Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Khái niệm và đặc điểm của quản lý tài chính Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.63 KB, 31 trang )

I. Khái niệm và đặc điểm của quản lý tài chính Nhà nước
1. Khái niệm quản lý Tài chính Nhà nước
Quản lý nói chung được quan niệm như một quy tình công nghệ mà chủ thể
quản lý tiến hành thông qua việc sử dụng các công cụ và phương pháp thích hợp
nhằm tác động và điều khiển đối tượng quản lý hoạt động phát triển phù hợp với
quy luật khách quan và đạt tới các mục tiêu đã định.
Trong hoạt động quản lý các vấn đề về: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý,
công cụ và phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý là những yếu tố trung tâm đòi
hỏi phải được xác định đúng đắn.
Quản lý tài chính nhà nước là một nội dung của quản lý tài chính và là một
mặt của quản lý xã hội nói chung, do đó trong quản lý TCNN các vấn đề kể trên
cũng là các vấn đề cần được nhận thức đầy đủ.
Trong hoạt động TCNN, chủ thể quản lý TCNN là Nhà nước hoặc các cơ
quan nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện các hoạt động tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước. Chủ thể trực tiếp quản lý TCNN là bộ máy tài
chính trong hệ thống các cơ quan nhà nước.
Đối tượng của quản lý TCNN là các hoạt động của TCNN. Nói cụ thể hơn
đó là các hoạt động thu, chi bằng tiền của TCNN; hoạt động tạo lập và sử dụng các
quỹ TCNN diễn ra trong các bộ phận cấu thành của TCNN. Đó cũng chính là các
nội dung chủ yếu của quản lý TCNN.
Như đã biết, hoạt động tài chính không chỉ chịu sự chi phối bởi bản thân
hoạt động của con người chịu trách nhiệm tổ chức các hoạt động tài chính, mà còn
chịu sự chi phối bởi môi trường kinh tế - xã hội khách quan mà tài chính đang tồn
tại và vận động. Do đó, trong quản lý tài chính nói chung và quản lý tài chính nhà
nước nói riêng, để đạt tới các mục tiêu đã định, một mặt phải tác động vào môi
trường kinh tế - xã hội khách quan mà tài chính đang tồn tại và vận động, mặt khác
phải tác động vào các hoạt động của con người đang chịu trách nhiệm tổ chức các
hoạt động tài chính để điều khiển các hoạt động tài chính phù hợp với các yêu cầu
khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội và ý muốn chủ quan của người quản
lý nói chung và của Nhà nước nói riêng.
Trong quản lý TCNN, các chủ thể quản lý có thể sử dụng nhiều phương


pháp quản lý và nhiều công cụ quản lý khác nhau.


Phương pháp tổ chức được sử dụng để thực hiện ý đồ của chủ thể quản lý
trong việc bố trí, sắp xếp các mặt hoạt động của TCNN theo những khuôn mẫu đã
định và thiết lập bộ máy quản lý phù hợp với các mặt hoạt động đó của TCNN.
Phương pháp hành chính được sử dụng khi các chủ thể quản lý TCNN muốn
các đòi hỏi của mình phải được các khách thể quản lý tuân thủ một cách vô điều
kiện. Đó là khi các chủ thể quản lý ra các mệnh lệnh hành chính.
Phương pháp kinh tế được sử dụng thông qua việc dùng lợi ích vật chất để
kích thích tính tích cực của các khách thể quản lý, tức là tác động tới các tổ chức
và cá nhân đang tổ chức các hoạt động TCNN.
Hệ thống pháp luật thuộc lĩnh vực TCNN được sử dụng để quản lý và điều
hành các hoạt động TCNN được xem như một loại công cụ quản lý có vai trò đặc
biệt quan trọng.
Trong quản lý TCNN, công cụ pháp luật được sử dụng thể hiện dưới các
dạng cụ thể là các chính sách, cơ chế quản lý tài chính; các chế độ quản lý tài
chính, kế toán, thống kê; các định mức, tiêu chuẩn về tài chính, mục lục NSNN...
Cùng với pháp luật, hàng loạt công cụ phổ biến khác được sử dụng trong
quản lý TCNN như: các đòn bẩy kinh tế, tài chính; Kiểm tra, thanh tra, giám sát;
các tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý TCNN...
Mỗi công cụ kể trên có đặc điểm khác nhau và được sử dụng theo các cách
khác nhau nhưng đều nhằm cùng một hướng là thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt
động TCNN nhằm đạt tới mục tiêu đã định.
Từ những phân tích kể trên có thể có khái niệm tổng quát về quản lý TCNN
như sau:
Quản lý TCNN là hoạt động của các chủ thể quản lý TCNN thông qua việc
sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các công cụ quản lý để tác động
và điều khiển hoạt động của TCNN nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
2. Đặc điểm của quản lý TCNN

Quản lý TCNN là sự tác động của các chủ thể quản lý TCNN vào quá trình
hoạt động của TCNN. Để quản lý TCNN có hiệu quả đòi hỏi phải nắm được đặc
điểm của quản lý TCNN. Đến lượt nó, đặc điểm của quản lý TCNN lại chịu sự chi
phối bởi đặc điểm của hoạt động TCNN - đối tượng quản lý và mô hình tổ chức hệ


thống bộ máy quản lý TCNN – chủ thể quản lý. Từ đó có thể khái quát các đặc
điểm cơ bản của quản lý TCNN là:
2.1. Đặc điểm về đối tượng quản lý TCNN
Đối tượng của quản lý TCNN là các hoạt động của TCNN. Tuy nhiên, các
hoạt động của TCNN lại luôn gắn liền với các cơ quan nhà nước - các chủ thể của
TCNN. Các cơ quan này vừa là người thụ hưởng nguồn kinh phí của TCNN, vừa là
người tổ chức các hoạt động của TCNN. Do đó, các cơ quan này cũng trở thành
đối tượng của quản lý TCNN.
Lấy chất lượng, hiệu quả đã đạt được của các hoạt động TCNN làm cơ sở để
phân tích đánh giá động cơ, biện pháp tổ chức, điều hành hoạt động TCNN của các
cơ quan nhà nước là đòi hỏi và là nguyên tắc của quản lý TCNN. Chỉ có như vậy
mới đảm bảo cho các nguồn lực tài chính của nhà nước được sử dụng hợp lý và có
hiệu quả, tránh được tình trạng thất thoát, lãng phí, tham nhũng công quỹ.
Quản lý TCNN thực chất là quản lý các quỹ công, quản lý các hoạt động tạo
lập (thu) và sử dụng (chi) các quỹ công, do đó sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý yếu
tố con người với quản lý yếu tố hoạt động tài chính là đặc điểm quan trọng của
quản lý TCNN.
2.2. Đặc điểm về việc sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý tài
chính nhà nước
Như đã đề cập ở trên, trong quản lý TCNN có thể sử dụng nhiều phương
pháp quản lý khác nhau (tổ chức, hành chính, kinh tế) và nhiều công cụ quản lý
khác nhau (pháp luật, các đòn bảy kinh tế, thanh tra - kiểm tra, đánh giá…). Mỗi
phương pháp, công cụ có đặc điểm riêng, có cách thức tác động riêng và có các ưu,
nhược điểm riêng.

