Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Bài thảo luận kinh tế vĩ mô phân tích chính sách kích cầu của chính phủ việt nam ( chính sách tài khóa) nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2010 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.56 KB, 28 trang )

Bài thảo luận
Môn kinh tế vĩ mô
Nhóm 3
Đề tài 1 phân tích chính sách kích cầu của
chính phủ việt nam ( chính sách tài khóa)
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giai đoạn
2010- 2014


Lời mở đầu
Trong giai đoạn 2010- 2014, một vấn đề bức thiết gây chấn động địa cầu đã xảy ra
đó chính là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Nó bắt nguồn từ cuộc khủng
hoảng tài chính Mỹ từ cuối năm 2007, kéo theo phản ứng dây chuyền lên toàn bộ
nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển. Kết quả là các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực trên nhiều khía cạnh. Một trong
những giải pháp mà chính phủ các nước đưa ra để cứu vãn tình thế này và khắc
phục hậu quả của nó là tung ra các gói kích cầu nhằm kích thích nền kinh tế phát
triển, thoát khỏi tình trạng suy thoái. Chính phủ Việt Nam cũng hành động như
vậy. Sau thời gian hội nhập với nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế Việt Nam đang
đứng trước một nguy cơ và thách thức to lớn. Để đối phó với khủng hoảng kinh tế
giai đoạn năm 2010-2014 chính phủ việt nam đã dùng nhiều biện pháp để đẩy
mạnh nền kinh tế bị ảnh hưởng xấu do khủng hoảng của việt nam. Giai đoạn này
là giai đoạn chính phủ đây mạnh các gói kích cầu đặc biệt là chính sách tài khóa
Vì để giúp các bạn hiểu dõ hơn về chính sách này nên nhóm 3 chúng tôi đã thự
hiện đề tài: Đề tài 1 phân tích chính sách kích cầu của chính phủ việt nam
( chính sách tài khóa) nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2010- 2014


Nội dung
I.


khái niệm của chính sách kích cầu

Chính sách kích cầu là một chính sách của nhà nước đưa ra, thường được sử dụng
khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hoặc suy thoái, đang cần vực dậy. Đặc biệt chính
sách này hay được sử dụng khi nền kinh tế rơi vào trạng thái bẫy thanh khoản, là
khi mà chính sách tiền tệ trở nên mất hiệu lực vì lãi suất đã quá thấp.
Chính sách kích cầu đôi khi còn được gọi là chính sách Keynes vì biện pháp này
tác động tới tổng cầu.

Hai giả thuyết của Keynes bao gồm:

Thứ nhất, suy thoái bắt đầu từ năng lực dư thừa của nền sản xuất . Biểu hiện của nú
là : yếu tố đầu vào không được sử dụng hết, thất nghiệp, máy móc bỏ bê, hàng hóa


ế thừa. Hiện tượng dư cung khiến giá cả giảm nhưng lại càng không khuyến khích
người mua, dẫn đến suy thoái.

Thứ hai, chính phủ có khả năng chi tiêu toàn bộ, thậm chí nhiều hơn thu nhập của
mình. Trong khi đó các khu vực khác lại chi tiêu ít hơn vì họ có khuynh hướng tiết
kiệm. Trong điều kiện suy thoái thì các doanh nghiệp ko muốn chuyển khoản tiết
kiệm này sang đầu tư.

Từ giả thuyết thứ nhất, ông cho rằng nền kinh tế bị suy thoái vì tạm thời không có
đủ cầu cho cung đang dư thừa. Từ giả thuyết thứ hai, ông cho rằng chính phủ mới
có khả năng chi tiêu mạnh tay – dựa trên ý chí của mình – ngay cả khi nền kinh tế
đang suy thoái.

Từ đó ông đề xuất một phương án: dịch chuyển sức mua từ khu vực dân cư và tư
nhân vào tay chính phủ để tăng cầu hiệu lực đưa nền kinh tế ra khỏi cái bẫy đình

đốn vì thiếu sức mua, kích thích tổng cầu.

Mục tiêu của gói kích cầu là tại thêm cầu để đối ứng với năng lực sản xuất hiện tại
của nền kinh tế khi suy thoái, tránh để dư thừa năng lực sản xuất ở mức quá cao
gây lãng phí nguồn lực cũng như gây ra những vấn đề về xã hội do thất nghiệp
tăng cao gây ra.
Nếu không nhanh chóng ngăn chặn, thất nghiệp sẽ tiến đến ngưỡng nguy hiểm đẩy
suy giảm kinh tế vào vòng xoáy luẩn quẩn: thất nghiệp sẽ dẫn đến cắt giảm thu
nhập (thực tế và kỳ vọng) làm giảm tiêu dùng, càng làm khó khăn về đầu ra của
doanh nghiệp phải tiếp tục cắt giảm sản xuất và lao động, đẩy thất nghiệp tăng lên
ở vòng tiếp theo và cứ tiếp tục như vậy. Do vậy mục đích lớn nhất của gói kích cầu
là duy trì việc làm


Theo lý luận của nhà kinh tế học Lawrence Summers (giáo sư kinh tế, từng là hiệu
trưởng trường đại học Harvard, và cố vấn kinh tế cho tổng thống Mỹ Obama), một
gói
kích cầu có hiệu quả phải đảm bảo ít nhất 3 tiêu chí.
- Nguyên tắc số 1 – Kích cầu phải kịp thời:
Kích cầu phải kịp thời có nghĩa là khi chính phủ thực hiện gói kích cầu thì những
biện
pháp kích cầu này phải có hiệu ứng kích thích ngay, làm tăng chi tiêu ngay trong
nền kinh
tế.
- Nguyên tắc số 2 – Kích cầu phải đúng đối tượng:
Mức độ “đúng đối tượng” của gói kích cầu của Chính phủ phụ thuộc vào:
• Mức độ chi tiêu của các đối tượng nhận được thu nhập nhờ có gói kích cầu thông
qua tác động lan tỏa diễn ra trong nhiều vòng.
• Mức độ “rò rỉ” ra hàng ngoại nhập của các chi tiêu đó ở trong mỗi vòng của tác
động lan tỏa.

