
( 3)
(4)

8


của GCVS đợc quy định bởi quá trình quốc tế hoá sản xuất công nghiệp...; đồng
thời GCVS có bản sắc dân tộc, gắn với mỗi dân tộc cụ thể, trở thành "giai cấp
dân tộc" và chịu trách nhiệm trớc hết với dân tộc mình(6). Thứ năm, quá trình đấu
tranh giữa GCVS với GCTS dẫn đến sự phân hoá trong giai cấp thống trị. Một bộ
phận nhỏ của giai cấp này - những nhà t tởng t sản tiến bộ đã từ bỏ cuộc sống và
thành phần giai cấp xuất thân, vơn lên nhận thức đợc về mặt lý luận toàn bộ quá
trình vận động lịch sử, tách khỏi giai cấp xuất thân, đi theo GCVS, làm cho
GCVS ngày càng nhận thức rõ đợc sức mạnh và sứ mệnh lịch sử của mình. Thứ
sáu, xu hớng phát triển không ngừng tăng lên về số lợng và chất lợng cùng với sự
phát triển của đại công nghiệp.
Cần nhấn mạnh rằng, khái niệm về GCVS đợc C.Mác và Ph.Ăngghen rút
ra qua sự phân tích một cách sâu sắc địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó dới

chế độ t bản trong nửa đầu thế kỷ XIX. Những kết luận ấy cũng đã đợc thực tiễn
lịch sử xã hội đơng thời chứng minh là đúng đắn và khoa học.
Những đặc trng cơ bản của GCVS dới chế độ TBCN mà Mác và Ăngghen
nêu ra đã đợc Lênin tiếp tục làm rõ, phát triển và khẳng định trong nhiều tác
phẩm của mình. Từ thực tiễn lịch sử thế kỷ XX, Lênin chỉ rõ vị trí GCVS là giai
cấp lãnh đạo toàn thể xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của CNTB,
trong sự nghiệp sáng tạo ra một xã hội mới, trong cuộc đấu tranh để thủ tiêu
hoàn toàn các giai cấp. Mác và Ăngghen đã phân biệt GCVS với tầng lớp trí
thức. Lênin đa ra định nghĩa về giai cấp, theo đó: Giai cấp là những tập đoàn to
lớn gồm những ngời khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội
nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thờng thì những quan hệ
này đợc pháp luật quy định và thừa nhận) đối với TLSX, về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội và về phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ đợc hởng.
Giai cấp là những tập đoàn ngời, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động
của tập đoàn khác. Do chỗ các tập đoàn đó địa vị khác nhau trong chế độ kinh tế
- xã hội nhất định.
Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Có thể diễn đạt khái quát
nhất những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về sứ mệnh lịch sử của
GCCN là tiến hành sản xuất hiện đại và đấu tranh cách mạng để giải phóng con
ngời. Sứ mệnh lịch sử đó biểu hiện qua những nội dung cơ bản sau:
(6)

C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t.4, tr. 611-624.

9


Một là, thờng xuyên và trực tiếp nhất gắn với quá trình tổ chức, phát triển
sản xuất xã hội với trình độ KHKT ngày càng hiện đại. Tách rời sản xuất hiện
đại, GCCN không còn sứ mệnh lịch sử với những nội dung tiếp theo. Đó là một

nhận thức khoa học rút ra từ thực tế lịch sử hình thành, phát triển GCCN. Sứ
mệnh lịch sử của GCCN không chỉ bắt đầu với nội dung "giành chính quyền",
mà trái lại có nội dung rộng lớn hơn kể cả trớc khi giành chính quyền. Từ nội
dung sản xuất hiện đại và đấu tranh cách mạng mới dẫn đến nội dung "giành
chính quyền".
Hai là, thông qua Đảng tiên phong của mình, GCCN lãnh đạo và tổ chức
quá trình giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động xoá bỏ chế độ t
bản chủ nghĩa (và các chế độ t hữu, áp bức bóc lột), xoá bỏ GCTS (và các giai
cấp bóc lột), giải tán chính quyền Nhà nớc của các chế độ cũ, thành lập chính
quyền của GCCN và nhân dân lao động, do Đảng của GCCN nhân lãnh đạo.
Ba là, GCCN thông qua Đảng của mình lãnh đạo, tổ chức thực hiện quá
trình củng cố, bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nớc và đồng thời xây dựng đất nớc
theo định hớng XHCN trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, con
ngời..., để từng bớc hình thành xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa trên thực tế
ở mỗi nớc và trên toàn thế giới. Đây là nội dung cơ bản, quyết định nhất trong sứ
mệnh lịch sử của GCCN. Vì thế, chủ nghĩa Mác - Lê nin đã luận giải một cách
khoa học rằng: Đó là những quá trình cải biến cách mạng căn bản, toàn diện,
triệt để trên phạm vi quốc gia, quốc tế. Đó là một nội dung mới mẻ, vừa rất phức
tạp, do đó là một nội dung đợc thực hiện từng bớc, lâu dài, với yêu cầu ngày
càng cao đối với GCCN, nhân dân lao động và nhất là đối với đảng cộng sản, với
nhà nớc... cả về sức lực, trí tuệ lẫn bản lĩnh và lập trờng chính trị, nhân cách và
phong cách... của mình. Nếu coi nhẹ, mắc bệnh "tả" khuynh hay hữu khuynh,
"đốt cháy giai đoạn", giản đơn, chủ quan duy ý chí... chỉ làm cho thời kỳ quá độ
và quá trình xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản khó khăn và kéo dài mà thôi.
Sứ mệnh lịch sử của GCCN do những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội
khách quan quy định từ khi nó hình thành và phát triển trong CNTB. Sứ mệnh đó
không hề xuất phát từ mong muốn chủ quan của GCCN và Đảng của nó; cũng
không hề do bất kỳ tài trí của cá nhân nào "sáng tạo" ra. Sứ mệnh lịch sử của
GCCN mang tính quy luật khách quan trong sự phát triển tất yếu của nhân loại,
nh chủ nghĩa Mác - Lê nin đã luận chứng một cách khoa học - xuất phát từ thực

tiễn, rằng: đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, và sự sụp đổ
của GCTS và thắng lợi của GCVS đều là tất yếu nh nhau.
10


Trớc hết, xét về những điều kiện kinh tế - kỹ thuật, thì nền công nghiệp
ngày càng hiện đại đã quy định nhiều đặc điểm của GCCN và từ những đặc điểm
vốn có đó mà GCCN là giai cấp duy nhất có những sứ mệnh lịch sử đã nêu trên.
Thứ hai, cũng do nền công nghiệp hiện đại phát triển mà GCCN ngày càng đợc
trang bị thêm nhiều nhận thức mới, hiện đại cả về văn hoá cơ bản, khoa học kỹ
thuật, tay nghề và chính trị - xã hội. Đây cũng là yếu cầu khách quan đối với
GCCN trong quá trình sản xuất, hoạt động xã hội và đấu tranh cách mạng. Vì thế
nền sản xuất hiện đại cũng quy định một cách khách quan GCCN là giai cấp tiên
tiến, đại diện PTSX mới và có sứ mệnh lịch sử thay thế PTSX cũ lỗi thời xét về
mặt kinh tế. Thứ ba, khi nền sản xuất hiện đại phát triển cùng với phong trào
công nhân và nhân dân lao động bị áp bức bóc lột trong CNTB (trong đó có trí
thức, đại bộ phận là ngời lao động bị bóc lột "chất xám") thì chính GCCN luôn
đợc bổ sung một lực lợng trí thức và những ngời lao động khác, giác ngộ, gia
nhập GCCN; thậm trí một số trí thức giác ngộ đã giúp GCCN hình thành hệ t tởng, hiểu về sứ mệnh lịch sử của mình, tiến tới hình thành Đảng tiên phong để
lãnh đạo phong trào. Đó cũng là sự quy định khách quan đối với sứ mệnh lịch sử
của GCCN mà không giai cấp - tầng lớp nào có đợc. Thứ t, tính quy định khách
quan, cơ bản nhất và mang ý nghĩa tổng hợp cả về địa vị kinh tế lẫn về chính trị xã hội đối với sứ mệnh lịch sử của GCCN là: Ngay từ trong chế độ TBCN đã nẩy
sinh mâu thuẫn cơ bản nhất, đó là mâu thuân về mặt kinh tế, giữa LLSX xuất
phát triển, với trình độ xã hội hoá, quốc tế hoá ngày càng cao với quan hệ sản
xuất (QHSX) dựa trên chế độ chiếm hữu t nhân TBCN về TLSX mâu thuẫn đó
biểu hiện về mặt chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa GCCN với GCTS. Cả hai
mặt của mâu thuẫn cơ bản này không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ chế
độ t bản chủ nghĩa, nên tất yếu dẫn tới cách mạng XHCN nh một yêu cầu khách
quan để giải quyết triệt để mâu thuẫn cơ bản ấy cho kinh tế, xã hội tiếp tục phát
triển cao hơn chế độ TBCN. Lãnh đạo và tổ chức quá trình cách mạng XHCN và

xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản, chỉ có thể là sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân và Đảng của nó. Ph.Ăngghen khẳng định: Hoàn thành đợc kỳ công
ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại. Còn Lênin chỉ rõ: "điều
chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử toàn thế
giới của giai cấp vô sản là ngời xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa" (7).
Nh vậy, những đặc trng của GCVS mà Mác, Ăngghen đã nêu và Lênin
tiếp tục phát triển, khẳng định là phù hợp với điều kiện lịch sử ngày ấy. Những
(7)