Nếu như phương pháp tổ chức, hành chính có ưu điểm là đảm bảo được tính
tập trung, thống nhất dựa trên nguyên tắc chỉ huy, quyền lực thì lại có nhược điểm
là hạn chế tính kích thích, tính chủ động của các cơ quan tổ chức hoạt động TCNN.
Ngược lại, các phương pháp kinh tế, các đòn bảy kinh tế có ưu điểm là phát huy
được tính chủ động, sáng tạo nhưng lại có nhược điểm là hạn chế tính tập trung,
thống nhất trong việc tổ chức các hoạt động TCNN theo cùng một hướng đích.
Do đó, trong quản lý TCNN, tuỳ theo đặc điểm của đối tượng quản lý cụ thể
mà có thể lựa chọn phương pháp này hay phương pháp khác làm phương pháp nổi


bật trên nguyên tắc chung là phải sử dụng đồng bộ và kết hợp chặt chẽ các phương
pháp và công cụ quản lý.
Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động TCNN là luôn gắn liền với quyền lực
của nhà nước, nên trong quản lý TCNN phải đặc biệt chú trọng tới các phương
pháp, công cụ mang tính quyền uy, mệnh lệnh để đảm bảo tính tập trung, thống
nhất. Đó là các phương pháp tổ chức, hành chính, các công cụ pháp luật, thanh tra,
kiểm tra. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng của quản lý TCNN.
2.3. Đặc điểm về quản lý nội dung vật chất của TCNN
Nội dung vật chất của TCNN là các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ thuộc sở
hữu nhà nước mà nhà nước có thể chi phối và sử dụng trong một thời kỳ nhất định.
Các nguồn tài chính đó có thể tồn tại dưới dạng tiền tệ hoặc tài sản, nhưng tổng số
nguồn lực tài chính đó là biểu hiện về mặt giá trị, là đại diện cho một lượng của cải
vật chất của xã hội. Về lý thuyết cũng như thực tiễn, sự vận động của các nguồn tài
chính phải ăn khớp với sự vận động của của cải vật chất mới đảm bảo cho sự phát
triển cân đối của nền kinh tế. Điều đó càng có ý nghĩa và cần thiết bởi vì tổng
nguồn lực tài chính mà Nhà nước nắm giữ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn lực
tài chính của toàn xã hội.
Do đó, trong quản lý TCNN, không những phải quản lý nguồn tài chính đang
tồn tại cả dưới hình thức tiền tệ, cả dưới hình thức tài sản, mà còn phải quản lý sự vận
động của tổng nguồn lực TCNN - sự vận động về mặt giá trị - trên cơ sở tính toán để

đảm bảo cân đối với sự vận động của các luồng của cải vật chất và lao động - sự vận
động về mặt giá trị sử dụng - trong đời sống thực tiễn.
Như vậy, kết hợp quản lý, đảm bảo tính thống nhất giữa hiện vật và giá trị, giá
trị và giá trị sử dụng là một đặc điểm quan trọng khác của quản lý TCNN.
II. những nội dung cơ bản của quản lý TCNN
Quản lý TCNN có nội dụng đa dạng và phức tạp. Xét theo các bộ phận cấu
thành các quỹ TCNN, nội dung chủ yếu của quản lý TCNN bao gồm: quản lý
NSNN và quản lý các quỹ TCNN ngoài NSNN.
1. Quản lý Ngân sách nhà nước
1.1. Quản lý quá trình thu của NSNN
Thu ngân sách Nhà nước được thực hiện bằng các hình thức: bắt buộc bao
gồm thuế, phí, lệ phí; bán tài nguyên, tài sản quốc gia, các khoản thu trong các


doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước mà còn
có các hình thức động viên khác như hình thức trưng thu, trưng mua... Quản lý quá
trình thu NSNN chính là quản lý các hình thức động viên đó.
Yêu cầu cơ bản quản lý quá trình thu NSNN là:
- Đảm bảo tập trung một bộ phận nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà
nước để trang trải các khoản chi phí cần thiết của Nhà nước trong từng giai đoạn
lịch sử.
Việc động viên một bộ phần nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà nước
là yêu cầu cơ bản, không thể thiếu được đối với mọi Nhà nước. Mức độ tập trung
nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà nước tuỳ thuộc vào chức năng nhiệm vụ
mà Nhà nước đảm nhận, tuỳ thuộc vào cách thức sử dụng nguồn lực tài chính của
Nhà nước cũng như khả năng tạo ra nguồn lực tài chính của nền kinh tế.
Thông thường, đứng trên góc độ kinh tế, mức động viên nguồn lực tài chính
quốc gia vào tay Nhà nước thường chịu sự tác động của các yếu tố sau đây:
+ Mức thu nhập GDP bình quân đầu người
+ Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế.

+ Khả năng khai thác và xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên
+ Tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư nhân để đầu tư
+ Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước
+ Tổ chức bộ máy thu nộp
Do đó, nội dung quản lý quá trình thu NSNN không đơn thuần là quản lý các
hình thức thu và số thu NSNN mà phải tổ chức quản lý các yếu tố quyết định đến
số thu của NSNN.
- Đảm bảo khuyến khích, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra nguồn thu của
NSNN ngày càng lớn hơn.
Thực hiện đầy đủ các yêu cầu này, chính là khắc phục tư tưởng thu đơn
thuần, thu thoát ly thực trạng kinh tế. Vì vậy, trong quản lý thu NSNN từ việc
hoạch định chính sách, chế độ thu cho đến tổ chức thực hiện phải luôn luôn phân
tích, đánh giá thực trạng kinh tế, thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh để có
chính sách, chế độ, biện pháp chỉ đạo thu thích hợp. Không vì yêu cầu đảm bảo
nhu cầu trang trải các khoản chi phí của Nhà nước mà gia tăng các khoản thu một


cách phi thực tế, gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh, làm hạn chế
nguồn thu NSNN trong tương lai. Quản lý quá trình thu NSNN phải coi mục tiêu
bồi dưỡng nguồn thu là mục tiêu có tính chất quyết định đến sự ổn định và phát
triển của thu NSNN.
- Trong quá trình quản lý thu phải coi trọng yêu cầu công bằng xã hội, đảm
bảo thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính sách, chế độ thu do cơ quan có thẩm
quyền ban hành.
Thu NSNN xét ở một góc độ nào đó là sự phân phối lại thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư thông qua bộ máy quyền lực của Nhà nước.
Sự phân phối đó là cần thiết cả về khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội.
Song sự phân phối đó luôn luôn chứa đựng trong nó những mâu thuẫn về mặt lợi
ích. Một sự động viên thiếu công bằng sẽ khoét sâu những mâu thuẫn đó. Khi mức
độ mâu thuẫn đạt đến cực điểm sẽ bùng nổ những cuộc đấu tranh xã hội làm

phương hại đến tính ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia.
Chính vì lẽ đó, trong quá trình quản lý thu NSNN phải luôn luôn coi trọng
khía cạnh công bằng xã hội. Công bằng xã hội trong quản lý thu NSNN đòi hỏi
việc tổ chức động viên phải sát với khả năng đóng góp của người dân theo nguyên
tắc công bằng theo chiều ngang và chiều dọc. Để đảm bảo được yêu cầu của công
bằng xã hội, trong quá trình tổ chức, quản lý, động viên các khoản thu của NSNN
không thể tiến hành một cách chủ quan, tuỳ tiện mà phải tuân thủ đầy đủ chính
sách chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Bởi vì, nói chung các chính
sách, chế độ thu đó đã được dân chúng thừa nhận gián tiếp qua cơ quan quyền lực
đại diện cho lợi ích của họ, ở nước ta cơ quan quyền lực đó là Quốc hội.
Nhằm thực hiện có hiệu quả các yêu cầu kể trên, điều quan trọng là cần xác
lập được cách thức quản lý và sử dụng các công cụ quản lý thích hợp.
Trong thực tế có nhiều cách thức, phương pháp quản lý thu NSNN. Song
cách thức, phương pháp quản lý thu NSNN phổ biến hiện nay là:
- Xác lập một hệ thống chính sách thu đồng bộ phù hợp với thực trạng của
nền kinh tế. Hệ thống chính sách thu đó không chỉ quan tâm đến lợi ích tạo ra
nguồn thu trước mắt cho Nhà nước mà phải có tác động đến quá trình phát triển
kinh tế theo hướng có lợi nhất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc


làm nhiều hơn, kiềm chế và hạn chế lạm phát, thực hiện chủ trương mở cửa, từng
bước cân đối cán cân thanh toán quốc tế.
- Trên cơ sở chính sách, chế độ thu, gắn với diễn biến của quá trình hoạt
động kinh tế, hoạch định kế hoạch thu sát, đúng, phù hợp với diễn biến thực tế
khách quan của tình hình kinh tế hàng năm.
Kế hoạch thu sát đúng là biện pháp quan trọng để tổ chức quá trình quản lý
thu cụ thể. Đồng thời kết quả thực hiện kế hoạch thu sẽ cho phép nhìn nhận lại các
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, cũng như các biện pháp tổ chức thu thích
hợp.
- Xác lập các biện pháp tổ chức thu phù hợp với từng khoản thu cụ thể của

NSNN. ở đây cần phải tập trung vào hai vấn đề chủ yếu:
Một là, xây dựng quy trình thu cho từng loại cụ thể.
Hai là, tổ chức bộ máy thu gọn nhẹ, hợp lý đạt hiệu quả cao, đặc biệt là xây
dựng đội ngũ cán bộ thu có đầy đủ năng lực, trình độ và phẩm chất.
1.2. Quản lý quá trình chi của NSNN
Chi NSNN có quy mô và mức độ rộng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực, ở nhiều
địa phương, ở tất cả các cơ quan công quyền. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị
trường chi NSNN vừa mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, lại vừa có tính chất
hoàn trả trực tiếp.
Vì vậy, việc quản lý các khoản chi NSNN hết sức phức tạp. Xét theo yếu tố
thời hạn của các khoản chi NSNN, có thể hình dung nội dung cụ thể quản lý các
khoản chi NSNN bao gồm:
+ Quản lý các khoản chi đầu tư phát triển
+ Quản lý các khoản chi thường xuyên
+ Quản lý các khoản chi trả nợ
+ Quản lý chi dự phòng
Các khoản chi kể trên được trang trải bằng các nguồn tài chính khác nhau,
mang tính chất khác nhau. Do đó trong việc hoạch định các phương pháp và
nguyên tắc quản lý cụ thể cũng khác nhau.
Trong quản lý các khoản chi của NSNN phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản
sau đây:


- Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các cơ quan công quyền thực hiện
các nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước.
NSNN là công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước. Vì vậy , bất luận trong
điều kiện nào, việc quản lý các khoản chi của NSNN phải hướng vào mục tiêu
chính là đảm bảo nguồn tài chính cho việc thực hiện các nhiệm vụ của các cơ quan
công quyền đã được Nhà nước giao phó. Tuy nhiên trong thực tế, việc đảm bảo
yêu cầu này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là trong điều kiện khả năng tập

trung nguồn lực tài chính của Nhà nước còn hạn chế, yêu cầu thực hiện, nhiệm vụ
của các cơ quan công quyền lại cấp bách và rộng lớn.
Nhằm giải quyết mâu thuẫn này trong quản lý các khoản chi của NSNN cần
thiết phải xác lập được thứ tự ưu tiên các khoản chi, đồng thời về phía Nhà nước,
cần có sự cân nhắc khi giao nhiệm vụ cho các cơ quan công quyền.
- Quản lý các khoản chi phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả
Tiết kiệm và hiệu quả là yêu cầu sống còn trong mọi hoạt động kinh tế xã
hội. Đặc biệt việc quản lý các khoản chi NSNN lại càng phải coi trọng việc tiết
kiệm và hiệu quả. Đó là tiêu thức cơ bản khi xác lập các biện pháp quản lý. Luận
điểm này được xác lập dựa trên những căn cứ sau đây:
Một là, xuất phát từ tính chất của các khoản chi của NSNN có quy mô, mức
độ rộng lớn phức tạp, lợi ích của các khoản chi mang lại thường ít gắn liền với lợi
ích cụ thể, cục bộ. Do đó sự quan tâm của người sử dụng nguồn lực tài chính của
Nhà nước phần nào bị hạn chế.
Hai là, so với các khoản chi ở các khâu tài chính khác trong nền kinh tế, thì
các khoản chi của NSNN nói chung có tỷ trọng lớn và có ảnh hưởng đến toàn bộ
vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước. Vì vậy các khoản chi của NSNN không đúng
mục đích, không tiết kiệm, hiệu quả kém sẽ gây tổn hại to lớn đến quá trình phát
triển kinh tế, xã hội.
Xuất phát từ những lý do đó, trong quản lý các khoản chi của NSNN phải
coi trọng mục tiêu tiết kiệm và hiệu quả.
Nhằm đạt được tiêu chuẩn tiết kiệmvà hiệu quả trong quản lý các khoản chi
của NSNN cần thiết phải quản lý chặt chẽ từ khâu xây dựng kế hoạch, xây dựng
định mức, thường xuyên phân tích, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực
hiện các khoản chi của NSNN. Trên cơ sở đó đổi mới các biện pháp chi và cơ cấu


chi, chuyển một NSNN mang tính chất bao cấp sang một NSNN phù hợp với kinh
tế thị trường.
- Gắn nội dung quản lý các khoản chi NSNN với nội dung quản lý các mục

tiêu của kinh tế vĩ mô. Tăng cường việc làm, ổn định cán cân thành toán, kìm chế
lạm phát luôn luôn là mục tiêu phấn đấu ở mọi quốc gia. Các mục tiêu đó có mối
quan hệ hữu cơ với các khoản chi của NSNN. Các mục tiêu đó là cơ sở đặt ra yêu
cầu cho việc thực hiện các khoản chi của NSNN. Ngược lại , các khoản chi của
NSNN lại có tác động to lớn đến các mục tiêu của kinh tế vĩ mô.
Chính vì vậy, trong quản lý chi NSNN cần phải chú ý mối quan hệ này, làm
thế nào để các khoản chi NSNN có tác động tích cực đến việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Ngược lại, phải trên cơ sở phân tích đánh giá thực
trạng thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô để bố trí các khoản chi cho thích hợp.
Để thực hiện các yêu cầu trên, điều quan trọng là phải tìm ra những biện
pháp quản lý chi thích hợp đối với từng khoản chi cụ thể ở những hoàn cảnh cụ
thể.
Trong thực tiễn, đối với từng khoản chi có nhiều biện pháp quản lý khác
nhau. Song biện pháp quản lý chi NSNN chung nhất là:
+ Thiết lập các định mức chi. Định mức chi vừa là cơ sở để xây dựng kế
hoạch chi, vừa là căn cứ để thực hiện việc kiểm soát các khoản chi của NSNN.
Nguyên tắc chung để thiết lập các định mức chi là vừa phải đảm bảo phù hợp với
yêu cầu thực tiễn khách quan của các đơn vị thụ hưởng nguồn kinh phí của NSNN,
vừa phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả.
+ Xác lập thứ tự ưu tiên các khoản chi của NSNN theo mức độ cần thiết đối
với từng khoản chi trong tình hình cụ thể về phát triển kinh tế, xã hội, về việc thực
hiện các chức năng của cơ quan công quyền.
+ Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế
tối đa những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc kiểm soát chi của các cơ quan có thẩm quyền.
+ Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn
những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước. Đồng
thời qua quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra và kiểm toán phát hiện những bất
hợp lý trong chính sách, chế độ nhằm hoàn thiện bổ sung chính sách, chế độ.