Ở thế giới cũng như ở Việt Nam, những người có thu nhập thấp thường có mức
tiêu dùng
cao trên 1 đồng thu nhập có thêm được và thường tiêu dùng hàng nội địa. Do vậy,
nếu
kích cầu đúng nhóm đối tượng này thì đạt đồng thời cả hai mục tiêu là hiệu quả và
công
bằng, khác với sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng mà trong kinh tế thường
gặp.
- Nguyên tắc số 3 – Kích cầu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn:


Nguyên tắc ngắn hạn có nghĩa là sẽ chấm dứt kích cầu khi nền kinh tế được cải
thiện.
Nguyên tắc ngắn hạn có hai ý nghĩa:
• Gói kích cầu thực hiện trong ngắn hạn sẽ làm tăng hiệu quả gói kích cầu
• Chỉ kích cầu trong ngắn hạn để không làm ảnh hưởng tới tình hình ngân sách
trong dài hạn
II.

Chính sách tài khóa trong gói kích cầu

Một trong những gói kích cầu của chính phủ Việt Nam , một cánh tay đắc lực trong
việc điều chỉnh kinh tế của chính phủ chính là chính sách kích cầu
1. Khái niệm
Chính sách tài khóa là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô được Chính phủ
sử dụng để huy động, phân phối và sử dụnghiệu quả các nguồn lực tài chính nhằm
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.

2.Mục tiêu:
- Ngắn hạn: Tăng trưởng sản lượng, ổn định giá, giảm tỷ lệ thất nghiệp và cân

bằng cán cân thanh tóan.
- Dài hạn: Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn

3 Công cụ , phân loại chính sách kích cầu
3.1 Các công cụ của chính sách tài khóa:
Hai công cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống
thuế. Những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ
có thể ảnh hưởng đến các biến số sau trong nền kinh tế:
- Tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế
- Kiểu phân bổ nguồn lực


- Phân phối thu nhập
3.1.1 Thuế:
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước
theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đích công
cộng. Đây là một thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt thuế với các hình
thức huy động tài chính khác.
3.1.2 Chi tiêu chính phủ:
Chi tiêu của chính phủ nhằm thỏa mãn nhu cầu của Nhà nước đối với việc thực
hiện các mục tiêu chungtoàn xã hội. Chi tiêu chính phủ bao gồm hai loại: chi tiêu
công cộng (hoặc gọi là các khoản chi thường xuyên) và chi đầu tư xây dựng cơ
bản.
3.2 Phân loại chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa liên quan đến tác độngtổng thể của ngân sách đối với hoạt
động kinh tế. Có các loại chính sách tài khóa điển hình là trung lập, mở rộng, và
thu gọn
3.2.1Chính sách trung lập:
Là chính sách cân bằng ngân sách, khi đó G = T (G: chi tiêu chính phủ, T: thu nhập
từ thuế). Chi tiêu của chính phủ hoàn toàn được cung cấp do nguồn thu từ thuế và

nhìn chung kết quả có ảnh hưởng trung tính lên mức độ của các hoạt động kinh tế.
3.2.2 Chính sách mở rộng:
Là chính sách tăngcườngchi tiêu của chính phủ (G > T) thông qua chi tiêu chính
phủ tăng cường hoặc giảm bớt nguồn thu từ thuế hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ
dẫn đến thâm hụt ngân sách nặng nề hơn hoặc thặng dư ngân sách ít hơn nếu trước
đó có ngân sách cân bằng.
3.2.3 Chính sách thu hẹp:
Là chính sách trongđó chi tiêu của chính phủ ít đi thông qua việc tăng thu từ thuế
hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách
4 Để hiểu rõ hơn lý thuyết trên nhóm chúng tôi đã đưa ra ví dụ như sau


Giả sử nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp. Các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư sẽ không muốn đầu tư thêm, còn người tiêu dùng cũng
không muốn chi tiêu thêm nữa. Lúc này tổng cầu ở mức rất thấp. Trong hoàn cảnh
này để mở rộng tổng cầu chính phủ phải tăng chi tiêu hoặc giảm thuế, nâng cao
mức chi tiêu chung của nền kinh tế làm cho sản lượng tăng thêm và mức việc làm
có thể đầy đủ có thể được khôi phục.
Xét trên mô hình kinh tế, với: AD là đường tổng cầu
Y là mức sản lượng
P là mức giá
Mức sản lượng Y1 – tương ứng với đường tổng cầu AD1
Mức sản lượng Y0 – tương ứng với đường tổng cầu AD0 – Đây là mức sản lượng
tiềm năng trên thị trường cân bằng, tức là cung = cầu.
Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp, mức sản lượng trên thị
trường lúc này là Y1 < Y0.

Y

P

P0
P1
y1
y0
E0
AS

E1
AD

AD0


Nền kinh tế đang rơi vào tình trạng suy thoái với mức cung < mức cầu, điều này
làm cho giá cả hàng hóa tăng lên cao dẫn tới áp lực suy thoái đang đe dọa tới nền
kinh tế và nó đòi hỏi chính phủ phải ra tay hành động để làm tăng tổng cầu thông
qua tăng chi tiêu chính phủ, tăng mua sắm hàng hóa, dịch vụ hoặc giảm thuế. Nếu
làm được điều này thì đường tổng cầu AD1 sẽ dịch dần lên trên, và khi AD1 tiến
đến AD tức là Y1 dần tới Y*, sản lượng thực tế sẽ bằng sản lượng tiềm năng. Lúc
này thị trường ổn định, thất nghiệp sẽ giảm và điều tất nhiên là tỉ lệ thất nghiệp
thực tế sẽ trở về với tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Như vậy là vấn đề đã được giải
quyết.
Y