V.I Lênin - C.Mác - Ph. Ăngghen, Chủ nghĩa Mác, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 1976, tr 61

11


đặc trng cơ bản đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Nó là cơ sở phơng pháp luận
khoa học để cho chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại trong điều kiện
lịch sử mới.
II. Sự phát triển của cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại

Cuc cỏch mng khoa hc v cụng ngh din ra t gia th k XX, c
bit l t thp niờn 70 n nay ó lm bin i sõu sc v ton din nn kinh t
t bn ch ngha, ng thi lm thay i nhanh chúng v sõu sc c cu kinh t
- sn xut v chin lc iu chnh, thớch ng ca ch ngha t bn hin i.
n lt nú, s thay i kinh t ó tỏc ng n cỏc giai tng xó hi, c bit l
giai cp cụng nhõn hin i. Cu trỳc xó hi ca ch ngha t bn núi chung v
giai cp cụng nhõn núi riờng trong cỏc nc t bn phỏt trin cú nhng thay i
to ln vi nhng c im mi khỏc hn so vi cỏc thi k trc õy:
Th nht: Vi s bựng n trong cụng ngh vi in t, tin hc, t ng
húa, vt liu, nn sn xut ca cỏc xó hi cụng nghip ó chuyn sang s dng
ngun nguyờn liu phi tp trung, cú th tỏi sinh v nhõn to. H thng mỏy múc

c chuyn sang t ng hoỏ ng b, dựng ớt nng lng, nhiờn liu. Sn
phm chuyn sang tiờu chun: nh, bn, p v cha hm lng khoa hc cao.
Vi phng phỏp sn xut linh hot, t chc qun lý cụng nghip cú nhng bin
i ln. Hiu qu sn xut ch yu ph thuc vo yu t t duy ri mi n yu
t vt cht. Cỏc sỏng kin nh ca c s sn xut c coi trng. Hin ang cú
xu hng chuyn chc nng qun lý v quyt nh n gn vi sn xut nm
bt c hi nhanh chúng, nhm rỳt ngn thi gian ra quyt nh.
Th hai: Di tỏc ng mnh m ca cỏch mng khoa hc v cụng ngh
hin i, phng thc sn xut ó cú nhng thay i mang tớnh cỏch mng, ó
chuyn t xó hi cụng nghip sang xó hi thụng tin. Trong tin trỡnh ny, c cu
c cu kinh t cỏc nc t bn phỏt trin cú nhng thay i rt c bn, theo
hng tng t trng khu vc dch v v gim t trng nụng nghip, cụng nghip.
Trong GDP, nụng nghip ch chim khong 2%, cụng nghip - ch to chim
khong 30 - 40%, khong 60% thuc v ngnh dch v. C cu ni b sn xut
cụng nghip v dch v thay i theo hng cỏc ngnh cụng nghip c in
(khai thỏc nguyờn, nhiờn liu, s ch...) gim dn t trng v ý ngha; cỏc ngnh
sn xut, dch v da trờn cụng ngh cú hm lng khoa hc k thut cao ngy
cng cú v trớ ỏng k. Ngy nay mc tiờu khụng dng tỏi sn xut m l lao
ng sỏng to to ra giỏ tr gia tng cao, nhm tng kh nng cnh tranh.
12


Thứ ba: Sự thay đổi cơ cấu kinh tế đã dẫn đến thay đổi cơ cấu nghề
nghiệp và cơ cấu giai cấp trong xã hội, trong đó có cơ cấu của GCCN. Nếu như
trong những năm 50 của thế kỷ XX, công nhân công nghiệp “cổ xanh” là thành
phần xã hội lớn nhất trong GCCN ở tất cả các nước TBPT (ở Mỹ công nhân “cổ
xanh” chiếm tới 2/5 lực lượng lao động), thì đến thập niên 90, nhóm công nhân
này ngày càng giảm sút về số lượng (ở Mỹ chỉ còn chiếm ít hơn 20% lực lượng
lao động, thậm chí đến năm 2000 còn chưa tới 10%). Trong đội ngũ GCCN, có
đến 60 - 70% là những người có trình độ KHKT, là nhân viên trong hệ thống tin

học, là người quản lý, nhà giáo, các nhà khoa học... tạo thành mô hình công
nhân tri thức, người ta còn gọi họ là tầng lớp trung gian mới.
Bản thân GCTS cũng biến đổi. Các nhà tư bản gia tộc truyền thống vẫn
tiếp tục tồn tại, nhưng tỷ trọng dần giảm xuống. Địa vị quyết định trong xã hội
của giai cấp chủ sở hữu tư bản cổ điển ngày càng giảm dần. Các công ty ngày
nay thường phải huy động vốn qua hình thức cổ phần hoá. Số lượng chủ sở hữu
tập thể tăng lên, trong đó có cả cổ đông thuộc các tầng lớp lao động, trung lưu
kể cả những người có vốn là sở hữu trí tuệ. Số cổ đông lập hội đồng quản trị
điều hành công ty chứ không phải các ông chủ lớn như trước. Một số tầng lớp
mới xuất hiện như chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc, uỷ viên ban giám
đốc, giám đốc, nhân viên quản lý và nhân viên đại lý. Họ nắm giữ quyền quyết
sách và quyền quản lý kinh doanh của công ty, đảm nhận chức vị cao trong
chính phủ, gây ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách của nhà nước, có vai
trò ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các nước
TBPT, dẫn đến sự hình thành tầng lớp nhà tư bản giám đốc. Sự xuất hiện của
tầng lớp này được các học giả phương Tây gọi là "cuộc cách mạng giám đốc".
Theo số liệu điều tra, vào những năm 60 của thế kỷ XX, ở Mỹ, các công ty do
các gia tộc tư bản trực tiếp khống chế chỉ chiếm 15,5% tổng số công ty, các
công ty do nhà tư bản giám đốc khống chế chiếm 84,5%. Trong thập niên 80 của
thế kỷ XX, trong số 1.475 chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc của 100
công ty lớn nhất nước Mỹ, chỉ có 10% là con cháu của các gia tộc tỉ phú. Đồng
thời, những "quí tộc" kỹ thuật mới đã đứng vào hàng ngũ những đại tỉ phú. Theo
số liệu năm 1999, trong số 400 siêu tỉ phú được tạp chí Forbes công bố, có 71 vị
là những "quý tộc" kỹ thuật mới.
Thứ tư: Giá trị lao động của con người tăng đáng kể dưới sự tác động của
cách mạng KHCN. Điều khiển tự động hoá ngày càng phát triển, con người
ngày càng được giải phóng khỏi sản xuất trực tiếp. Có nhiều thời gian cho phát
13



triển nhân cách và tài năng tiềm tàng của bản thân, nền sản xuất hàng hoá lớn sẽ
dần được thay bằng sản xuất loạt nhỏ, với mẫu mã, chất lượng thích hợp với thị
hiếu tiêu dùng của từng nhóm khách hàng riêng biệt. Lối sống của con người
ngày nay cũng chịu ảnh hưởng đáng kể của những biến đổi công nghệ. Với sự
phát triển dịch vụ tại gia, với những công cụ cơ khí hoá và tự động hoá, với
mạng lưới thông tin thông qua máy tính công việc nội trợ ngày nay đã được
giảm nhẹ đi rất nhiều. Người ta dành nhiều thời gian rỗi cho việc giải trí, sinh
hoạt xã hội, v.v..
Thứ năm: Ở các nước TBPT, công nghệ thông tin và viễn thông đang trở
nên ngày càng phổ biến, được áp dụng trong tất cả các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Cơ cấu việc làm cũng có những thay đổi sâu sắc theo hướng sử dụng
lao động có trí tuệ cao ngày càng tăng. Có nhiều việc làm mất đi do đổi mới
công nghệ và sắp xếp lại sản xuất, nhưng lại có nhiều công việc mới được tạo ra
do xuất hiện một số ngành sản xuất mới có hàm lượng trí tuệ cao. Vị trí làm việc
“ảo” ra đời, không cần phải tiếp xúc trực tiếp trong công việc và giao dịch. Tuy
chưa phổ biến nhưng rồi hình thức làm việc này sẽ mở rộng trong tương lai, đòi
hỏi các phẩm chất mới - cơ động và chủ động ở người lao động trong tương lai.
Công nghệ mới và các hình thức tổ chức lao động mới kéo theo sự thay
đổi về nhu cầu đối với người lao động có trình độ cao. Hiện nay, các doanh
nghiệp đều cần những lao động biết học tập và biết thích nghi với sự biến đổi
của cơ chế thị trường. Trình độ học vấn cao là cần thiết, nhưng quan trọng hơn
là người lao động phải làm chủ được tri thức, nhanh chóng áp dụng có hiệu quả
những tri thức mà mình đã học vào sản xuất. Điều đó cần có sự vững vàng trước
những biến động của xã hội, cần có khả năng thích nghi và sáng tạo - cả hai yêu
cầu này rất quan trọng để tạo vị thế cho người lao động có trình độ học vấn cao
đứng vững trong cơ chế thị trường. Được chuẩn bị tốt về mặt trí tuệ và về thái
độ nghề nghiệp để tiếp thu công nghệ ngày một tiên tiến, đội ngũ cán bộ khoa
học và kỹ thuật có trình độ học vấn cao ngày càng thể hiện là khâu then chốt, là
nòng cốt của nguồn nhân lực, quyết định sự phát triển đất nước nhanh và bền
vững. Thêm vào đó, xu hướng hiện nay là đa năng, tức là kết hợp giữa năng lực