1.3. Quản lý và thực hiện các biện pháp cân đối thu, chi Ngân sách Nhà
nước
Cân đối thu chi NSNN là một mặt cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, nó
vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các mặt cân đối khác trong nền kinh tế quốc
dân. Trong thực tiễn, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà hoạt động
thu, chi NSNN không phải lúc nào cũng cân đối.
Về khách quan, hoạt động thu, chi NSNN bắt nguồn từ hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nền kinh tế. Trong điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh có
hiệu quả, đạt tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát thấp
thì khả năng cân đối thu, chi NSNN được thực hiện tương đối thuận lợi. Ngược lại,
trong điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh có dấu hiệu suy thoái, lạm phát ở
tốc độ cao thì khả năng cân đối thu, chi của NSNN gặp khó khăn.
Về chủ quan, do những tác động của chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước
làm nảy sinh sự mất cân đối thu, chi của NSNN. Một hệ thống chính sách kinh tế
xã hội phù hợp có tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội và dựa trên khả
năng của nguồn lực tài chính quốc gia thì khả năng cân đối thu - chi NSNN có điều
kiện thực hiện. Ngược lại, một hệ thống chính sách chế độ kinh tế, xã hội mang ý
chí chủ quan, không xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội, không dựa trên khả
năng nguồn lực tài chính quốc gia, thì vấn đề cân đối thu - chi NSNN khó đảm bảo.
Tuỳ theo cách tiếp cận nguyên nhân của sự mất cân đối mà có các phương
pháp giải quyết khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp phổ biến hiện nay là: Thực
hiện hình thức tín dụng Nhà nước vay nợ trong và ngoài nước để đảm bảo sự cân
đối thu - chi NSNN, hình thành quỹ dự trữ, quỹ dự phòng tài chính...
Việc quản lý cân đối thu - chi NSNN thực chất là việc quản lý thực hiện các
biện pháp đó.
1.3.1.Quản lý tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là một biện pháp huy động nguồn lực tài chính do Nhà
nước thực hiện thông qua hình thức vay và cho vay.
Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết tình trạng

thâm hụt NSNN (thu không đủ chi) và yêu cầu đầu tư phát triển kinh tế do Nhà
nước thực hiện.


Quản lý tín dụng nhà nước về thực chất là tính toán xác định nhu cầu nguồn
lực tài chính cần thiết phải huy động qua con đường tín dụng; tính toán khả năng
chi trả; lựa chọn các hình thức tín dụng thích hợp, quy định chặt chẽ quy trình giải
ngân bảo đảm tính kịp thời; phân tích đánh giá tình hình sử dụng nguồn tín dụng
trên góc độ đầu tư và hiệu quả.
1.3.2. Quản lý dự trữ, dự phòng tài chính của Nhà nước
Trong quá trình vận động của kinh tế thị trường, nhiều rủi ro, bất trắc có thể
xảy ra làm phương hại đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong điều kiện đó, việc thành lập và sử dụng các quỹ dự trữ, dự phòng tài
chính của nhà nước là cần thiết nhằm khắc phục những rủi ro, bất trắc, tạo điều
kiện đảm bảo sự cân đối trong hoạt động của NSNN.
Thực chất của việc quản lý quỹ dự trữ, dự phòng tài chính của Nhà nước là
việc xác lập các định mức trích, hình thành các quy chế sử dụng; xây dựng chế độ
kiểm tra, kiểm soát thích hợp với các đặc điểm của quỹ dự trữ, dự phòng.
1.4. Phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý NSNN được nhìn nhận như là một biện pháp quản lý hoạt
động của NSNN. Thực chất của việc phân cấp là việc phân chia trách nhiệm quản
lý hoạt động của NSNN theo từng cấp chính quyền nhằm làm cho hoạt động của
NSNN lành mạnh và đạt hiệu quả cao. Phân cấp hoạt động quản lý thu, chi NSNN
được thực hiện theo nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ, có phân công rành
mạch theo quyền hạn, trách nhiệm của các cấp chính quyền.
Tư tưởng chỉ đạo trong phân cấp quản lý NSNN theo Luật Ngân sách nhà
nước (2002) là:
- Phân định rành mạch nhiệm vụ thu chi của từng cấp, cụ thể:
Chia nguồn thu thành 3 loại:
+ Trung ương: 100%

+ Địa phương: 100%
+ Điều tiết theo tỷ lệ giữa TW và địa phương
- Tập trung đại bộ phận nguồn thu tài chính lớn, ổn định cho NSTW, tạo cho
NSĐP có nguồn thu gắn với địa bàn.
2. Quản lý các quỹ tài chính nhà nước ngoài Ngân sách nhà nước


Các quỹ TCNN ngoài NSNN có nhiều loại khác nhau, đảm nhận các chức
năng khác nhau và có mục đích sử dụng cụ thể khác nhau.
Đối với loại quỹ TCNN ngoài NSNN đảm nhận chức năng dự trữ, dự phòng
nguồn tài chính trích từ NSNN chiếm tỷ trọng lớn thì việc quản lý chủ yếu là: xác
lập các định mức trích hợp lý; xây dựng quy chế sử dụng quỹ phù hợp với mục
đích cụ thể của quỹ; kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc tạo lập và sử dụng quỹ theo
đúng quy định.
Đối với loại quỹ đảm nhận chức năng hỗ trợ cho quá trình phát triển và tăng
trưởng kinh tế, có khả năng thu hồi vốn, nguồn tài chính của quỹ chủ yếu là huy
động từ nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức xã hội và các tầng lớp
dân cư thì nội dung chủ yếu của quản lý quỹ là: xác định nhu cầu nguồn tài chính
cần thiết phải hỗ trợ để thực hiện việc huy động; xác định các phương thức huy
động hợp lý và các kênh huy động có hiệu quả; tính toán khả năng hoàn trả; xây
dựng quy chế phân phối, sử dụng nguồn tài chính hợp lý theo mục tiêu của quỹ; và
thực hiện kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ quá trình tạo lập và sử dụng quỹ nhằm đảm
bảo hiệu quả hoạt động của quỹ.
iii. tổ chức bộ máy quản lý tài chính nhà nước
Nhằm thực hiện những nội dung quản lý TCNN như đã đề cập, việc nghiên
cứu hình thành bộ máy quản lý TCNN là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
1. Những căn cứ và nguyên tắc tổ chức bộ máy quản lý TCNN
1.1. Những căn cứ xác lập tổ chức bộ máy quản lý TCNN
Hoạt động của bộ máy quản lý TCNN luôn luôn chịu sự chi phối của tổ chức
bộ máy chính quyền và nội dung cơ chế hoạt động của các khâu của TCNN. Do