P
P2
P0
y0
y2
AS


AD2

AD0
0

Nhưng trên thực tế, khi thực hiện chính sách tài khóa mở rộng cần lưu
ý đó là: Khi AD1 tiến đến AD thì chính phủ phải dừng thực hiện chính sách này
ngay vì nếu tiếp tục thực hiện thì đường cầu AD1 sẽ dần tiến tới AD2, khi đó Y1
tiến tới Y2 > Y*. Trong trường hợp này, mức sản lượng thực tế cao hơn mức sản


lượng tiềm năng, nền kinh tế bị áp lực cao của lạm phát. Biện pháp áp dụng để giải
quyết vấn đề mà các chính phủ đã sử dụng đó là: giảm chi tiêu và tăng thuế, nhờ đó
mức chi tiêu chung giảm đi, sản lượng sẽ giảm theo và lạm phát chững lại.
Theo lý thuyết trên chúng ta thấy rằng nền kinh tế luôn biến động và ít khi ở trạng
thái hoàn hảo ( cung = cầu ). Do vậy, chính phủ phải tác động vào nền kinh tế bằng
các chính sách của mình để điều chỉnh nó cho phù hợp và đạt hiệu quả tối ưu.
Xét trong mô hình nền kinh tế giản đơn như trong lý thuyết của Keynes thì chính
sách tài khóa có thể là phương thuốc hữu hiệu để ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên
trong thực tế, chính sách tài khóa không có đủ sức mạnh đến như vậy, đặc biệt là
trong nền kinh tế hiện đại. Do đó mà các nền kinh tế thị trường luôn không ổn
định, chu kỳ kinh doanh chưa được khắc phục hoàn toàn. Trước khi nghiên cứu
những vấn đề áp dụng chính sách tài khóa trong thực tiễn, chúng ta cùng xem xet
một cơ chế đặc biệt của chính sách này. Đó là cơ chế ổn định tự động.
Thật vậy, hệ thống tài chính hiện đại có những yếu tố tự ổn định mạnh mẽ, đó là:
Những thay đổi tự động về thuế. Hệ thống thuế hiện đại bao gồm thuế thu nhập lũy
tiến với thu nhập cá nhân và lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi thu nhập quốc dân
tăng lên, số thu về thuế tăng theo, và ngược lại khi thu nhập giảm, thuế giảm ngay
mặc dù Quốc hội chưa kịp điều chỉnh thuế suất. Vì vậy, hệ thống thuế có vai trò

như là một bộ tự ổn định tự động nhanh và mạnh.
Yếu tố thứ hai sau tự ổn định sau thuế chính là hệ thống bảo hiểm. Bởi trong quá
trình sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội, cải tạo và chinh phục tự nhiên, dù có tri
thức ngày càng cao, con người vẫn phải đối mặt nhiều hơn với khả năng xảy ra tai
họa từ nhiều phía, do chính bản thân con người, do những phương tiện thiết bị của
con người tạo ra. Trước mối đe dọa thường ngày như vậy, các cá nhân, doanh
nghiệp có thể thực hiện biện pháp tự bảo hiểm, nhưng tự bảo hiểm là biện pháp
hiệu quả thấp và không kinh tế. Do vậy tổ chức và cá nhân có nhu cầu được bảo
hiểm và sử dụng nó để chia sẻ khi rủi ro xảy ra thông qua hoạt động của các công
ty bảo hiểm. Trong nền kinh tế hiện nay, hệ thống bảo hiểm bao gồm bảo hiểm thất
nghiệp và các chuyển khoản mang tính chất xã hội khác. Hệ thống này hoạt động
khá nhạy cảm.
Điều này được hiểu như sau: Khi mất việc hay thất nghiệp thì người thất nghiệp sẽ
được nhận một khoản trợ cấp – đó là trợ cấp thất nghiệp từ nhà nước. Và đương


nhiên là khi có việc làm thì khoản trợ cấp này sẽ không còn nữa. Như vậy, hệ thống
bảo hiểm bơm tiền vào và rút tiền ra khỏi nền kinh tế, ngược lại chiều hướng của
chu kỳ kinh doanh góp phần ổn định hệ thống kinh tế. Tuy nhiên, những nhân tố ổn
định tự động chỉ có tác dụng làm giảm một phần các dao động của nền kinh tế, mà
không xóa bỏ hoàn toàn những dao động đó. Phần còn lại đặt trên vai các chính
sách tài chính và tiền tệ chủ động của chính phủ.
qua các dự án công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển việc làm và trợ cấp xã
hội. Thực tế cho thấy, ngoài một số dự án công cộng thực hiện thành công, đa số
các dự án tỏ ra kém hiệu quả kinh tế.
III.

thực trạng nền kinh tế việt nam giai đoạn 20102014

3.1.Tăng trưởng GDP


Năm 2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5.98%, cao hơn hẳn mức 5,42% của năm
2013. Mức tăng trưởng trên cao hơn so với chỉ tiêu 5.8% mà Chính phủ đề ra và
vượt ngoài dự đoán của các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước.

Tăng trưởng năm 2014 vẫn diễn ra theo kịch bản cũ “tiếp tục hồi phục, tăng trưởng
quý sau cao hơn quý trước” (H.1.1). Điểm nhấn là tăng trưởng bất ngờ ở quý 3
(6.07%) và quý 4 (6.96%) làm cho mức tăng trưởng cả năm cao hơn hẳn so với 3
năm trở lại đây.

Tuy nhiên, mức hồi phục này vẫn còn thấp, chưa vượt qua mức 6% và chưa thực
sự bền vững. Trên thực tế, tốc độ tăng trưởng năm 2014 thấp hơn khá xa mức tăng
trưởng bình quân của giai đoạn 1990-2010 (H.1.2). Trong mức tăng chung, khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng cao nhất 7.14%, cao hơn nhiều so với năm
trước.