kỹ thuật, khả năng quản lý và tài năng doanh nghiệp (ở đây muốn nói đến khả
năng thích nghi và kỹ năng ứng xử trong xã hội), ba yếu tố này tạo nên mô hình
của người lao động mới.
Thứ sáu: Mức độ xã hội hóa lao động và tư bản nhanh. Sự phát triển các
ngành kéo theo sự tích tụ và tập trung vốn, quá trình cổ phần hóa và xã hội hóa
14


tư bản từ đó cũng phát triển. Cùng với quá trình này, một tầng lớp trung gian
hữu sản được hình thành, xóa nhòa ranh giới cụ thể giữa lao động và tư bản cổ
điển. Lao động được xã hội hóa thông qua việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa
các đơn vị làm ra sản phẩm trong xã hội.
Tuy nhiên, những hậu quả do không đáp ứng và chưa kịp thích nghi với
những biến đổi của KHCN cũng hết sức gay gắt:
Một là, số lượng thất nghiệp của lao động không lành nghề trong xã hội
mới sẽ tăng lên vì không đáp ứng được đòi hỏi của công nghệ. Trong xã hội hiện
đại, nhân lực, việc làm không chỉ là vấn đề số lượng mà là vấn đề chất lượng.
Mỗi quốc gia không lường được sự biến đổi và đáp ứng được yêu cầu này của
công nghệ sẽ dẫn đến "khủng hoảng" thừa và thiếu về nhân lực.
Hai là, con người ngày càng được giải phóng khỏi sản xuất trực tiếp càng
đòi nhiều quyền tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo... Xã hội sẽ thường
xuyên biến động vì luôn xuất hiện các tư tưởng, trào lưu, tâm lý mới đòi xem
xét, đánh giá lại những giá trị trước đây của xã hội công nghiệp. Trong tương
lai, sự xung đột nhân sinh quan giữa xã hội cũ và mới, giữa các hệ tôn giáo về
giá trị đạo đức, văn hoá , việc làm, gia đình, giới tính, tư tưởng, giáo dục... luôn
luôn nổ ra và rất khó kiểm soát. Các hiện tượng sa đoạ đồi truỵ, bạo lực, tội
phạm gia tăng. Bất công xã hội có xu hướng ngày một tăng…
Ba là, những tiến bộ KHCN, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin, đòi hỏi
trình độ của nguồn nhân lực phải cao hơn và năng động hơn. Người lao động có
được tính độc lập cá nhân trong tổ chức làm việc, nhưng lại cần có một tri thức

tương đối rộng để có thể hội nhập với thị trường lao động quốc tế. Điều này có
tác động hai mặt: một mặt, nó tăng cường vai trò của yếu tố con người trong quá
trình sản xuất, nhưng mặt khác,nó làm cho họ rất dễ tổn thương trước những
thay đổi trong tổ chức lao động, vì họ là một cá nhân đơn lẻ đối mặt với một
mạng lưới hết sức phức tạp.
Đối với công nhân trực tiếp sản xuất, họ chịu ảnh hưởng của việc phát
triển công nghệ mới và các hình thức tổ chức lao động mới. Có rất nhiều công
việc truyền thống sử dụng cơ bắp dần dần được thay thế bằng máy móc, nên
việc làm tương ứng giảm xuống, kéo theo một số người lao động không có việc
làm. Việc phân cực việc làm theo trình độ đang ngày càng gia tăng: một bên là
các hoạt động có hàm lượng tri thức và thông tin cao với mức lương cao, còn
bên kia là các hoạt động có hàm lượng cơ bắp cao, mức lương thấp. Trong hệ
15


thống sản xuất mới, người công nhân vừa trực tiếp sản xuất vừa đảm nhận các
chức năng của nhà phân tích, nhà quản lý, do đó, đòi hỏi khả năng trí tuệ của họ
ở mức cao hơn nhiều so với chức năng khi họ chỉ là người thừa hành. Điều đó
đòi hỏi người công nhân phải có trình độ hơn, nắm bắt thông tin tốt hơn.
III. xu thÕ toµn cÇu hãa

Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng KHCN trên thế giới đã thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình TCH. Sự bùng nổ của công nghệ sản xuất hiện đại và kỹ
thuật thông tin đa quốc gia góp phần tạo ra nền sản xuất chung và thị trường
chung của thế giới. Các công ty đa quốc gia (TNCs) đã tổ chức phân công lao
động và tổ chức sản xuất vượt qua biên giới quốc gia. Các công ty này có thể chi
phối cả các chính phủ riêng biệt, có cả ngoại giao đoàn và cơ quan tình báo công
nghiệp. Cùng với các thiết chế quốc tế như ngân hàng liên quốc gia, thị trường
chứng khoán liên quốc gia, các công ty đa quốc gia này đã đẩy nhanh xu hướng
gắn chặt hữu cơ nền kinh tế các nước trên quy mô quốc tế. Sự hình thành một thị

trường toàn cầu về việc làm, vốn, công nghệ và đặc biệt là thông tin đã và đang
trở thành hiện thực.
Kết quả của quá trình TCH, với việc mở rộng hoạt động và thiết chế quản
lý của các TNCs ra quy mô toàn cầu là, lao động của hàng triệu công nhân được
hợp nhất một cách trực tiếp về mặt công nghệ vào một quá trình sản xuất liên
tục thống nhất. Trong khi ở những giai đoạn trước đây, lao động của họ chỉ được
hợp nhất một cách gián tiếp bởi thị trường mà thôi. Như vậy, CNTB thế giới đã
tạo ra không chỉ một hệ thống toàn thế giới thực sự của quá trình tái sản xuất và
lợi nhuận, mà còn cả “người công nhân tổng thể toàn thế giới”.
Đồng thời, quá trình này cũng dẫn tới sự phân công lao động quốc tế ngày
một mạnh mẽ, gia tăng sự luân chuyển nguồn nhân lực giữa các quốc gia, khu
vực. Điều này đồng nghĩa với việc, người lao động có cơ hội lớn hơn trong lựa
chọn nơi, địa điểm làm việc. Về lý thuyết, giờ đây người lao động có thể đến
làm việc ở bất cứ nơi đâu, cho bất cứ công ty, xí nghiệp nào trên thế giới. Và
thực tế cho thấy, không ít công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh thu hút
lao động từ rất nhiều quốc gia, khu vực khác nhau. Cùng với đó, TCH tạo cơ hội
cho người lao động của các nước khác nhau trực tiếp cùng nhau làm việc trong
một dây chuyền, xí nghiệp sản xuất nhất định. Thực tế này giúp cho công nhân,
người lao động mang quốc tịch khác nhau, với những giá trị văn hóa, tín ngưỡng
khác nhau không chỉ nhận thức sâu sắc hơn, mà còn trải nghiệm cái chung về lợi
16


ích, cái chung về địa vị xã hội của giai cấp mình, từ đó họ đoàn kết chặt chẽ hơn,
hành động nhất quán hơn trong cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích chung, vì mục tiêu
chiến lược chung.
Nếu như trước kia, mối liên kết quốc gia cho phép nhà nước đóng vai trò
phân phối lại nhằm giảm bớt sự bất bình đẳng xã hội và tránh rạn nứt xã hội, thì
từ khi diễn ra quá trình TCH, việc làm này đã bị giảm thiểu đáng kể, vì bất kỳ
chính sách phân phối lại nào cũng đều có thể có hậu quả xấu đến tính cạnh

tranh. Do vậy, thu nhập thực tế của tầng lớp dưới ở các nước TBPTđang giảm
xuống một cách đáng kể.
Toàn cầu hóa, một mặt thúc đẩy sự phát triển, nhưng mặt khác cũng làm
gia tăng hố ngăn cách giàu nghèo và sự bất bình đẳng ở các nước TBPT giữa
một bên là lớp người có trình độ học vấn cao, được hưởng lương cao, còn bên
kia là những người không được học hành, hay nói đúng hơn là không có cơ hội
để được học, đang phải hứng chịu mọi hậu quả cạnh tranh trong thị trường lao
động. Sự gia tăng của tiến bộ công nghệ, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông
tin, đòi hỏi phải thích ứng thật nhanh chóng với mọi thay đổi và phát triển của
xã hội. Bên cạnh đó, TCH đòi hỏi từng cá nhân phải năng động, linh hoạt, có
khả năng làm việc theo êkíp, hoà hợp được với những người có tâm tính và quy
tắc xử sự khác nhau. Bên cạnh sự tương phản giàu nghèo, TCH đưa đến sự thất
nghiệp, tồn tại hố ngăn cách giữa những người có việc làm được trả lương cao
và những người bị gạt ra khỏi các nhà máy, xí nghiệp, đẩy người lao động
không có việc làm vào cảnh sống cùng quẫn.
Dưới tác động của TCH, xuất hiện các dòng lao động di cư, chủ yếu là từ
các nước đang phát triển sang các nước phát triển, từ các nước nghèo sang các
nước giàu hơn. Lao động di cư phổ biến nhất là lao động có kỹ năng chuyên
môn, được đào tạo… của các nước đang phát triển chuyển đến sinh sống và làm
việc ở các nước phát triển, hay còn gọi là tình trạng chảy máu chất xám (brain
drain). Trong số những người nhập cư hợp pháp vào Mỹ có tới 21% đã được đào
tạo ít nhất 17 năm, tức là được đào tạo sau đại học ở một mức độ nhất định (8).
Theo thống kê năm 1998 của IMF, khoảng 12,9 triệu người thuộc tầng lớp có
học thức đã di cư từ các nước kém phát triển hơn sang các nước OECD, trong
đó có 7 triệu người đến Mỹ và 5,9 triệu người còn lại chủ yếu đến châu Âu(9).
The Economist, ngày 28/9/2002.
Maassey, World in Motion: Understanding Internationale Migration at the End of the Millennium, Oxford
University Press, 1998.
(8)