đó, việc thiết lập bộ máy quản lý TCNN phải dựa trên hai căn cứ chủ yếu:
Một là, căn cứ vào sự hình thành hệ thống các cấp chính quyền và quá trình
thực hiện phân cấp quản lý kinh tế, xã hội cho các cấp chính quyền, các cơ quan
quản lý nhà nước.
Tài chính nhà nước là lĩnh vực quan trọng của hệ thống tài chính, đảm bảo
tiền vốn cần thiết để duy trì hoạt động bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức
năng nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội do Nhà nước đảm nhận. Theo bản chất
kinh tế thì TCNN là quan hệ tiền tệ gắn liền với phân phối và phân phối lại tổng
sản phẩm quốc dân, nhằm hình thành các khoản thu nhập thuộc Nhà nước và được


sử dụng để mở rộng sản xuất và thoả mãn các nhu cầu về văn hoá, xã hội, quốc
phòng và quản lý. Chủ thể của các quan hệ tiền tệ này là các cấp chính quyền, các
cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước (toàn phần và hỗn hợp).
Như vậy, xây dựng bộ máy quản lý TCNN trước hết phải xuất phát từ sự
hình thành hệ thống chính quyền các cấp và quá trình thực hiện phân cấp quản lý
kinh tế xã hội cho các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước.
Quá trình hình thành hệ thống chính quyền và các cơ quan quản lý nhà nước
các cấp là một tất yếu khách quan của mọi thể chế chính trị, nhằm thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ. Nói cụ thể hơn, sự ra
đời của hệ thống chính quyền nhà nước nhiều cấp là tiền đề cần thiết xuất hiện hệ
thống NSNN nhiều cấp. Phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống ngân sách nước ta bao gồm NSTW
và ngân sách các cấp chính quyền địa phương.
Hai là, căn cứ vào đặc điểm, nội dung hoạt động của từng khâu của TCNN.
Nội dung hoạt động của TCNN rất đa dạng. Nói đến TCNN không chỉ có
ngân sách các cấp chính quyền mà còn bao gồm nhiều khâu riêng biệt khác, mỗi
khâu hoàn thành những chức năng và nhiệm vụ đặc thù riêng. Như đã biết, hệ
thống TCNN, nếu phân theo mục tiêu và nội dung hoạt động, bao gồm ngân sách
các cấp chính quyền nhà nước, các quỹ ngoài ngân sách, tín dụng nhà nước và bao

gồm cả tài chính doanh nghiệp nhà nước. Nhờ có chức năng hoạt động khác nhau
của các khâu tài chính này, Nhà nước tác động tích cực đến các quá trình kinh tế xã
hội, giải quyết nhiều vấn đề theo ngành và lãnh thổ.
Các quỹ ngoài ngân sách là khâu riêng biệt của TCNN. Mặc dầu các quỹ
ngoài ngân sách chịu sự quản lý của chính quyền các cấp, nhưng được tách khỏi
ngân sách và có tính độc lập nhất định. Chức năng chính của các quỹ ngoài ngân
sách dù của bất kỳ cấp chính quyền nào đều nhằm bảo đảm kinh phí để thực hiện
các biện pháp theo những mục tiêu riêng bằng các khoản trích phù hợp và bằng các
nguồn vốn huy động khác. Việc tách các nguồn vốn cấp phát để thực hiện các biện
pháp theo mục tiêu riêng khỏi nguồn vốn ngân sách, cho phép mở rộng nguồn vốn
huy động bằng các khoản thu bổ sung như các khoản tiết kiệm, các khoản nộp và
ủng hộ tự nguyện của các thể nhân và pháp nhân, các khoản thu từ xổ số kiến
thiết... hơn nữa điều đó đảm bảo cho việc sử dụng vốn đúng mục đích.


Quy chế tự chủ của các quỹ ngoài ngân sách cho phép đảm bảo cấp phát kịp
thời cho việc thực hiện các biện pháp, các chương trình văn hoá, xã hội quan trọng.
Khác với ngân sách, quỹ ngoài ngân sách chịu sự điều chỉnh và kiểm tra ít hơn từ
các tổ chức chính quyền Nhà nước. Do chỗ những thay đổi trong hướng sử dụng
quỹ ngoài ngân sách được thực hiện không cần có sự tham gia của Quốc hội, nên
tạo khả năng thực hiện chi các quỹ theo chế độ linh hoạt hơn và thúc đẩy mối quan
tâm của các tổ chức sử dụng quỹ trong việc khai thác thêm nguồn vốn. Quỹ ngoài
ngân sách còn đóng vai trò là nguồn tài chính dự trữ, giúp cho các cấp chính quyền
trong những trường hợp khó khăn về tài chính, nhờ đó nâng cao tính cơ động của
các nguồn tài chính trong khuôn khổ hệ thống TCNN thống nhất.
Các quỹ ngoài ngân sách có những khác nhau cả về mục đích, chức năng
hoạt động, cả về cấp quản lý. Theo chức năng hoạt động có thể chia các quỹ ngoài
ngân sách thành các quỹ có tính chất kinh tế, quỹ có tính chất xã hội và quỹ có tính
chất bảo vệ môi trường thiên nhiên. Theo cấp quản lý, các quỹ này có thể chia ra
quỹ quốc gia và quỹ theo địa phương, vùng lãnh thổ.

Các quan hệ tiền tệ tạo nên nội dung của tín dụng nhà nước cũng là một bộ
phận cấu thành của TCNN. Quan hệ tín dụng nhà nước xuất hiện gắn liền với việc
động viên vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, tổ chức và dân cư,
để các tổ chức chính quyền sử dụng nhằm đảm bảo cấp phát kinh phí cho các
khoản chi tiêu của Nhà nước. Việc thu hút vốn tạm thời nhàn rỗi của các pháp nhân
và thể nhân được thực hiện bằng việc bán trên thị trường tài chính tín phiếu kho
bạc và trái phiếu Chính phủ. Vốn được huy động trên thị trường tài chính sẽ được
dùng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, chủ yếu thông qua việc cấp vốn
thực hiện các chương trình cho vay dài hạn.
Như vậy, những phân tích trên đây đã khẳng định rằng cách thức tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước, quá trình phân cấp quản lý, đặc điểm, nội dung và cơ
chế hoạt động của các khâu TCNN là căn cứ xuất phát để hình thành bộ máy quản
lý TCNN phù hợp.
1.2. Những nguyên tắc tổ chức bộ máy quản lý TCNN
Tổ chức quản lý tài chính một cách đúng đắn có ý nghĩa hàng đầu đối với
việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính. Hiệu quả quản lý
TCNN phần lớn phụ thuộc vào việc tổ chức hợp lý công tác của các chủ thể quản


lý bao gồm các cơ quan tài chính từ Trung ương xuống địa phương, cơ quan thuế
nhà nước và bộ máy quản lý tài chính trong các ngành kinh tế quốc dân.
Nhằm nâng cao hiệu lực quản lý, việc tổ chức bộ máy quản lý TCNN cần
phải dựa trên các nguyên tắc sau đây:
Một là, Quán triệt nguyên tắc thống nhất, tập trung - dân chủ trong tổ chức
bộ máy quản lý TCNN.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản, là “xương sống” của hệ
thống quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước ta. Trong tổ chức bộ máy quản lý
TCNN phải coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa phát huy sức mạnh của cả
hệ thống, đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính quốc gia, vừa đảm bảo tính
năng động sáng tạo của mọi cấp quản lý trong việc xử lý các vấn đề tài chính và