3.2 Ngành nông nghiệp

Tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2014 cao
hơn so với 3 năm trở lại đây nhưng vẫn thấp hơn so với giai đoạn 2006-2010. Tuy
nhiên, một thực tế của ngành này là nhập khẩu đầu vào lớn, bao gồm giống, thiết bị
vật tư, thuốc trừ sâu, nguyên liệu. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
giá trị nhập khẩu của toàn bộ ngành trong 11 tháng năm 2014 ước tính 19.78 tỷ
USD. Điều này chứng tỏ khả năng sản xuất, cung ứng trong nước bị phụ thuộc
ngày càng nhiều từ bên ngoài. Nhiều mặt hàng nông sản (chè, cà phê, cao su), thủy
hải sản (tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá basa) xuất khẩu ra thị trường thế giới với
sản lượng lớn nhưng “không bền vững” do chất lượng và giá trị gia tăng thấp.
Nông nghiệp nói chung vẫn chủ yếu phát triển “quảng canh”, chưa thật rõ định
hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, phát triển theo chiều sâu, chất lượng và

hiệu quả. Tuy năm 2014 đánh dấu sự chuyển hướng trong tái cơ cấu ngành, song
xu hướng chi phối vẫn là “sản lượng cao, tiêu tốn nhiều nguồn lực, chất lượng thấp
và giá trị gia tăng thấp”.

Điểm sáng của ngành là đã có những đột phá mạnh trong ứng dụng rộng rãi khoa
học kĩ thuật, công nghệ cao, với sự tham gia của ngày càng nhiều doanh nghiệp lớn
vào sản xuất nông nghiệp. Xu hướng tuy mới bắt đầu nhưng có khả năng lan tỏa
nhanh.

3.3 Ngành công nghiệp

Sản xuất công nghiệp năm 2014 phục hồi đáng kể ở tất cả các nhóm ngành. Tính
cả năm 2014, chỉ số sản xuất toàn ngành ước tăng 7.6% so với năm 2013, cao hơn
nhiều mức tăng 5.9% của năm 2013.


Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/12/2014
tăng 10% so cùng kỳ năm 2013. Tính cả năm 2014, chỉ số tồn kho ngành công
nghiệp chế biến tăng 12%, thấp hơn cùng kỳ 2013 là 0.87 điểm %. Chỉ số quản trị
mua hàng PMI từ tháng 9 năm 2013 đã liên tục cao hơn ngưỡng 50 điểm
3.3.1 Các nhà quản trị mua hàng đều nhận thấy điều kiện kinh doanh trong
nước đang được cải thiện rõ rệt.

Tuy nhiên, về thực chất, nền công nghiệp nước ta là nền công nghiệp định hướng
phi công nghệ[1]. Theo báo cáo của Bộ KHCN năm 2012, phần lớn các doanh
nghiệp nước ta sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2-3
thế hệ. Khoảng 80%-90% công nghệ Việt Nam đang sử dụng là ngoại nhập. 76%
máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ những năm 1950-1960, 75% số
thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Tính chung các doanh nghiệp, mức
độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu 52%. Tỷ lệ

sử dụng công nghệ cao chỉ 2% so với 31% của Thái Lan, 51% của Malaysia, 73%
của Singapore. Các doanh nghiệp Việt Nam thờ ơ với công nghệ, ít có động lực
sáng tạo; còn các công ty có vốn đầu tư nước ngoài cũng không quan tâm tới
nghiên cứu phát triển vì vấn đề này được thực hiện tại công ty mẹ. Các công ty này
chỉ chú trọng khai thác nguồn nhân lực và nguyên liệu rẻ của Việt Nam. Chính vì
vậy, ở Việt Nam, ngành công nghiệp phụ trợ khó có thể phát triển, chủ yếu “khiêm
tốn” đảm nhận công đoạn “công nghệ thấp” - gia công và lắp ráp.

Năm 2014, ngành xây dựng bắt đầu hồi phục. Nhiều dự án giao thông được khởi
công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các dự án đường cao tốc, các dự án phát triển hạ
tầng xã hội sử dụng vốn Nhà nước, vốn ODA. Điển hình như dự án: Đường cao tốc
Hà Nội- Lào Cai, cầu Nhật Tân - nối sân bay Nội Bài, nhà ga T2 Nội Bài, đường
cao tốc Hà Nội - Hải Phòng…

Thị trường bất động sản có tín hiệu phục hồi. Nhiều dự án phát triển nhà ở được
hoàn thành và bàn giao trong năm 2014, đặc biệt là phân khúc nhà chung cư giá
trung bình và rẻ. Thị trường vật liệu xây dựng không có biến động lớn, góp phần


giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp xây dựng. Mặc dù vậy, đó chỉ là quá trình
phục hồi chậm chạp.

Tình trạng nợ đọng xây dựng từ những năm trước của các doanh nghiệp vẫn chưa
có hướng giải quyết triệt để. Nhiều doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận vốn,
nhất là các doanh nghiệp vừa v à nh ỏ.

3.4 Đầu tư

Năm 2014, tỷ trọng đầu tư/GDP nhích lên một chút so với năm 2013, gia tăng về
quy mô vốn ở cả 3 khu vực. Về cơ cấu đầu tư, khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm

tỷ trọng lớn nhất, nhưng xu hướng giảm rõ rệt hơn. Tỷ trọng khu vực ngoài nhà
nước tăng trong khi FDI lại giảm so với năm trước (Hình 1.6, 1.7). Cơ cấu vốn đầu
tư phân theo ngành kinh tế có sự thay đổi. Số vốn đổ vào thị trường BĐS tăng gấp
3 lần so với năm trước. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư nước
ngoài với số vốn đăng ký gần 14,493 tỷ USD, chiếm 71.6% tổng vốn đăng ký; lĩnh
vực bất động sản đạt hơn 2,5 tỷ USD, chiếm 12.6%; ngành xây dựng đạt gần 1,06
tỷ USD, chiếm 5.2%; các ngành còn lại đạt gần 2.14 tỷ USD, chiếm 10.6%.

3.5 Lao động việc làm

Trong năm 2014, nền kinh tế có những dấu hiệu tích cực hơn so với năm 2012 và
2013 như tăng trưởng kinh tế ở mức cao hơn, sản xuất công nghiệp, dịch vụ và
nông nghiệp đều có mức tăng trưởng tốt hơn năm trước. Do đó, nên kinh tế cả
nước đã giải quyết việc làm cho khoảng khoảng 1.6 triệu lao động, tăng 3.6% so
với thực hiện năm 2013, trong đó: tạo việc làm trong nước khoảng 1.494 triệu lao
động, đạt 98.8% kế hoạch, tăng 2.7% so với năm 2013; xuất khẩu lao động khoảng
106 ngàn người[2].


Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính đến thời điểm
01/01/2015 là 54.48 triệu người, tăng 782 nghìn người so với cùng thời điểm năm
trước, trong đó lao động nam chiếm 51.3%; lao động nữ chiếm 48.7%. Lao động từ
15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2014 ước tính 53.0 triệu
người. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2014 của khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản chiếm 46.6% tổng số (năm 2013 là 46.8%); khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 21.4% (năm 2013 là 21.2%); khu vực dịch vụ chiếm
32.0% (năm 2013 là 32%).
Vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm

Ở những nước đang phát triển như Việt Nam, số người tham gia đóng bảo hiểm

thất nghiệp thường thấp. Người lao động phải tìm việc bằng mọi cách nhằm đảm
bảo sinh kế của bản thân và gia đình. Thông thường, họ chấp nhận làm những công
việc chất lượng kém, trả lương thấp trong nền kinh tế phi chính thức hoặc chấp
nhận những thỏa thuận làm việc một cách không chính thức để có thu nhập. Chính
vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam thường ở mức rất thấp.

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2014 là 2.08%, trong đó khu vực
thành thị là 3.43%, thấp hơn mức 3.59% của năm trước; khu vực nông thôn là
1.47%, thấp hơn mức 1.54% của năm 2013. Lao động thất nghiệp chủ yếu trong độ
tuổi thanh niên, tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 15-24 tuổi năm 2014 là 6.3%, cao
hơn mức 6.17% của năm 2013 (TCKT, 2015).

Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2014 là 2.45%, thấp
hơn mức 2.74% của năm 2012 và 2.75% của năm 2013. Trong đó, tỷ lệ lao động
thiếu việc làm ở khu vực nông thôn cao hơn khá nhiều so với khu vực thành thị. Cụ
thể, năm 2014 lao động trong độ tuổi thiếu việc làm ở khu vực thành thị là 1.18%;
khu vực nông thôn là 3.01%. Tỷ lệ thiếu việc làm có xu hướng tăng vào cuối năm


và tăng chủ yếu ở khu vực nông thôn do tính chất mùa vụ trong sản xuất nông
nghiệp.

3.6 Chuyển dịch cơ cấu lao động

Giai đoạn 2010-2013, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng: từ năm 2010 đến
năm 2013, lao động nông nghiệp giảm từ 49.5% xuống 46.8%, lao động công
nghiệp và xây dựng tăng từ 20.9% lên 21.2%; lao động khu vực dịch vụ tăng từ
29.6% lên 32%.

Mặc dù lao động chuyển dịch sang phía công nghiệp, dịch vụ nhưng tỷ trọng lao

động nông nghiệp vẫn còn rất lớn, chất lượng nhân lực rất chậm d0 cải thiện. Nông
nghiệp vẫn là khu vực tạo ra nhiều việc làm. Chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta
thấp. Đào tạo đại học, cao đẳng ít gắn với thực tiễn nên kỹ năng lao động kém.
Trong khi đó, việc tham gia khu vực dịch vụ đẳng cấp thấp, ít cần lao động có kĩ
năng lại dễ dàng, với mức thu nhập ban đầu không thấp hơn nhiều so với thu nhập
của lao động mới tốt nghiệp đại học, cao đẳng. Vì vậy, lao động thất nghiệp trong
công nghiệp, nông nghiệp rất dễ chuyển sang khu vực dịch vụ[3]. Người lao động
ít có động lực làm việc, nâng cao kỹ năng. Do đó, dù cơ cấu lao động chuyển dịch
theo hướng công nghiệp, dịch vụ thì đó vẫn là một cơ cấu kém bền vững

được hoàn thành và bàn giao trong năm 2014, đặc biệt là phân khúc nhà chung cư
giá trung bình và rẻ. Thị trường vật liệu xây dựng không có biến động lớn, góp
phần giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp xây dựng. Mặc dù vậy, đó chỉ là quá
trình phục hồi chậm chạp.


Tình trạng nợ đọng xây dựng từ những năm trước của các doanh nghiệp vẫn chưa
có hướng giải quyết triệt để. Nhiều doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận vốn,
nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

3.7 Ngành dịch vụ

Tính cả năm 2014, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước
tính đạt 2945.2 nghìn tỷ đồng, tăng 10.6% so với năm 2013 (loại trừ yếu tố giá,
tăng 6.3%), cao hơn mức 5.5% của năm 2013. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014, khu vực FDI có mức tăng trưởng cao nhất
(16,9%), trong khi kinh tế Nhà nước chỉ tăng 9.6%; kinh tế ngoài Nhà nước tăng
10.5%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch tăng trưởng khá, cả năm đạt 381.8

nghìn tỷ đồng, tăng 8% so với 2013. Tính chung năm 2014, khách quốc tế đến
nước ta ước đạt 7874.3 nghìn lượt, tăng 4%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 10.6%
của năm 2013. Một nguyên nhân quan trọng là căng thẳng trên biển Đông do
Trung Quốc gây ra.

Dịch vụ vận tải hành khách năm 2014 ước đạt 3058.5 triệu lượt khách, tăng 7.6%
và vận tải hàng hóa năm 2014 ước tính đạt 1066.6 triệu tấn, tăng 5.6% so với năm
2013.