(9)

17


Dòng lao động di cư và nạn chảy máu chất xám ảnh hưởng mạnh mẽ đến
cả nước xuất xứ lẫn nước tiếp nhận. Đối với nước tiếp nhận, dòng người lao
động nhập cư giúp bù đắp nguồn lao động thiếu hụt, tiết kiệm chi phí đào tạo.
Bên cạnh đó, lao động nhập khẩu còn giúp đáp ứng nhu cầu về lao động ở
những lĩnh vực có tiền công rẻ mạt hoặc công việc nặng nhọc, nguy hiểm ở các
nước phát triển mà người dân bản xứ không muốn làm như xây dựng, khai thác
mỏ và đồn điền, v.v… Nhờ đó, nước tiếp nhận lao động nhập cư có thể tiết kiệm
được chi phí đầu vào, giữ vững lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, lao động nhập cư,
nhất là qua con đường bất hợp pháp, cũng gây ra những tác động tiêu cực nhất
định cho nước tiếp nhận. Những nước có số lượng người nhập cư lớn thường
phải chịu sự quá tải về gánh nặng phúc lợi xã hội. Tình trạng người nhập cư
sống tập trung quá mức ở một số vùng nhất định tạo ra sức ép lớn đối với vấn đề
nhà ở, giao thông và các dịch vụ công cộng khác.
Với sự phát triển của TCH, quá trình dịch chuyển sản xuất và lao động từ
các nước TBPT đến các nước đang phát triển, cũng như tình trạng nhập cư tăng
mạnh đã khiến cho một bộ phận công nhân ở các nước này có xu hướng phát
triển theo xu hướng cánh hữu và sô vanh. Họ đấu tranh chống lại công nhân ở
các nước khác và chống lại người lao động nhập cư. Cuộc cạnh tranh tư bản
toàn cầu bị biến thành cuộc cạnh tranh của người lao động chống lại người lao
động. Điều này có nguyên do của nó: TCH càng đi vào chiều sâu càng thúc đẩy
các nhà đầu tư chuyển vốn ra nước ngoài, đồng thời với nó là làn sóng chuyển
công ăn việc làm ra ngoài lãnh thổ của các nước phát triển. Hậu quả của xu thế
này là không chỉ người lao động bị mất việc làm, mà hàng loạt tổ chức công
nhân ở các cơ sở, xí nghiệp ở các nước phát triển bị đóng cửa cũng buộc phải
giải tán. Cùng với đó là thái độ kỳ thị với lao động nhập cư. Mặc dù những năm

gần đây thái độ này đã có chuyển biến tích cực, song trong nội bộ GCCN ở các
nước TBPT, trong ý thức, tư tưởng của một bộ phận không nhỏ người lao động
vẫn chưa phải đã loại bỏ được hoàn toàn quan niệm, thái độ thiếu thiện chí, phân
biệt chủng tộc với bộ phận những người lao động nhập cư.
IV. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ TRI THỨC

Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX xuất hiện một hình thái kinh tế
mới của thời đại thông tin, đó là kinh tế tri thức. Nền kinh tế này xuất hiện đã
tạo ra những biến đổi to lớn trong mọi mặt hoạt động của con người và xã hội:
tạo ra cơ sở hạ tầng của xã hội mới – xã hội thông tin, khác hẳn các nền kinh tế
chủ yếu dựa vào sức người và tài nguyên trong xã hội nông nghiệp và xã hội
18


công nghiệp. Kinh tế tri thức về cơ bản dựa trên cơ sở công nghệ cao và tri thức,
đó là nét đặc trưng rất tiêu biểu của nền văn minh thông tin- sản phẩm của cách
mạng thông tin, cách mạng tri thức. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) định nghĩa kinh tế tri thức là kinh tế được xây dựng trên cơ sở sản xuất,
phân phối và sử dụng tri thức và thông tin. Nói đơn giản, đó là nền kinh tế dựa
vào tri thức. Các ngành sản xuất và dịch vụ mới do công nghệ cao tạo ra như các
dịch vụ khoa học công nghệ, các dịch vụ tin học, các ngành công nghiệp công
nghệ cao... được gọi là ngành kinh tế tri thức. Các ngành truyền thống như công
nghiệp, nông nghiệp, nếu được cải tạo bằng công nghệ cao, mà giá trị do tri thức
mới, công nghệ mới đem lại chiếm trên hai phần ba tổng giá trị, thì những ngành
ấy cũng là ngành kinh tế tri thức. Nền kinh tế gồm chủ yếu các ngành kinh tế tri
thức gọi là kinh tế tri thức.
Những đặc trưng của kinh tế tri thức là thị trường chất xám, mà con người
là vốn quý nhất, nhiều hoạt động kinh tế đã được số hoá và vận hành trên các xa
lộ thông tin, sự chu chuyển thông tin trên các mạng máy tính sẽ trở thành nguồn
sống của sự tăng trưởng kinh tế đối với tất cả các nước. KHCN sẽ thúc đẩy

LLSX phát triển lên một tầm cao mới, kéo theo QHSX cũng thay đổi, quan niệm
về sở hữu cũng thay đổi (trước kia chúng ta quan niệm sở hữu là sở hữu vật chất
về TLSX, nay là cả sở hữu trí tuệ), làm thay đổi cả quan niệm về quản lý (trước
kia là quản lý theo thứ bậc, nay là cả quản lý theo mạng). Trong kinh tế tri thức,
nguồn lực con người là yếu tố chủ yếu cạnh tranh trên thị trường, ưu thế về tri
thức ở mỗi quốc gia sẽ dần dần thay thế cho quan niệm ưu thế về vốn, nguồn
nguyên liệu và nhân công rẻ.
Kinh tế tri thức làm biến đổi căn bản cuộc cách mạng công nghiệp. Tức là
đồng thời với việc nâng cao hàm lượng tri thức trong các sản phẩm hàng hoá là
một loạt các thay đổi về LLSX và QHSX mới. Nếu so sánh với nền kinh tế công
nghiệp thì cuộc cách mạng công nghiệp trong thời kỳ kinh tế tri thức được thể
hiện chủ yếu là cách mạng tri thức, chứ không phải đơn thuần chỉ có cách mạng
công nghệ. Công nghiệp dựa trên cơ sở của cuộc cách mạng tri thức làm cho nội
dung và hình thức của các ngành công nghiệp phải chuyển hướng. Các ngành
kinh tế chủ yếu sẽ được thay thế bằng các ngành công nghiệp với hàm lượng tri
thức cao. Cơ cấu kinh tế lúc này không chỉ có ba khu vực nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ mà thêm một lĩnh vực công nghiệp phần mềm hay còn gọi là
công nghiệp tri thức (ngành công nghiệp có hàm lượng tri thức cao). Đến lúc đó,
tỷ trọng trong nông nghiệp và công nghiệp chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với tỷ
19


trọng dịch vụ và công nghiệp phần mềm trong kinh tế tri thức. Và cơ cấu lao
động cũng phải chuyển đổi cho phù hợp với cơ cấu của nền kinh tế mới này.
Kinh tế tri thức dựa trên cơ sở KHCN tiên tiến và mạng xa lộ thông tin
hiện đại, trong đó tri thức và công nghệ trở thành yếu tố quyết định nhất của sản
xuất, quan trọng hơn so với vốn, tài nguyên và lao động. Nhiều khái niệm đã
thay đổi, nhiều quy tắc hoạt động kinh tế trước đây không còn phù hợp nữa; đã
hình thành những luật chơi mới đòi hỏi tốc độ, sự linh hoạt, sự đổi mới và sức
sáng tạo. Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử

dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra việc
làm và của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống, có năng suất, chất lượng, hiệu
quả cao, tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển nhanh nhiều loại cơ cấu: kinh tế,
lao động, việc làm, cơ cấu giai cấp... và xã hội không ngừng đổi mới. Song, nó
cũng mang nhiều tính rủi ro và luôn đặt ra nhiều thách thức mới. Cơ cấu lao
động thay đổi rất lớn, người lao động trực tiếp bằng cơ bắp giảm đi, người làm
các công việc xử lý thông tin, điều khiển, kiểm soát, làm việc ở văn phòng tăng
lên, công nhân áo trắng nhất là công nhân tri thức, chiếm đa số trong lực lượng
lao động. Sản xuất công nghệ cao, công nghệ phần mềm sẽ trở thành loại hình
sản xuất quan trọng nhất.
Tác động của kinh tế tri thức là rất rộng với những điểm chính sau:
Đối với lĩnh vực tổ chức và quản lý: Chủ thể và đối tượng quản lý đại bộ
phận là công nhân tri thức (knowledge workers). Việc áp dụng các thành tựu của
cách mạng KHCN (nhất là công nghệ thông tin) vào quản lý đòi hỏi chủ thể
quản lý phải nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt. Còn đối tượng quản lý tuy
vẫn là quá trình sản xuất, nhưng là quá trình ứng dụng khoa học trong lĩnh vực
công nghệ, trong đó máy móc đã thay thế hầu hết lao động chân tay, còn lao
động sống chủ yếu là lao động trí óc kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình
sản xuất, đứng bên cạnh quá trình ấy. Cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư và cơ cấu
lao động thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng các ngành kinh tế tri thức, các ngành
dịch vụ, tăng đầu tư vô hình và tăng công nhân tri thức.
Nguồn lực đầu vào cho sản xuất quan trọng hàng đầu là tri thức. Lợi thế
so sánh truyền thống không còn đúng nữa; lợi thế so sánh của một nước trong
kinh tế tri thức không được quyết định bởi những nhân tố tĩnh và có sẵn như tài
nguyên thiên nhiên... mà dựa trên sức mạnh của tri thức không có sẵn, phải nỗ
lực đầu tư để tạo ra. Tri thức trở thành nguồn duy nhất tạo ra lợi thế so sánh dài
20