NSNN.
Đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính quốc gia là điều kiện quan trọng
để đưa mọi hoạt động TCNN, hoạt động thu, chi NSNN các cấp vào nền nếp, theo
đúng quỹ đạo quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước, tạo nên mối liên hệ gắn bó
hữu cơ giữa các khâu của hệ thống TCNN, làm cho hoạt động TCNN phù hợp,
phục vụ và thúc đẩy các hoạt động kinh tế xã hội.
Thực hiện yêu cầu đó đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý thống nhất của
Nhà nước Trung ương thông qua việc ban hành các chính sách, chế độ chi tiêu,
định mức thu, chi tài chính, thu, chi NSNN, bằng việc phát huy triệt để quyền lực
của Quốc hội trong việc quyết định dự án ngân sách và phê chuẩn tổng quyết toán
ngân sách. Đồng thời, cần phải nâng cao vai trò điều hành của các cơ quan chấp
pháp và các cơ quan chuyên môn trong quá trình lập, chấp hành dự án ngân sách
và quản lý TCNN.
Mặt khác, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải có sự phân
cấp trách nhiệm, quyền hạn cho cấp dưới và cho địa phương. Chính quyền các cấp
có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra vệc thực hiện, đảm bảo thực hiện nghiêm túc
các chính sách, chế độ chi tiêu, định mức thu, chi tài chính Nhà nước đã ban hành.
Chính quyền nhà nước các cấp không được tự ý ban hành các chính sách chế độ tài
chính riêng trái với quy định của Trung ương, phải thực hiện nhiệm vụ thu, chi
TCNN theo đúng kế hoạch, chính sách chế độ tài chính do Trung ương quy định
thống nhất. Đồng thời, chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý tài chính cấp


dưới được giao trách nhiệm và quyền hạn phù hợp, đảm bảo cho các quyết định
quản lý được đưa ra trên những cơ sở thông tin đầy đủ, có căn cứ và phát huy được
vai trò chủ động sáng tạo, ý thức trách nhiệm của các chủ thể quản lý TCNN trong
việc xây dựng kế hoạch thu chi hàng năm và trong quá trình thực hiện kế hoạch đó.
Hai là, Thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo
địa phương và vùng lãnh thổ trong tổ chức bộ máy quản lý TCNN.
Chuyên môn hoá theo ngành và phân bố theo vùng lãnh thổ là đặc trưng, có

tính quy luật của quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Hệ thống quản lý phải
được tổ chức phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất. Với tư cách là một bộ
phận trong hệ thống quản lý nói chung, tổ chức bộ máy quản lý TCNN không thể
tách khỏi nguyên tắc phổ biến này. Tổ chức quản lý theo chuyên ngành không chỉ
đảm bảo quản lý thống nhất, chặt chẽ mọi nguồn TCNN về chính sách chế độ chi
tiêu, định mức thu, chi tài chính, mà còn tạo điều kiện phát triển hình thức và
phương pháp cấp phát, quản lý tài chính phù hợp với đặc điểm của ngành kinh tế
kỹ thuật. Mặt khác tổ chức quản lý theo ngành cần được kết hợp với phân cấp quản
lý cho địa phương và vùng lãnh thổ, thể hiện ở sự phân biệt quyền hạn, trách
nhiệm quản lý nhà nước của cấp tỉnh, thành phố. Đó cũng là sự thể hiện và cụ thể
hoá nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế phù hợp với cơ cấu ngành
và cơ cấu lãnh thổ trong từng giai đoạn, và cũng là điều kiện bảo đảm cho chính
quyền địa phương phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của mình trong việc
thực hiện chức năng quản lý toàn diện trên phạm vi đơn vị hành chính – lãnh thổ.
Hai mặt quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ không tách biệt nhau, không
phải Bộ chỉ quản lý theo ngành mà không có trách nhiệm quản lý theo lãnh thổ,
cũng như không phải chính quyền địa phương chỉ quản lý theo lãnh thổ tách khỏi
quản lý ngành.
Quán triệt nguyên tắc trên đây, bộ máy quản lý TCNN cần phải được tổ
chức vừa theo hệ thống chuyên ngành thống nhất từ Trung ương xuống các địa
phương trong cả nước, đồng thời chịu sự chỉ đạo song trùng của các cấp chính
quyền địa phương. Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý theo ngành của
Bộ Tài chính và các cơ quan trung ương đối với toàn bộ hoạt động TCNN, đồng
thời cần quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp chính quyền và cơ quan
tài chính địa phương đối với hoạt động TCNN diễn ra trên địa bàn lãnh thổ ở địa
phương. Những yêu cầu này cần được quy định rõ trong Luật Ngân sách nhà nước,


Luật Ngân hàng nhà nước và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước về chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương trong quản lý

TCNN.
Ba là, quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong tổ chức bộ máy quản
lý TCNN.
Tiết kiệm và hiệu quả là những vấn đề mang tính quy luật của mỗi chế độ
kinh tế xã hội, nó vừa là mục tiêu, vừa là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động
của mọi hệ thống quản lý. Yêu cầu của nguyên tắc này vận dụng vào việc tổ chức
bộ máy quản lý thể hiện ở chỗ, một tổ chức được coi là có hiệu quả nếu nó được
xây dựng để giúp cho việc hoàn thành các mục tiêu quản lý với mức tổi thiểu về
chi phí.
Quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả đòi hỏi tổ chức bộ máy quản lý
TCNN phải phù hợp với tổ chức bộ máy hành chính và phân cấp quản lý kinh tế tài
chính giữa các cấp chính quyền nhà nước, ở đây đòi hỏi phải có sự tương hợp giữa
quyền hạn và trách nhiệm. Đồng thời bộ máy quản lý phải được tổ chức phù hợp
với đặc điểm, nội dung và cơ chế hoạt động của các khâu TCNN trong điều kiện
kinh tế thị trường. Chuyển sang kinh tế thị trường, phạm vi, nội dung, cơ chế hoạt
động của hệ thống các khâu TCNN đã có nhiều thay đổi, ở đây đòi hỏi phải thiết
kế một bộ máy tổ chức gồm các bộ phận, các cá nhân phù hợp với yêu cầu mới của
hoạt động TCNN. Hơn nữa một vị trí công tác hay một bộ phận trong cơ cấu tổ
chức phải được xác định rõ ràng mục tiêu cần phải đạt, nội dung hoạt động và
trách nhiệm, quyền hạn được giao, tiêu chuẩn cho từng chức danh cán bộ, cũng
như những mối liên hệ với các bộ phận công tác khác.
Để đạt được hiệu quả về mặt tổ chức còn cần phải thấy rõ giới hạn về tầm
quản lý, ở chỗ, ở mỗi cương vị quản lý đều có một số giới hạn nhất định những
người mà một cá nhân có thể quản lý có kết quả. Yêu cầu này đòi hỏi phải thu gọn
các đầu mối quản lý, tinh giản bộ máy, bớt khâu trung gian, tạo cho bộ máy tổ
chức quản lý có hiệu quả.
2. Chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý tài chính nhà nước hiện
nay ở Việt Nam
Theo Hiến pháp, quản lý chung về tài chính trên phạm vi cả nước thuộc
Quốc hội và Chính phủ, còn quản lý các hoạt động nghiệp vụ tài chính là trách



nhiệm của bộ máy tổ chức các cơ quan tài chính, nhờ đó Nhà nước lãnh đạo, điều
hành mọi hoạt động tài chính trong tất cả các bộ phận và lĩnh vực của nền kinh tế
quốc dân. Bộ Tài chính và các cơ quan tài chính cấp dưới của nó, các tổ chức quản
lý tài chính chuyên ngành thực hiện toàn bộ công tác quản lý TCNN.
Xuất phát từ yêu cầu giải quyết các nhiệm vụ gắn liền với đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế xã hội, hiện nay cơ cấu tổ chức bô máy quản lý TCNN đã được
hoàn thiện thêm một bước. So với trước đây, cơ cấu tổ chức mới đã có những thay
đổi đáng kể, nhằm hướng vào việc nâng cao hiệu quả quản lý TCNN. Những thay
đổi trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý TCNN được quyết định bởi chức năng,
vai trò mới của Bộ Tài chính, như là một trong những bộ kinh tế chủ yếu, đóng vai
trò quan trọng trong tiến trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Những thay đổi đó
dựa trên cơ sở tăng cường vai trò điều chỉnh vĩ mô của TCNN và áp dụng rộng rãi
biện pháp kinh tế trong quản lý gắn liền với việc mở rộng tính độc lập, tự chủ của
các địa phương, các doanh nghiệp.
2.1. Chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài chính (*)
Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tài chính, ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách
nhà nước, dự trữ quốc gia, các quỹ TCNN, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp
và hoạt động dịch vụ tài chính (gọi chung là lĩnh vực tài chính - ngân sách), hải
quan, kế toán, kiểm toán độc lập và giá cả trong phạm vi cả nước; quản lý nhà
nước các dịch vụ công trong lĩnh vực tài chính- ngân sách, hải quan, kế toán, kiểm
toán độc lập và giá cả; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Bộ Tài chính có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và dự thảo các văn bản quy phạm pháp
luật khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách , hải quan, kế toán, kiểm toán độc lập và
giá cả.