[2] Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến tình hình thực hiện năm 2014 và triển khai kế
hoạch, nhiệm vụ năm 2015 về lĩnh vực lao động và người có công do Bộ Lao
động-Thương binh và Xã hội tổ chức ngày 22/1.
.5 Tác động của chính sách kích cầu của chính phủ đến nền kinh tế việt nam giai
đoạn 2010- 2014
Nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, đầu năm
2009, Việt Nam đã kịp thời triển khai các gói kích cầu. Cụ thể, chính phủ đã dùng
quỹ tài chính lớn trực tiếp chi cho các hoạt động kích cầu đầu tư tiêu dùng, chống
suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, cân đối thu chi ngân sách nhà nước, tiền
tệ, cán cân thanh toán quốc tế.... được đảm bảo, Lạm phát được kiềm chế ở mức
thấp nhất, tốc độ tăng trưởng được duy trì hợp lí và bền vững.
Nhờ tác động của gói kích cầu, trong từng nghành, từng lĩnh vực đều có chuyển
biến rõ nét. Sản xuất công nghiệp phục hồi khá nhanh. Sau khi giảm sâu trong
trong tháng 1(-4,4%), nghành công nghiệp lại lấy lại tốc độ tăng trưởng trong các
tháng tiếp theo và đến tháng 10 đã tăng 11,9% so với cùng kỳ 2008.
Đặc biệt nghành xây dựng từ mức tăng trưởng âm từ mức 0,4% về giá trị tăng
thêm trong năm 2008 đã tăng 6,9% trong quý I, tăng 9,8% trong quý II, tăng 11%
trong quý III và dự kiến cả năm đó có thể đạt tốc độ tăng trưởng 11% nhờ các biện
pháp hỗ trợ lãi suất, kích cầu đầu tư.


Nghành nông, lâm nghiệp và thủy sản có bước phát triển khá. Giá trị sản xuất toàn
nghành nông, lâm ngư nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 2,6% so với cùng kì năm
trước; sản lượng lương thực vụ đông xuân vượt mức kỉ lục của năm trước (tăng
0,3%).


Có thể nói gói kích cầu có hiệu ứng tâm lí tích cực, làm tăng tức thời lòng tin của
doanh nghiệp, các ngân hàng và nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào trách nhiệm
của nhà nước trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, cũng như tin
vào triển vọng thị trường vầ môi trường đầu tư Việt Nam.
Gói kích cầu đã trực tiếp hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ngân
hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt chi phí kinh doanh, gop phần giảm giá
thành sản phẩm, tăn cạnh tranh và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.
Nhiều doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ kịp thời của gói kích cầu đã có thêm cơ
hội giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo
ổn định xã hội.
Những hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại quốc gia được hỗ trợ từ gói kích
cầu nếu thực hiện có hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến việc tăng dòng vốn chảy
vào Việt Nam, mở rộng thị trường đầu ra cho doanh nghiệp và nền kinh tế, từ đó
trực tiếp góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước...

Một trong những yếu tố chính của gói kích thích kinh tế là khoản hộ trợ lãi xuất
4% đối với vay vốn ngắn hạn, qua điều tra thực tế cho thấy hiệu quả rất cao. Mục
tiêu của chính phủ thông qua chương trình hỗ trợ này là duy trì lạm phát ở mức
thấp, hỗ trợ sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả nhất (điều này cũng đem lại hiệu
quả cho cả nền kinh tế). Nhà nước chỉ hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay nhằm mục
đích giúp cho các doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng chi phí tài chính, nhờ đó
khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục duy trì sản xuất. Kinh doanh hiệu quả.

Ngoài sự nỗ lực năng động sáng tạo của từng doanh nghiệp thì những chính sách

kích cầu cuả cính phủ được coi là một trong những giải pháp kịp thời giúp hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vượt khó đạt kết quả khả quan, từng
bước vào ổn định và phát triển.


Những tác động nói trên có thể được chứng minh bằng những ví dụ thực tế: Công
ty cổ phần Việt Vương ( Doanh nghiệp sản xuất cột ăng ten, cột điện... tại phú thọ )
số vốn vay hỗ trợ lãi suất mà công ty tiếp cận được là 15 tỷ đồng cùng với số tiền
được giãn thuế trong năm 2009 là 1 tỷ đồng đã giúp công ty duy trì hoạt động và
đến thời điểm này đang đẩy mạnh sản suất để kịp giao hàng trong tháng 6 cuối
năm.
Đặc biệt, trong điều kiện rất khó khăn của nền kinh tế do tác động của cuộc khủng
hoảng và suy thái kinh tế, việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội, nhất là
hướng vào công tác xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả
thiên tai, dịch bệnh đã được tiến hành sâu rộng, góp phần bảo đảm đời sống nhân
dân, đặc biệt là với người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa... qua đó công tác xóa đói, giảm ngheo có nhiều chuyển biến quang trọng, theo
tính toán tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2009 ước còn khoảng 11%, vượt kế hoạch
đề ra.
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, vẫn còn 1 tác động hạn chế trong việc
triển khai các chính sách kích thích kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội như : Việc
triển khai đồng thời nhiều cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với việc thực thi chính sách
tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng có tác động làm tăng tổng phương
tiện thanh toán và tín dụng ở mức khá cao.... Ngoài ra, việc hỗ trợ lãi suất bằng
VNĐ dẫn đến chuyển dịch từ vay ngoại tệ sang VNĐ để mua ngoại tệ nhằm giảm
bớt rủi ro tỷ giá đã gây mất cân đối trên thị trường ngoại hối

IV.

Đánh giá các gói kích cầu của Việt Nam


Chính phủ Việt Nam đã lựa chọn giải pháp kích cầu kiểu “phòng thủ” tức là chúng
ta trông đợi vào khả năng khôi phục của sức cầu từ bên ngoài hơn là tự tạo ra sức
cầu mới bên trong nền kinh tế. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế giống như kiểu
một trận đấu đang bế tắc, Trung Quốc và Mỹ lựa chọn tìm kiếm giải pháp tấn công
mới, mô hình hỗ trợ (tạo tăng trưởng GDP mới), khai thông thế trận mới, trong khi
Việt Nam lựa chọn phòng thủ và duy trì lối chơi truyền thống (mô hình tăng trưởng
vẫn dựa vào xuất khẩu), chờ đợi cơ hội. Khó có thể nói là lựa chọn nào là hoàn
toàn đúng, vì vấn đề còn phụ thuộc vào thực lực của từng đội. Liệu rằng ngân sách