hạn. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ và vòng đời sản phẩm

rút ngắn, ngắn hơn vòng đời của thiết bị, máy móc. Do đó, sự phát triển, sự
chiến thắng trong cạnh tranh, chủ yếu phải dựa vào cái mới (hay đổi mới cái
hiện có). Do đó thường xuyên xuất hiện những công ty mới, những ngành mới
và nhiều công ty cũ phải tìm cách chuyển hướng sản xuất linh hoạt hoặc bị phá
sản hoặc phải sát nhập vào các công ty mạnh. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
cơ cấu đầu tư đã làm mất nhiều chỗ làm việc của lao động giản đơn, nhưng lại
tạo ra nhiều việc làm cho lao động trí óc, cho những người lành nghề.
Đối với lĩnh vực phân phối: Trí tuệ trở thành nguồn lực hàng đầu của sản
xuất. Những doanh nghiệp đi đầu trong ứng dụng công nghệ mới tạo ra sản
phẩm mới sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình. Những ngành
kinh tế tri thức, nhất là ngành công nghệ thông tin thu được lợi nhuận cao hơn
những ngành khác. Những người “siêu giàu” của CNTB trong nền kinh tế công
nghiệp là những ông vua thép, vua dầu hỏa, tức là những người nắm những
ngành sản xuất và lưu thông hàng hoá chủ yếu, còn những người “siêu giàu”
trong thời đại kinh tế tri thức lại là những ông vua chế tạo máy vi tính, các phần
mềm, các chủ hãng viễn thông, phát thanh truyền hình, tức là những người nắm
những ngành sản xuất và lưu thông tri thức. Rõ ràng lợi nhuận từ các nguồn lực
truyền thống ngày càng ít đi, của cải và lợi nhuận chủ yếu bây giờ được tạo ra từ
thông tin và tri thức.
Những công nhân tri thức cũng được hưởng tiền lương và tiền thưởng tuỳ
theo trình độ tri thức và kỹ năng của mình, tuỳ theo tài sáng tạo, phát minh của
mình và thu nhập cao hơn công nhân cổ xanh và lao động tạp vụ rất nhiều. Hệ
thống tiền lương và tiền thưởng mang nặng tính chất bình quân sẽ trở ngại cho
việc khuyến khích tính năng động sáng tạo, không phù hợp với kinh tế tri thức.
Có thể thấy, kinh tế tri thức hình thành và phát triển đã làm thay đổi định
hướng phát triển kinh tế từ chỉ vì lợi nhuận chuyển sang định hướng phát triển
đồng thuận giữa kinh tế- xã hội- môi trường. Tác động về mặt xã hội thể hiện sự
xoá bỏ dần khoảng cách giữa lao động chân tay và lao động trí óc, xoá bỏ dần
lao động sản xuất trực tiếp với lao động lãnh đạo quản lý, đội ngũ công nhân
đang vươn lên trở thành - giai cấp vô sản trí thức hay công nhân tri thức hóa,

làm mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn. Sự phân công lao động xã
hội trong kinh tế tri thức rõ nhất từ khi ra đời hình thức công ty cổ phần có công
nhân lao động tham gia. Trong các công ty cổ phần mà cổ đông là công nhân
chiếm trên 50% tổng số vốn, công nhân tri thức đã tham gia quản lý doanh
21


nghiệp. Những lực lượng này có thu nhập cao, bởi lẽ ngoài tiền lương, công
nhân còn được hưởng cổ tức, đội ngũ công nhân này ngày càng đông. Đây là lực
lượng chủ yếu của nền kinh tế tri thức, bao gồm công nhân kỹ thuật cao, nhà
khoa học, nhà quản lý và chuyên gia các lĩnh vực. Đó là những người tạo ra của
cải vật chất và văn minh xã hội.
Như vậy, sự chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp là sự
chuyển từ lao động thủ công sang lao động máy móc, từ kinh tế lao động sang
kinh tế tài nguyên. Sự chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức là sự
chuyển từ nền kinh tế dựa vào lao động và tài nguyên sang nền kinh tế dựa vào
trí tuệ, mà con người là yếu tố quan trọng nhất. Sự nhảy vọt về phát triển LLSX
chắc chắn sẽ gây ra những biến động to lớn, sâu sắc đến mọi mặt đời sống nhân
loại trên toàn hành tinh, một cuộc cách mạng xã hội rộng lớn thay thế những
quan hệ xã hội đã lỗi thời bằng những quan hệ tiên tiến, phù hợp.
V. NHỮNG ĐIỀU CHỈNH CỦA GIAI CẤP TƯ SẢN VÀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

Trước những tác động to lớn của cuộc cách mạng KHCN hiện đại, TCH
và nền kinh tế tri thức, để duy trì sự tồn tại của mình, GCTS buộc phải điều
chỉnh chính sách đối với những người lao động, đối với GCCN. Họ liên tục điều
chỉnh, hoàn thiện cấu trúc của CNTB trên cơ sở khai thác triệt để các thành tựu
KHCN, thi hành nhiều chính sách làm xoa dịu các mâu thuẫn nội bộ, v.v… Với
nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, GCTS đã phần nào thành công trong việc
phân hóa, bóc lột công nhân, lao động.
Giai cấp tư sản đã điều chỉnh các quan hệ kinh tế và sở hữu theo hướng xã

hội hóa (biểu hiện rõ nhất là cho công nhân được tham gia quản lý thông qua đại
biểu trong hội đồng xí nghiệp theo “chế độ tham dự” và “chế độ ủy nhiệm”; cho
người lao động, các tổ chức công đoàn tham gia quản lý kinh tế - xã hội và 10%
sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về các tập thể lao động…). Đồng thời, GCTS buộc
phải nhượng bộ, phải trích một phần giá trị thặng dư mà họ chiếm đoạt, chia cho
người lao động và cải thiện đời sống tinh thần tương ứng thông qua việc đảm
bảo phúc lợi xã hội, nâng cao mức sống của công nhân...
Giới cầm quyền ở các nước TBCN phát triển đều đã phải ban hành nhiều
điều khoản hiến pháp và pháp luật trên cơ sở tính đến quyền con người, quyền
công dân và tuân theo chế độ cộng hòa với nhiều nội dung mang tính dân chủ,
tiến bộ. Thông qua quyền lực nhà nước, GCTS khôn khéo thi hành các chính
sách mang tính cải lương để tranh thủ các tầng lớp trong xã hội và trong GCCN,
22


nhằm tạm thời rút ngắn khoảng cách thu nhập, làm chậm lại tốc độ phân hóa,
làm giảm bớt cuộc đấu tranh giai cấp ở trong nước để tăng thêm điều kiện bóc
lột công nhân ngoài nước…
Trong bối cảnh có nhiều thay đổi các chính sách kinh tế và chính trị,
GCTS ở một khía cạnh nào đó, đã tăng cường được cơ sở xã hội của mình, cục
bộ hóa sự bất bình của một bộ phận quần chúng (những người thất nghiệp, bị
tiến bộ KHKT đẩy ra ngoài lề, thanh niên mới ra trường chưa có việc làm ổn
định, những người có tay nghề thấp, non yếu, công nhân ngoại quốc...). Sự bất
bình của bộ phận người này được xoa dịu bằng hệ thống phúc lợi xã hội có thể
đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu. Xu thế gia tăng trí thức hóa trong GCCN đã tạo
ra ảo tưởng tâm lý, sự ngộ nhận về xu thế hữu sản hóa lực lượng lao động làm
thuê, điều đó khiến cho GCTS dễ dàng hơn trong việc chia rẽ hàng ngũ công
nhân, lôi kéo một bộ phận đi theo mình, mặt khác thi hành những chính sách và
biện pháp hạn chế quyền bãi công, biểu tình của công nhân.
Trên một khía cạnh khác, GCTS ở các nước TBPT, trong một chừng mực

nào đó, đã đưa tính đối kháng của quan hệ bóc lột ra ngoài biên giới, chuyển nó
thành mâu thuẫn Bắc - Nam. Sự chênh lệch về trình độ của LLSX đã cho phép
tư bản xuyên quốc gia không chỉ thiết lập ách thống trị về mặt kinh tế, chính trị
và tinh thần theo kiểu chủ nghĩa thực dân mới đối với phương Nam, mà về căn
bản còn tư sản hoá được GCVS đất nước mình, biến họ thành những người cùng
tham gia bóc lột đối với các vùng kém phát triển về kinh tế. Trong ''mô hình mới
của sự phát triển tư bản chủ nghĩa'', GCVS ở các nước TBPT được coi như là
những ''công nhân quí tộc”. Đồng thời, GCTS còn thiết lập nhiều cơ quan hiệp
tác lao động và tư bản dưới nhiều tên gọi để lôi kéo mua chuộc người lãnh đạo
công đoàn, khiến cho công đoàn sau khi đàm phán thành công với giới chủ
thường hợp tác với tư bản, nhất là khi giới chủ gặp phải khó khăn trong thị
trường tiêu thụ, các thành viên của nó thường thừa nhận sự đoàn kết nhất trí với
giới chủ chứ không phải là với công nhân của nhà máy khác hay của nước khác.
Bởi vậy, PTCN, công đoàn ở các nước phát triển phương Tây đang dần dần
mang tính "phường hội chủ nghĩa" nhiều hơn.
VI. NHỮNG THAY ĐỔI CỦA CỤC DIỆN THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH
LẠNH VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN, CÔNG NHÂN Ở CÁC
NƯỚC TƯ BẢN PHÁT TRIỂN