- Lập dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung
ương hàng năm, dự toán điều chỉnh ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết,
quyết toán ngân sách trung ương, quyết toán ngân sách nhà nước.
(*)

Tham khảo Nghị định của Chính phủ số 77/2003/NĐ-CP ngày 01/07/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ - quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính


- Quản lý thu thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước.
- Quản lý quỹ ngân sách, quỹ dự trữ nhà nước và các quỹ tài chính khác của
nhà nước.
- Quản lý dự trữ quốc gia.
- Thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp.
- Thống nhất quản lý nhà nước về vay và trả nợ của Chính phủ, vay và trả nợ
của quốc gia và các nguồn viện trợ quốc tế.
- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động ngân hàng, tổ chức tài chính phi
ngân hàng và dịch vụ tài chính (kinh doanh bảo hiểm, xổ số, dịch vụ tài chính, kế
toán kiểm toán, tư vấn thuế, kinh doanh và giao dịch chứng khoán).
- Quản lý hoạt động hải quan.
- Quản lý giá.
- Phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ và quản lý thị trường chứng khoán.
- Thực hiện hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý nhà nước của Bộ và đại diện của Chính phủ tại các diễn đàn tài
chính quốc tế song phương đa phương theo sự phân công của Chính phủ.
- Thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra tài chính đối với các lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý của Bộ.
Để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, bộ máy của Bộ
Tài chính được tổ chức thành các Vụ chức năng và các tổ chức quản lý tài chính
chuyên ngành trực thuộc Bộ. Bên cạnh đó còn có một số tổ chức quản lý tài chính

chuyên ngành không trực thuộc Bộ Tài chính thực hiện nhiệm vụ quản lý tài chính
nhà nước trên phạm vi cả nước về những lĩnh vực chuyên biệt như: Bảo hiểm xã
hội Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam..., một số tổ chức khác lại thực hiện
nhiệm vụ quản lý tài chính nhà nước trên phạm vi từng địa phương theo đơn vị
hành chính như: Các Sở tài chính (ở cấp tỉnh và tương đương), các Phòng tài chính
(ở cấp huyện và tương đương) các Ban tài chính (ở cấp xã và tương đương). Phần
dưới đây sẽ giới thiệu về chức năng nhiệm vụ của một số tổ chức quản lý tài chính
chuyên ngành thực hiện nhiệm vụ quản lý tài chính Nhà nước trên phạm vi cả
nước.
2.2. Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức quản lý tài chính chuyên ngành


2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của Kho bạc nhà nước (*)
Kho bạc nhà nước là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về quỹ ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và các
quỹ khác của nhà nước, thực hiện việc huy động vốn cho Ngân sách nhà nước và
cho đầu tư phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo quy định
của pháp luật.
Kho bạc nhà nước có các nhiệm vụ sau đây:
- Soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý quỹ ngân sách nhà
nước, các văn bản quy phạm pháp luật khác thuộc phạm vi thẩm quyền của Kho
bạc nhà nước và tổ chức thực hiện thống nhất trong cả nước, hướng dẫn về nghiệp
vụ hoạt động của Kho bạc nhà nước.
- Quản lý quỹ NSNN và các quỹ TCNN khác bao gồm;
+ Tập trung và phản ánh các khoản thu ngân sách nhà nước, bao gồm cả thu
viện trợ, vay nợ trong nước và ngoài nước. Thực hiện việc thu, nộp vào quỹ NSNN
và thanh toán số thu ngân sách cho các cấp ngân sách theo quy định của Luật
NSNN và của cấp có thẩm quyền.
+ Thực hiện chi NSNN, kiểm soát, thanh toán chi trả các khoản chi NSNN
theo quy định của pháp luật.

+ Quản lý kiểm soát và thực hiện nhập, xuất các quỹ TCNN và các khoản
tạm thu, tạm giữ, tịch thu, ký cược, ký quỹ theo quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
+ Quản lý các tài sản quốc gia quý hiếm được giao và quản lý tiền, tài sản
các loại chứng chỉ có giá của Nhà nước và của các đơn vị, cá nhân gửi tại Kho bạc
nhà nước.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán và điều hành tồn ngân Kho bạc Nhà nước
bao gồm:
+ Mở tài khoản, kiểm soát tài khoản tiền gửi và thực hiện thanh toán bằng
tiền mặt, chuyển khoản đối với các cơ quan, đơn vị, cá nhân có quan hệ giao dịch
với Kho bạc nhà nước. Mở tài khoản tiền gửi (có kỳ hạn và không có kỳ hạn) tại

(*)

Xem Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 235/2003/QĐ-TTg ngày 13/11/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Kho bạc nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính.


Ngân hàng nhà nước hoặc Ngân hàng thương mại nhà nước để thực hiện các hoạt
động nghiệp vụ của Kho bạc nhà nước.
+ Tổ chức quản lý điều hành tồn ngân Kho bạc Nhà nước tập trung thống
nhất trong toàn hệ thống KBNN, bảo đảm các nhu cầu thanh toán, chi trả của
NSNN và các đối tượng giao dịch khác.
+ Được sử dụng tồn ngân KBNN tạm ứng cho Ngân sách nhà nước theo
quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Tổ chức công tác kế toán, thống kê và chế độ báo cáo tài chính theo quy
định của pháp luật.
- Thực hiện một số dịch vụ tín dụng theo quy định hoặc được uỷ thác.
- Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý hệ thống thông tin trong toàn
bộ hệ thống KBNN.

KBNN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất thành hệ thống
dọc theo đơn vị hành chính từ TW đến địa phương với cơ cấu tổ chức như sau:
- KBNN ở TW trực thuộc Bộ Tài chính.
- KBNN các tỉnh, thành phố trực thuộc TW trực thuộc KBNNTW.
- KBNN quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trực thuộc KBNN tỉnh,
thành phố trực thuộc TW.
2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục Thuế (*)
Tổng cục Thuế là tổ chức thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước đối với các khoản thu nội địa, bao gồm thuế, phí, lệ phí và các khoản thu
khác của NSNN (gọi chung là thuế) theo quy định của pháp luật.
Tổng cục Thuế có các nhiệm sau đây:
- Soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thu thuế và tổ chức
thực hiện thống nhất trong cả nước.
- Lập dự toán thu thuế hàng năm.
- Hướng dẫn nghiệp vụ về kê khai, tính thuế, phát hành thông báo thuế và tổ
chức thực hiện thống nhất trong cả nước.

(*)

Xem Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 218/2003 QĐ-TTG ngày 28/10/2003 quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính.