của Việt Nam có thể bền vững nếu lựa chọn giải pháp như Mỹ và Trung Quốc? Với
thực lực của Việt Nam hiện nay chúng ta có thể tạm đánh giá là gói kích cầu đã
phần nào tạo được hiệu quả, tuy nhiên chúng ta vẫn đang e ngại trong việc thực
hiện những chính sách mạnh hơn, dẫn đến việc chúng ta sẽ bỏ qua những cơ hội
đáng tiếc.
Xét về tổng thể, gói kích cầu đã có những tác động tích cực đến nền kinh tế, hỗ trợ
doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh kinh tế suy giảm. Tuy nhiên, gói kích
cầu mới chỉ đáp ứng được nguyên tắc: kịp thời (timely); mức độ “đúng đối tượng”
chưa cao và liều lượng cũng chưa phù hợp ở một vài giải pháp cụ thể. Bên cạnh đó,
có một phần gói kích cầu cũng đã bị ‘rò rỉ” ra bên ngoài (hàng nhập khẩu).
Sau đây, chúng ta sẽ đánh giá những điểm tích cực và tiêu cực từ việc thực hiện gói
kích cầu lãi suất 1 tỷ USD của chính phủ.

4.1Tích cực
4.1.1 Đối với Doanh nghiệp Việt Nam
Gói kích thích kinh tế của Chính phủ bao gồm hỗ trợ lãi suất vay vốn tín
dụng khoảng 17 nghìn tỷ đồng (1 tỷ USD); vốn đầu tư phát triển của Nhà nước
khoảng 90,8 nghìn tỷ đồng; thực hiện chính sách miễn giảm thuế khoảng 28 nghìn
tỷ đồng; và các khoản chi khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế và đảm bảo an

sinh xã hội khoảng 9,8 nghìn tỷ đồng. Và hiệu quả của nó đối với Doanh nghiệp
Việt nam hiện nay có thể được đánh giá là khá cao.
Đầu tiên là giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Nhờ giải pháp vĩ
mô của Nhà nước là thực hiện gói kích cầu; năm 2009 các Doanh nghiệp gặp khó
khăn sẽ được hỗ trợ lãi suất khi vay vốn Ngân hàng với chi phí và lãi suất thấp; và
với chính sách hỗ trợ cho những lao động mất việc thì các doanh nghiệp được vay
ưu đãi để trả lương và nộp bảo hiểm cho những công nhân mất việc làm… giúp
các doanh nghiệp khôi phục được sản xuất và lượng lao động mất việc làm được
giảm đáng kể. Năm 2009 tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống nhiều so với năm 2008.
Thứ 2, giúp các Doanh nghiệp giải quyết được nhu cầu về vốn và tiếp cận
được vốn với lãi suất thấp.


Với việc hỗ trợ lãi suất ở mức 4% năm, đã giúp cho doanh nghiệp giảm bớt khó
khăn, phục hồi sản xuất và hỗ trợ cho việc phát triển ổn định và an toàn của hệ
thống các tổ chức tín dụng. Việc thực hiện các chính sách miễn, giảm, giãn thuế đã
giảm bớt một phần khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, góp phần phục hồi
và từng bước đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu, kích thích cầu đầu tư
tiêu dùng.
Các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng với chi phí lãi suất rẻ
hơn, từ đó giúp giảm bớt các chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá, tăng cạnh
tranh và tăng tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.
Thứ 3, giúp các DN giữ vững và mở rộng sản xuất vượt qua cuộc khủng
hoảng tài chính. Nhiều Doanh nghiệp đã nhận được nguồn vốn hỗ trợ kịp thời từ
gói kích cầu đã sớm khôi phục lại hoạt động sản xuất, thậm chí là mở rộng sản
xuất, giúp tạo ra việc làm cho công nhân, và phát triển được hoạt động kinh doanh
của Doanh nghiệp.
Thứ 4, làm tăng dòng vốn chảy vào và mở rộng thị trường đầu ra cho DN
và nền kinh tế. Những hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại quốc gia được tài
trợ từ "gói kích cầu" nếu thực hiện có hiệu quả cũng sẽ có tác động tích cực đến

tăng dòng vốn chảy vào và mở rộng thị trường đầu ra cho doanh nghiệp và nền
kinh tế, từ đó trực tiếp góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước...
4.1.2 Đối với nền kinh tế chung
Khi đã góp phần tác động tích cực đến những bộ phận nhỏ của nền kinh tế
là các doanh nghiệp thì nền kinh tế vĩ mô cũng được ổn định hơn nhờ chính sách
kích cầu này.
Đầu tiên gói kích cầu của Chính phủ đã góp phần thực hiện được mục tiêu
ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô; các cân đối thu chi ngân sách
Nhà nước, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế… được đảm bảo; lạm phát được
kiềm chế ở mức thấp nhất; tốc độ tăng trưởng được duy trì hợp lý và bền vững.
Thứ 2 chính sách kích cầu kinh tế làm gia tăng lòng tin của của các doanh
nghiệp, ngân hàng và các nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào trách nhiệm và
quyền năng của Nhà nước trong việc giải cứu các doanh nghiệp đang gặp khó
khăn, cũng như vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư trong nước,...