23


Sau gần nửa thế kỷ tồn tại kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II, chiến tranh
lạnh và trật tự thế giới hai cực với t cách là hình thái biểu hiện của cuộc đối đầu
Đông - Tây khốc liệt đã đi đến điểm kết khi chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên
Xô sụp đổ. Những sự kiện này làm thay đổi sâu sắc cục diện thế giới, khiến cho
cơ cấu địa - chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu hoàn toàn bị đảo lộn.
CNXH hiện thực lâm vào thoái trào đã đẩy cuộc khủng hoảng của PTCSQT càng
trở nên trầm trọng. Tơng quan lực lợng thế giới nghiêng về phía có lợi cho
CNTB, bất lợi đối với CNXH và các lực lợng cách mạng tiến bộ. Quá trình hình

thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh lạnh chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc,
khó đoán định.
Trong bối cảnh đó, trên thế giới đã diễn ra những thay đổi có tính chất xu
thế đan xen nhau phức tạp, thậm chí trái chiều nhau. Trên bình diện an ninh chính trị, ngay sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế hoà dịu - hoà hoãn tỏ ra
chiếm u thế trong quan hệ quốc tế. Với nhiều cấp độ khác nhau, tiến trình cải
thiện quan hệ giữa các nớc, các đối thủ cũ vốn từng đứng trên hai trận tuyến đối
lập nhau đợc thúc đẩy, hình thành nhiều mối quan hệ hợp tác, liên kết mới trên
các lĩnh vực theo xu hớng chú trọng lợi ích dân tộc và mục tiêu phát triển. Quan
hệ giữa các nớc lớn thay đổi nhanh chóng, từ chỗ mất cân bằng chuyển sang tìm
kiếm sự cân bằng mới, kiềm chế bất đồng, tránh xung đột mang tính chất đối
kháng. Mỗi nớc lớn đều coi trọng việc xác lập và củng cố những điều kiện quốc
tế có lợi, tăng cờng hệ số an toàn quốc gia, xây dựng những mối quan hệ theo
mô thức đối tác chiến lợc với quy mô khác nhau (10).Tuy vậy, vừa hợp tác, vừa
đấu tranh và cạnh tranh gay gắt với nhau; vừa thoả hiệp và xung đột, mâu thuẫn
với nhau vẫn luôn hiện diện nh hình thái đặc trng của quan hệ giữa các nớc lớn.
Mặt khác, nếu trật tự thế giới hai cực mất đi làm giảm các cuộc xung đột bắt
nguồn từ cuộc đối đầu Xô - Mỹ trớc đó, thì đồng thời nó cũng làm mất đi cái
giới hạn kiềm chế đối với các xung đột khác, hoặc làm bộc lộ rõ nét và ngày
càng gay gắt thêm một số mâu thuẫn vốn tiềm ẩn. Môi trờng an ninh toàn cầu
sau chiến tranh lạnh vẫn tiếp tục trở nên không chắc chắn. Xung đột vũ trang,
chiến tranh cục bộ, những bất ổn do mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố xảy ra ở nhiều nơi, nhất là tại khu
vực các nớc đang phát triển.

Nguyễn Hoàng Giáp, Mai Hoài Anh; Quan hệ giữa các nớc lớn trên lĩnh vực chính trị, an ninh sau chiến tranh
lạnh; Nghiên cứu quốc tế , số 1/2001, tr 56-60
(10)

24



Vận động trong điều kiện của những thay đổi rất căn bản của cục diện thế
giới nh đã nêu, GGCN và PTCN ở các nớc TBPT không thể không chịu ảnh hởng
lớn trên nhiều phơng diện. Có điều, do so sánh lực lợng thế giới bất lợi cho các
lực lợng cách mạng và tiến bộ, bởi vậy GGCN và PTCN các nớc TBPT phải đối
diện trớc những tác động tiêu cực là chủ yếu.
Tuy vậy, sự thay đổi của cục diện thế giới sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô cũng góp phần cảnh tỉnh, giúp GCCN ở các nớc TBPT ở
thấy rõ hơn thực chất những mu đồ thâm độc, xảo quyệt cùng với tham vọng
hiếu chiến của các thế lực đế quốc phản động đối với CNXH, PTCS-CNQT và
các lực lợng dân chủ, tiến bộ. Bình tĩnh và tỉnh táo phân tích thực chất sự biến
đổi của CNTB hiện đại và cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh sẽ giúp các ĐCS
và GCCN ở các nớc TBPT có đối sách thích hợp, từng bớc tìm tòi, xác định đúng
đờng lối chiến lợc và sách lợc, xúc tiến tập hợp và liên minh lực lợng trong điều
kiện lịch sử mới.
Nhìn chung, sự thay đổi của cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh đã thực
sự tạo ra những tác động tiêu cực đối với PTCS-CNQT nói chung, cũng nh
PTCS-CN và GCCN tại các nớc TBPT nói riêng. Có thể nêu một số tác động tiêu
cực chủ yếu sau:
Một là, sau sự tan rã chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, CNĐQ đứng
đầu là đế quốc Mỹ càng ráo riết bành trớng thế lực, đẩy mạnh thực hiện chiến lợc toàn cầu phản cách mạng, mu toan thao túng thế giới trong quỹ đạo của mình.
Một mặt, các thế lực đế quốc gia tăng Diễn biến hoà bình nhằm xoá bỏ các nớc XHCN còn lại, tăng cờng áp lực khống chế các nớc thế giới thứ Ba; mặt
khác, đẩy mạnh hoạt động chống phá các ĐCS, GCCN và các phong trào dân
chủ, tiến bộ ở các nớc TBPT. Biểu hiện rõ nhất là sau chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ
ngày càng tung hoành ngang ngợc với vị thế siêu cờng duy nhất, can thiệp trắng
trợn vào công việc nội bộ nhiều nớc. Sau sự kiện 11/9/2001, dới chiêu bài chống
khủng bố, cùng với Mỹ, nhiều nớc Tây Âu thông qua hàng loạt biện pháp hạn
chế quyền tự do công dân, kiểm soát chặt chẽ các tổ chức chính trị đối lập, trong
đó không ít ĐCS bị xếp vào danh sách các tổ chức cực tả. Những biện pháp này
gây cản trở lớn cho hoạt động của PTCN, GCCN tại các nớc TBPT và bị lạm

dụng nhằm chống lại những ngời cộng sản tại đây.
Trong hoàn cảnh nêu trên, GCCN ở các nớc TBPT phải đối diện gay gắt
trớc hàng loạt vấn đề mới phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. PTCN tại đây gặp
25


phải khó khăn gấp bội do không còn sự hậu thuẫn từ hệ thống XHCN, không còn
sự phối hợp hành động nh trớc đây với các nớc XHCN và PTCS-CNQT trong
cuộc đấu tranh chống CNĐQ. GCCN các nớc t bản đứng trớc đòi hỏi cấp bách
phải điều chỉnh kịp thời đờng lối chiến lợc, sách lợc và hoạt động sao cho phù
hợp với tình hình mới. ảnh hởng và uy tín của họ cũng phụ thuộc không nhỏ vào
việc liệu có khả năng bày tỏ quan điểm rõ ràng, nhất quán về nhiều diễn biến
quốc tế quan trọng và phức tạp, chẳng hạn nh quá trình NATO mở rộng, chính
sách cờng quyền của CNĐQ nói chung và của chính phủ nớc mình nói riêng,
v.v... Hơn nữa, PTCN và GCCN ở các nớc TBPT còn phải chịu áp lực trực tiếp trớc cuộc tấn công của đại t bản độc quyền thông qua chủ nghĩa tự do mới về kinh
tế, xu hớng thiên hữu về chính trị. Cho nên, PTCN ở các nớc này càng gặp khó
khăn hơn trong việc bảo vệ thành quả cách mạng đã giành đợc, bênh vực quyền
lợi của ngời lao động, duy trì ảnh hởng của mình trong xã hội cũng nh tập hợp
lực lợng, củng cố khối đoàn kết thống nhất và thực hành chủ nghĩa quốc tế của
GCCN.
Hai là, Sau khi Liên Xô và hệ thống XHCN tan rã, phơng thức tập hợp lực
lợng trên thế giới trở nên cơ động và linh hoạt hơn. Lợi ích quốc gia - dân tộc, trớc tiên là lợi ích kinh tế nổi lên hàng đầu chi phối các quan hệ quốc tế. Điều đó
buộc GCCN ở các nớc TBPT cần có cách tiếp cận mới đối với mối quan hệ giữa
lợi ích giai cấp - dân tộc - nhân loại, để vừa có thể giải quyết đợc những nhiệm
vụ đặt ra trớc dân tộc, vừa có thể tập hợp đợc lực lợng, đoàn kết quốc tế, giữ
vững bản sắc của một đảng cách mạng chân chính. Đơng nhiên, xử lý đúng đắn
mối quan hệ này cũng là một vấn đề nan giải đối với PTCN và GCCN ở các n ớc
TBPT.
Ba là, GCCN và PTCN ở các nớc TBPT là bộ phận cấu thành của PTCSCNQT nên cũng chịu ảnh hởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng sâu sắc của phong
trào trên tất cả các phơng diện từ chính trị - t tởng, lý luận đến tổ chức. Trớc