- Tuyên truyền, giáo dục, vận động thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp
thuế theo quy định và thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân nộp
thuế.
- Đề nghị hoặc được quyết định theo thẩm quyền việc miễn, giảm, hoàn
thuế, trưng thu thuế, ấn định thuế, cưỡng chế thi hành pháp luật về thuế theo quy
định.
- Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế, hoàn thuế, miễn giảm

thuế, nộp thuế, quyết toán thuế và chấp hành pháp luật thuế đối với các tổ chức, cá
nhân nộp thuế, tổ chức cá nhân quản lý thu thuế, giải quyết khiếu nại, tố cáo về
thuế.
- Tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê thuế và chế độ báo cáo tài
chính theo quy định.
- Quản lý hồ sơ, tài liệu, ấn chỉ thuế, lưu giữ các tài liệu liên quan đến công
tác thu thuế của các đối tượng nộp thuế.
Tổng cục Thuế được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất thành hệ
thống dọc từ TW đến địa phương theo đơn vị hành chính với cơ cấu tổ chức như
sau:
- Tổng cục Thuế.
- Cục Thuế ở các tỉnh, thành phố trực thuộc TW (gọi chung là Cục Thuế tỉnh
trực thuộc Tổng cục Thuế).
- Chi cục Thuế ở các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
Chi cục Thuế huyện) trực thuộc Cục thuế tỉnh.
2.2.3. Chức năng nhiệm vụ của Tổng cục Hải quan (*)
Tổng cục Hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, giúp Bộ trưởng Bộ
Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành về hải quan; thực
thi pháp luật hải quan trong phạm vi cả nước.
Tổng cục Hải quan có các nhiệm vụ sau đây:
- Kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hoá và phương tiện xuất khẩu,
nhập khẩu quá cảnh.
- Phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới.
(*)

Xem Nghị định của Chính phủ số 96/2002/NĐ-CP ngày 19/11/2002 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan.


- Tổ chức thực hiện pháp luật về thuế và các khoản thu khác đối với hàng

hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Tổ chức thực hiện kiểm tra sau thông quan đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu.
Tổng cục Hải quan được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất thành
hệ thống từ TW đến địa phương, với cơ cấu tổ chức như sau:
- Tổng cục Hải quan.
- Các Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc TW (gọi chung là
các Cục hải quan địa phương) trực thuộc Tổng cục Hải quan.
- Các chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát Hải quan và đơn vị tương
đương trực thuộc Cục Hải quan địa phương.
2.2.4. Chức năng, nhiệm vụ của Cục Dự trữ quốc gia(*)
Cục Dự trữ quốc gia là tổ chức thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về dự trữ quốc gia và trực tiếp quản lý một số loại hàng dự trữ
quốc gia theo quy định của pháp luật.
Cục Dự trữ quốc gia có các nhiệm vụ sau đây:
- Soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực dự trữ quốc gia.
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm, hàng năm,
về dự trữ quốc gia; phương án sử dụng quỹ dự trữ quốc gia hàng năm, và trong các
trường hợp đột xuất.
- Phối hợp với các cơ quan có liên quan lập dự toán và phân bổ vốn bổ sung
dự trữ quốc gia của NSTW cho các Bộ, ngành được phân công dự trữ quốc gia, xác
định giá, khung giá mua, bán, chi phí nhập, xuất bảo quản hàng dự trữ quốc gia.
- Thẩm định, tổng hợp quyết toán việc sử dụng NSNN cho hoạt động nhập,
xuất hàng dự trữ quốc gia của các cơ quan được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý
hàng dự trữ quốc gia.
- Tổ chức kiểm tra việc chấp hành quy chế quản lý hàng dự trữ quốc gia đối
với các Bộ, ngành được giao quản lý hàng dự trữ quốc gia; đề xuất các biện pháp
xử lý những vi phạm về quản lý hàng dự trữ quốc gia theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ quản lý dự trữ quốc gia.
(*)


Xem Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 270/2003/QĐ-TTG ngày 24-12-2003 quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Dự trữ quốc gia trực thuộc Bộ Tài chính.


- Trực tiếp quản lý một số loại hàng dự trữ quốc gia được giao bao gồm các
việc mua, bán, xuất, nhập, bảo quản, bảo vệ an toàn các mặt hàng dự trữ quốc gia
được giao theo đúng quy định của pháp luật.
- Tổ chức nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật và công nghệ để
nâng cao năng lực quản lý, hiện đại hoá hệ thống kho, trang thiết bị kỹ thuật và
công nghệ bảo quản hàng dự trữ quốc gia.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về lĩnh vực dự trữ quốc gia theo phân công của
Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Thực hiện chế độ báo cáo thống kê và đánh giá hiệu quả về tình hình quản
lý, sử dụng hàng dự trữ quốc gia theo quy định của Nhà nước.
Cục Dự trữ quốc gia được tổ chức thành hệ thống dọc, theo nguyên tắc tập
trung thống nhất với cơ cấu tổ chức như sau:
- ở Trung ương có Cục Dự trữ quốc gia trực thuộc Bộ Tài chính.
- Tại địa phương có các tổ chức Dự trữ quốc gia khu vực trực thuộc Cục Dữ
trữ quốc gia. Hiện nay ở Việt Nam có 19 tổ chức Dự trữ quốc gia khu vực.
2.2.5. Chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (*)
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là tổ chức thuộc Bộ Tài chính, chịu trách
nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
chứng khoán và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động
chứng khoán và thị trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ công thuộc
lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán và những nhiệm
vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
- Xây dựng, trình Bộ trưởng Bộ Tài chính các văn bản quy phạm pháp luật

về chứng khoán và thị trường chứng khoán; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài
hạn, năm năm, hàng năm về chứng khoán, thị trường chứng khoán;
- Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định theo thẩm quyền hoặc để Bộ
trưởng Bộ Tài chính xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ việc thành lập, đình chỉ
hoạt động hoặc giải thể Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch chứng
(*)

Xem: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 161/2004/QĐ-TTg ngày 07/09/2004 quy định chức năng, nhiệm
vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.


khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán, các tổ chức khác có liên quan đến hoạt
động chứng khoán và giao dịch chứng khoán;
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch về chứng khoán, thị trường chứng khoán sau khi được phê duyệt;
- Ban hành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm chuyên môn nghiệp vụ, định mức
kinh tế - kỹ thuật để áp dụng trong các tổ chức, đơn vị trực thuộc theo quy định của
pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Cấp, gia hạn, đình chỉ hoặc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký phát hành,
đăng ký giao dịch, giấy phép niêm yết, giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề
kinh doanh và dịch vụ chứng khoán theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức, quản lý Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch chứng
khoán và các thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức, trung tâm lưu ký, đăng
ký, thanh toán bù trừ chứng khoán;
- Quản lý việc thực hiện các quy định về chứng khoán và thị trường chứng
khoán đối với các tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức niêm yết
chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán và tổ chức phụ trợ theo quy định
của pháp luật;
- Thanh tra, kiểm tra và giám sát các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động tại
thị trường chứng khoán và xử lý các vi phạm về chứng khoán và thị trường chứng

khoán theo quy định của pháp luật;
- Hướng dẫn, tạo điều kiện cho các tổ chức hiệp hội chứng khoán thực hiện
mục đích, tôn chỉ và Điều lệ hoạt động của hiệp hội; kiểm tra việc thực hiện các
quy định của Nhà nước, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý các vi phạm pháp luật của hiệp hội chứng khoán theo quy định của pháp luật và
phân công của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Thực hiện chế độ báo cáo về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo
quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Thực hiện hợp tác quốc tế về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy
định của pháp luật và phân công của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Thực hiện cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chương trình cải
cách hành chính của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được Bộ trưởng Bộ Tài chính
phê duyệt;


×