Thứ 3, giúp các trung gian tài chính cải thiện hoạt động, giữ vững ổn định
và hoạt động lành mạnh. Giúp các ngân hàng cải thiện hoạt động huy động và cho
vay tín dụng của mình theo hướng: một mặt, ngân hàng không phải hạ thấp lãi suất
huy động dễ gây giảm và biến động mạnh nguồn tiền gửi và huy động; mặt khác,
cho phép ngân hàng mở rộng đầu ra nhờ không buộc phải nâng lãi suất cho vay dễ
làm thu hẹp cầu tín dụng trên thị trường. Sự ổn định và hoạt động lành mạnh của
hệ thống ngân hàng trong khi gia tăng dòng tiền bơm vào thị trường là điều kiện
tiên quyết cho sự ổn định kinh tế vĩ mô và gia tăng các hoạt động đầu tư xã hội
Thứ 4, đã góp phần trực tiếp vào việc góp phần gia tăng các hoạt động đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế , tạo
nền tảng và động lực của sự phát triển xã hội ở hiện tại và tương lai. Cụ thể thể
hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta trong năm 2010 như sau :

Thể hiện


GDP tăng

Quý I 3,14%
Quý II

4,46%

Quý III

5,67%

Quý IV

6,8%

Cả năm dự báo

5,2%

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
Khu vực công nghiệp và xây dựng
Khu vực dịch vụ

19%

5,4%

6,5%


Cụ thể ở từng ngành, từng lĩnh vực đều có sự chuyển biến rõ nét. Sản xuất công
nghiệp phục hồi khá nhanh, đặc biệt đến tháng 11 tăng 11,9% so với cùng kỳ năm


2008. Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng vậy, giá trị sản suất toàn nghành
nông, lâm, ngư nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước.

4.2 Tiêu cực
4.2.1 Đối với Doanh nghiệp
Bên cạnh những tác động tiêu cực thì vẫn còn một số những hạn chế sau:
Thứ nhất, liều lượng của gói kích cầu thì chưa phù hợp, đối tượng hạn hẹp vì
chỉ có những doanh nghiệp có điều kiện 3 năm làm ăn có lãi thì mới được nhận hỗ
trợ từ gói kích cầu. Chính vì thế mà một số Doanh nghiệp vừa và nhỏ không được
hưởng lợi gì từ gói kích cầu này. Điều này khiến cho các Doanh nghiệp vốn đang
có sức chống lại với cuộc khủng hoảng kinh tế thì lại được tiếp thêm sức, còn các
Doanh nghiệp đang thoi thóp vì cuộc khủng hoảng thì lại không được hưởng sự hỗ
trợ nào, dẫn đến các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đều phá sản.
Thứ 2, tiềm ẩn của lạm phát vẫn chưa được loại trừ hoàn toàn vì một phần
nguồn gốc của lạm phát ở nước ta là do cung tiền quá lớn trong thời gian dài, tức là
để tạo ra một phần trăm (%) tăng trưởng thì cần một lượng vốn khá lớn so với các
nước trong khu vực. Do các Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được Nhà nước hỗ
trợ một lượng tín dụng lớn nhưng lại kém hiệu quả, mặt khác các DNNN này lại
dùng số tiền đó đầu tư vào những lĩnh vực mang tính đầu cơ cao như chứng khoán
và bất động sản, mà không dùng vào việc làm gia tăng hoạt động sản xuất vì thế
khiến cho mục đích sử dụng gói kích cầu của chính phủ đi sai hướng. Vì thế các
DNNN hay DNTN đều phải nhận thức rõ được việc cần làm, đó là thực hiện hoạt
động sản xuất hiệu quả hơn nhờ kỷ luật nhà nước và kỷ luật của thị trường thì nền
kinh tế Việt Nam có thể đã được chuẩn bị tốt hơn phần nào để đương đầu với cuộc
khủng hoảng kinh tế.
Thứ 3, nếu không chú trọng kiểm tra, giám sát sẽ làm tăng nguy cơ nảy sinh

tham nhũng, thậm chí có thể xuất hiện nhiều loại tội phạm mới có liên quan trực
tiếp và gián tiếp tới các "gói kích cầu" này do sự bắt tay giữa các ngân hàng với
các doanh nghiệp trong việc lập các dự án vay ảo để chiếm đoạt vốn hỗ trợ từ "gói
kích cầu".


Thứ 4, nguy cơ làm ảnh hưởng sức cạnh tranh của nền kinh tế do việc cho
vay theo "gói kích cầu" thiên về quy mô và thành tích, tức góp phần níu kéo, duy
trì cơ cấu kinh tế, cũng như cơ cấu sản phẩm và thị trường kinh doanh lạc hậu, kém
hiệu quả; đồng thời, làm gia tăng hoặc kéo dài tình trạng bất bình đẳng thị trường
giữa các loại hình doanh nghiệp, khu vực kinh tế và các địa phương nếu không
tuân thủ tốt các nguyên tắc minh bạch và bình đẳng trong triển khai các "gói kích
cầu".
Thứ 5, tranh chấp giữa các doanh nghiệp trong việc có quyền được hưởng hỗ
trợ từ gói kích cầu là rất dễ xảy ra. Điều này ảnh hưởng đến việc tạo một môi
trường kinh doanh lành mạnh và công bằng.
4.2.2

Đối với nền kinh tế chung

Đầu tiên việc quản lý vốn của Chính phủ chưa thật sự chính xác và đúng đối
tượng, làm tăng nguy cơ thất thoát, lãng phí các nguồn vốn vay, nếu không được
giám sát chặt chẽ; gia tăng gánh nặng nợ nần và các hiện tượng "đầu cơ nóng" với
những hệ quả đắt đi kèm cho cả Chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng và xã hội nói
chung khi các dự án vay đầu tư được lập ra có chất lượng thấp hoặc triển khai kém,
giải ngân không đúng mục đích vay.
Thứ 2, do nguy cơ ngân hàng gây khó khăn cho doanh nghiệp để "ăn chia"
phần vốn hỗ trợ trong khi thẩm định, cho vay vốn, làm tổn hại lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp.
Thứ 3, đặc biệt, về trung hạn, tăng nguy cơ tạo áp lực tái lạm phát trong

tương lai nếu sử dụng không hiệu quả "gói kích cầu" khiến gia tăng tích tụ cân đối
hàng - tiền và vi phạm quy luật lưu thông tiền tệ.
Thứ 4, do việc thực hiện gói kích cầu còn nhiều hạn chế gây phản tác dụng
đến nền kinh tế chung, biểu hiện:
Làm cho tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao. Cụ thể như số
dư tiền gửi đến cuối tháng 10/2009 là 1.690.450 tỷ đồng, tăng 25,72% so với tháng
12/2008. Tổng phương tiện thanh toán tăng 24% so với tháng 12/2008. Dư nợ tín
dụng tăng 39,46% so với tháng 12/2008.


×