những đảo lộn chính trị ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều vấn đề lý luận cấp bách
nh: con đờng đi lên CNXH, hình thức và phơng pháp đấu tranh cách mạng, thực
chất sự điều chỉnh của CNTB trong bối cảnh toàn cầu hoá đang đòi hỏi GCCN
cần phải tìm ra câu trả lời thoả đáng.
Thời kỳ chiến tranh lạnh, do có mối quan hệ mật thiết với các ĐCS cầm
quyền, nên các ĐCS và GCCN các nớc TBPT luôn nhận đợc sự ủng hộ, giúp đỡ
to lớn về nhiều mặt, kể cả nguồn động viên, cổ vũ thông qua tính nêu gơng của
CNXH hiện thực với t cách chế độ xã hội đối trọng với CNTB. Các nớc XHCN
26


bằng thực lực hùng mạnh đã buộc CNTB phải thu hẹp vòng cơng tỏa ở nhiều nơi
trên thế giới, tạo thuận lợi cho cuộc đấu tranh chống CNĐQ, vì hoà bình, dân
sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tại các nớc TBPT. Trên cơ sở đó, hình thành một
mặt trận rộng rãi chống đế quốc, bảo vệ hoà bình thế giới với sự tham gia tích
cực của các ĐCS và GCCN các nớc TBPT. Cùng với hệ thống XHCN và cao trào
giải phóng dân tộc, thì phong trào đấu tranh của GCCN và lao động tại các nớc
TBPT, với sự đi đầu của ĐCS, đã hợp thành ba dòng thác cách mạng của thời
đại tấn công vào CNĐQ.
Sự đổ vỡ của Liên bang Xô viết và hệ thống XHCN đã kéo theo những
hẫng hụt, hoài nghi về lý tởng, suy giảm niềm tin của một bộ phận GCCN vào
CNXH, gây ra sự dao động mạnh về chính trị t tởng của không ít công nhân ở
các nớc TBPT. Lợi dụng tình hình này và do không còn phải lo ngại trớc CNXH
trong vai trò một đối thủ chủ chốt, nên CNTB có điều kiện tập trung đối phó với
những thách thức bên trong, gia tăng cuộc phản kích chống phá các ĐCS, GCCN
và phong trào dân chủ tiến bộ tại các nớc TBPT với những thủ đoạn thâm độc,
xảo quyệt hơn.
Bốn là, trớc những khó khăn, tổn thất lớn của CNXH, của PTCSQT và sự
gia tăng chống phá của CNĐQ, thì trong hầu nh tất cả các ĐCS ở các nớc TBPT
hiện nay đều xuất hiện những khuynh hớng cơ hội, cải lơng, xét lại rất đa dạng.

Nhiều ĐCS bị phân hoá, phân liệt sâu sắc, không thể thống nhất về t tởng và
đồng thời cũng không thể hành động trong t cách một lực lợng thống nhất. Trong
khi đó, các chính sách kinh tế - xã hội của phần lớn các nớc TBPT bộc lộ rõ nét
chiều hớng thiên hữu, gây phơng hại trực tiếp lợi ích của ngời lao động. Chính
hoàn cảnh này khiến cho tại nhiều nớc TBPT đã và đang tăng cờng hoặc tái xuất
hiện xu hớng bảo thủ, cực đoan hay cực hữu trong chính sách nội trị và trong
quan hệ đối ngoại của giới tài phiệt thống trị. Thực tế đó cho thấy, sự kiện Liên
Xô và hệ thống XHCN tan rã thực sự là một tác động rất tiêu cực đối với PTCSCN và GCCN ở các nớc TBPT và việc khắc phục nó đòi hỏi sự nỗ lực vợt bậc của
tất cả các ĐCS và GCCN tại đây.
Năm là, sau chiến tranh lạnh, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội ở các nớc đang phát triển không còn sự ủng hộ, hậu thuẫn cả về vật
chất và tinh thần từ phía hệ thống XHCN. Tại đây, diễn ra sự thu hẹp nhanh ảnh
hởng của CNXH và PTCS-CNQT. Hầu hết các quốc gia lựa chọn định hớng
XHCN đều rơi vào tình trạng xung đột và nội chiến gay gắt kéo dài. Những khó
khăn của phong trào độc lập dân tộc ở các nớc đang phát triển cũng tác động
27


nhất định đến hoạt động của GCCN và PTCN ở các nớc TBPT. Khu vực các nớc
đang phát triển vốn là địa bàn có ảnh hởng truyền thống của các nớc TBPT. Hơn
nữa, PTCN và GGCN ở các nớc TBPT lại cũng không dễ dàng khi xử lý hàng
loạt vấn đề phức tạp liên quan đến việc bày tỏ lập trờng trớc xu hớng bành trớng
thế lực của các tập đoàn t bản độc quyền siêu quốc gia về kinh tế, áp đặt can
thiệp về chính trị đối với các nớc đang phát triển, gây phơng hại lợi ích của
GCCN và ngời lao động tại các nớc này. GCCN ở các nớc TBPT cũng chịu sức
ép khi đa ra quan điểm đối với làn sóng nhập c từ các nớc đang phát triển (11).
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tiêu cực nh đã nêu trên, thì một nét
mới đáng chú ý trong hoạt động của PTCS-CN ở các nớc TBPT hiện nay là
những nỗ lực tìm kiếm cơ chế tập hợp lực lợng, tăng cờng đoàn kết, trao đổi kinh
nghiệm, phối hợp hành động. Theo đó, hàng loạt cuộc gặp gỡ, hội nghị quốc tế

của các ĐCS và công nhân ở từng khu vực, từng châu lục đợc tổ chức với sự
tham dự của các ĐCS và công nhân ở các nớc TBPT. Thông qua đây, quan hệ
song phơng giữa các ĐCS và công nhân đợc thúc đẩy.
Mặc dù chịu chấn động dữ dội từ sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu, nhng nhiều ĐCS và công nhân vẫn trụ lại, đổi mới nội dung, phơng
thức lãnh đạo và hoạt động, cho nên PTCS-CNQT đã từng bớc hồi phục. Xu hớng phục hồi của phong trào có sự đóng góp nổi bật của các ĐCS cầm quyền.
Thế nhng, nhìn chung phong trào vẫn cha hoàn toàn vợt ra khỏi cuộc khủng
hoảng, đồng thời cũng đang đứng trớc nhiều thử thách lớn. Những chuyển động
trong PTCS-CNQT những năm gần đây, một mặt tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
PTCN ở các nớc TBPT; mặt khác giúp GCCN ở đây nhận rõ hơn quy luật vận
động phức tạp của phong trào, để từ đó không ảo tởng, nóng vội, đồng thời cũng
không dao động trớc những biến cố thăng trầm của phong trào. Trên cơ sở đó,
PTCN và GCCN các nớc TBPT lựa chọn bớc đi, hình thức, cơ chế hoạt động
thích hợp để tiến tới mục tiêu chiến lợc của mình.
VII. Trào lu dân chủ xã hội

Ra i t na sau th k XIX, cỏc ng Dõn ch xó hi (DCXH) cú hỡnh
thỏi ý thc v quan nim giỏ tr riờng ca mỡnh. Ngy nay, s gia tng tc
nht th hoỏ kinh t ton cu lm cho kt cu kinh t, tõm lý xó hi v quan
nim giỏ tr cỏc nc TBPT cú nhng thay i tng ng. C s giai cp, v

Nguyễn Thị Quế, Phong trào cộng sản ở cỏc nớc Liên Minh châu Âu thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Nxb CTQG,
Hà Nội 2005
(11)

28


trí, quan niệm giá trị, chính sách của các đảng DCXH phải thay đổi để phù hợp
với những biến động đó, do vậy đã tác động lớn đến GCCN các nước TBPT.

Thứ nhất, trong tiến trình nhất thể hoá kinh tế toàn cầu, cách mạng KHCN
và quốc tế hoá tư bản độc quyền dẫn đến sự điều chỉnh lớn về kết cấu sản nghiệp
toàn cầu. Những sản nghiệp sử dụng nhiều công nhân đua nhau chuyển dịch, các
công ty xuyên quốc gia tìm kiếm môi trường đầu tư tốt hơn và chuyển cơ sở sản
xuất sang các quốc gia có giá nhân công thấp và chính sách thuế ưu đãi. Xí
nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm cầu về lao động ở nước đầu tư,
khiến cho mức tiền công hạ thấp. Các ngành chế tạo, dệt may, công nghiệp gia
công bị ảnh hưởng rất lớn. Ngay cả những ngành nghề mới nổi lên như công
nghệ thông tin và dịch vụ tài chính - tiền tệ cũng đua nhau chuyển dịch đến khu
vực có thuế suất và giá lao động thấp. Một cuộc cách mạng đã lan từ ngành này
sang ngành khác, khiến GCCN trải qua một sự thay đổi căn bản. Công nhân ở
tất cả mọi ngành nghề đều bị thiệt thòi bởi tác động tiêu cực từ những thay đổi
trên.
Ở các nước TBPT, công nhân ngành chế tạo và ngành dệt truyền thống,
nhân viên dịch vụ, tầng lớp trung gian và lớp dưới trong sản nghiệp thứ ba vẫn
là những người ủng hộ truyền thống của đảng DCXH. Trong việc điều chỉnh kết
cấu sản nghiệp này, việc làm, tiền công và mức sống của họ cũng bị tụt giảm. Số
lượng công nhân trong các ngành công nghiệp truyền thống ở các nước TBPT
liên tục giảm. Sự ủng hộ của GCCN đối với đảng DCXH giảm, buộc họ phải
chuyển từ chính đảng giai cấp truyền thống thành “đảng toàn dân”. Nếu chỉ dựa
vào sự ủng hộ của bộ phận GCCN thì không có cách nào giành được đa số ghế ở
nghị viện trong cạnh tranh đa đảng ở các nước TBPT để cầm quyền. Tỷ lệ ủng
hộ của GCCN đối với đảng DCXH chứng tỏ GCCN ngày càng trung sản hoá và
hữu khuynh hoá về chính trị. Tư tưởng của đảng DCXH cũng nghiêng sang hữu
khuynh để phản ánh sự thay đổi trong ý thức chính trị của cử tri là GCCN. Đảng
DCXH hiện nay buộc phải kiếm tìm sự ủng hộ của các giai tầng khác ngoài
GCCN nhằm bù đắp cho số phiếu bị giảm của GCCN. Chính sách của đảng
DCXH bắt đầu quan tâm đến nhiều lĩnh vực phi truyền thống như sinh thái, giải
trừ quân bị, nữ quyền, dân di cư… nhằm thu hút sự ủng hộ của nhóm cử tri quan
tâm đến những vấn đề này.

Ngoài ra, do có những điều chỉnh lớn về kết cấu sản nghiệp và kết cấu
việc làm, trong xã hội tư bản đã xuất hiện đông đảo tầng lớp trung gian mới, bao
gồm viên chức hành chính làm việc trong bộ máy chính quyền, nhân viên phục
29


vụ và nhân viên quản lý trong các xí nghiệp quốc doanh và tư doanh, nhân viên
kỹ thuật chuyên nghiệp, và những người làm nghề tự do khác. Trong xã hội tư
bản, đại bộ phận cử tri đều nhận mình là “giai tầng trung gian mới” khác với
GCCN truyền thống. Nhìn chung, họ có thu nhập khá và trình độ học vấn tương
đối cao, về cơ bản họ chấp nhận chế độ TBCN, ý thức giai cấp mờ nhạt, đa phần
trong số họ xuất phát từ lợi ích của bản thân để phê phán chính sách kinh tế của
chính phủ. Sự thay đổi ý thức chính trị của họ chịu ảnh hưởng lớn từ hoàn cảnh
kinh tế. Do trong kết cấu giai cấp xã hội, giai tầng trung gian mới trở nên chiếm
đa số, đồng thời GCCN cũng xuất hiện khuynh hướng “cổ cồn hoá, trí thức hoá
và hữu sản hoá”. Để tranh thủ tối đa phiếu bầu của cử tri trong điều kiện chế độ
nghị viện đa đảng, tất cả các chính đảng tất yếu phải làm cho chính sách của
mình phản ánh được thay đổi trong định hướng chính trị của cử tri, cố gắng dựa
vào các lực lượng xã hội trung gian.
Được xem là lực lượng trung tả, các đảng DCXH ở các nước TBPT nếu
trước kia chủ yếu dựa vào sự ủng hộ của GCCN, thì nay phải dựa vào sự ủng hộ
của tất cả các tầng lớp trung gian khác. Khuynh hướng “trung gian hoá” chính
sách của chính đảng trở thành một đặc điểm mới của các chính đảng ở các nước
TBCN. Đảng DCXH được coi là chính đảng cầm quyền và tham chính chủ yếu
ở các nước TBPT, một mặt cần thuận theo làn sóng nhất thể hoá kinh tế toàn
cầu, khuyến khích và ủng hộ các xí nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài,
khai thác thị trường nước ngoài; mặt khác, lại phải cố gắng bảo vệ cử tri truyền
thống của mình là GCCN và viên chức lớp dưới. Duy trì sự cân bằng lợi ích của
hai giai cấp xã hội này là một nhiệm vụ rất khó khăn đối với đảng DCXH. Trong
tiến trình nhất thể hoá kinh tế toàn cầu, chính sách của đảng DCXH thường xuất

hiện tình trạng mất cân bằng, dẫn đến việc bị mất cử tri truyền thống.
Hai là, đầu tư và cơ sở sản xuất của các công ty xuyên quốc gia chuyển
dịch ra nước ngoài với quy mô lớn dẫn đến nguồn thu thuế giảm đã ảnh hưởng
tiêu cực đến mục tiêu duy trì và cải cách chế độ phúc lợi xã hội của đảng
DCXH. Nhằm chạy theo tỷ suất lãi đầu tư cao hơn, tư bản có khuynh hướng
chảy vào khu vực có giá lao động và thuế suất thấp. Thu thuế và chuyển dịch
nguồn thu là biện pháp quan trọng của đảng DCXH để thực hiện phân phối lại
thu nhập quốc dân và đảm bảo bình đẳng. Mặc dù, chế độ phúc lợi xã hội được
các chính đảng ở các nước TBPT thừa nhận, nhưng đối với đảng DCXH đã từng
thực hiện nhà nước phúc lợi thì chế độ phúc lợi xã hội là tiêu thức và hình tượng
của chính đảng mình. Duy trì chế độ phúc lợi cần dựa vào nguồn tài chính của
30


nhà nước, mà thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Trong nhận
thức của cử tri, đảng DCXH so với các chính đảng cánh hữu khác về phương
diện bảo vệ chế độ phúc lợi có độ tin cậy tương đối cao. Thế nhưng, trong tiến
trình nhất thể hoá kinh tế, nguồn thu thuế giảm, khiến đảng DCXH đứng trước
áp lực thâm hụt tài chính và buộc phải cắt giảm chi cho phúc lợi xã hội. Trong
điều kiện nguồn thu ngân sách bị thu hẹp, chính phủ của đảng DCXH buộc phải
cắt giảm chi cho các chương trình xã hội, vì thế họ rất khó khăn trong việc duy
trì sự ủng hộ của cử tri truyền thống là GCCN.
Ba là, tư bản tự do lưu động là một đặc trưng quan trọng của nhất thể
hoá kinh tế toàn cầu hiện nay. Tư bản tự do lưu động khiến cho chính sách
kinh tế của đảng DCXH ngày càng mất đi tính độc lập của nó. Trong khi đó,
chính sách của các đảng theo chủ nghĩa bảo thủ thì ngày càng phù hợp hơn
với xu thế nhất thể hoá kinh tế. Các nước tư bản như Mỹ, Anh tiếp tục nới
lỏng sự quản chế đối với tư bản, thêm vào đó là sự xuất hiện của công cụ tiền
tệ và tiến bộ của công nghệ thông tin đã đẩy mạnh trình độ tự do hóa tài chính
- tiền tệ quốc tế. Tại Tây Âu, do tư bản tự do lưu động và sự hình thành thị

trường thống nhất châu Âu đã làm giảm tính độc lập về chính sách của đảng
DCXH. Trong tiến trình nhất thể hoá châu Âu, sự chuyển một phần chủ
quyền, đặc biệt là chuyển quyền quản lý, điều hành kinh tế cho một thiết chế
chung - các cơ quan lãnh đạo của EU - là khó tránh khỏi.
Trước tình hình nêu trên, đảng DCXH rất khó đề ra chính sách kinh tế
vượt qua chủ nghĩa tự do mới của các đảng theo chủ nghĩa bảo thủ, mà chỉ có
thể tương kế tựu kế để lựa chọn giữa chính sách hướng bên cung của phái cung
cấp với chính sách hỗn hợp của chủ nghĩa Keynes cổ điển tiền tệ mới và chủ
nghĩa tự do mới. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội của đảng DCXH ngày
càng có nhiều điểm chung với chính sách kinh tế, chính sách xã hội của chính
đảng cánh hữu ở các nước TBPT. Đảng DCXH khi còn là đảng đối lập khó mà
nêu ra chính sách kinh tế độc lập, thì khi cầm quyền đảng DCXH càng khó nêu
ra được chính sách khác với cương lĩnh kinh tế của chủ nghĩa tự do mới, ngay cả
nếu có đưa ra được thì cũng khó được chấp nhận. Đảng DCXH, đảng theo chủ
nghĩa bảo thủ và các chính đảng khác có xu hướng tương đồng về chính sách,
tính độc lập chính sách của các đảng này ngày càng mờ nhạt, có nghĩa là giá trị
cơ bản và nguyên tắc chính sách của chủ nghĩa DCXH đứng trước thách thức
mới. Để ứng phó với cục diện kinh tế mới thì chính sách của đảng DCXH sẽ
ngày càng mất đi “bản sắc chính trị”, dẫn đến sự mơ hồ về tính chất đặc trưng
31


×