Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Tiểu luận khoáng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.35 MB, 109 trang )

Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 1

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

MỤC LỤC
Mở đầu ……………………………………………......................................... 3
Bản đồ các đơn vị kiến tạo của Việt Nam …………………………………….. 5
Phần A – Khoáng sản kim loại
Phần I: Khoáng sản Sắt …………………………………………………… 6
Mở đầu ………………………………………………………………………. 6
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu và cơ sở lý luận …………………………….. 7
Chương 2: Phân loại các kiểu nguồn gốc của mỏ sắt trên thế giới và Việt
Nam…………………………………………………………………………… 11
Chương 3: Đặc điểm các kiểu nguồn gốc mỏ sắtđiển hình ở việt nam............ 21
Kết Luận ........................................................................................................... 26
Phần II: Khoáng sản Chì - Kẽm …………………………………………… 27
Mở đầu ………………………………………………………………………. 27
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu và cơ sở lý luận ……………………………. 28


Chương 2: Phân loại các kiểu nguồn gốc của mỏ Chì - Kẽm trên thế giới và Việt
Nam……………………………………………………………………… 35
Chương 3:Đặc điểm các kiểu nguồn gốc mỏ Chì - Kẽm điển hình ở việt nam 45
Kết Luận .......................................................................................................... 58
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 2

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Phần III: Khoáng sản Titan ……………………………………………….. 59
Mở đầu ………………………………………………………………………. 59
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu và cơ sở lý luận ……………………………. 60
Chương 2: Phân loại các kiểu nguồn gốc của mỏ Titan trên thế giới và
Việt Nam……………………………………………………………………… 63
Chương 3: Đặc điểm các kiểu nguồn gốc mỏ Titan điển hình ở việt nam ....... 64
Kết Luận ........................................................................................................... 77
Phần B – Khoáng sản không kim loại
Khoáng sản Felspat …………………………………………………………. 78
Mở đầu ………………………………………………………………………. 78
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu và cơ sở lý luận ……………………………. 79
Chương 2: Phân loại các kiểu nguồn gốc của mỏ Felspat trên thế giới và Việt Nam
………………………………………………………………………….. 89
Chương 3: Đặc điểm các kiểu nguồn gốc mỏ Felspat điển hình ở việt nam..... 90
Kết Luận ......................................................................................................... 102

Kết Luận Chung ............................................................................................ 103
Tài liệu tham khảo ………………………………………………………… 104

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 3

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

MỞ ĐẦU
Tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam rất đa dạng về chủng loại và nguồn gốc.
Các công trình nghiên cứu, điều tra, đánh giá và thăm dò koáng sản đã ghi nhận ở
nước ta, không tính vật liệu xây dựng thông thường, có mặt 51 khoáng sản khác
nhau. Chúng đượch xếp vào 2 nhóm chính: nhóm khoáng sản kim loại và nhóm
khoáng sản không kim loại.
Theo Tổng cục Địa chất, Bộ Tài nguyên và Môi trường, qua điều tra cơ bản,
thăm dò và phát hiện mới, hiện nay Việt Nam đang có trên 5.000 điểm khoáng sản
và mỏ, trong đó một số loại khoáng sản được đánh giá là có trữ lượng và tài nguyên
dự báo lớn như: dầu-khí (1,2-1,7 tỷ m3, than (240 tỷ tấn), titan (600 triệu tấn khoáng
vật nặng), bôxít (10 tỷ tấn), đất hiếm (11 triệu tấn)…và một số loại khoáng sản khác.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, khoáng sản nói
chung được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau. Chính vì vậy nhu cầu
khoáng sản càng trở nên cấp thiết. Để đáp ứng nguyên liệu cho nghành công
nghiệp sử dụng các khoáng sản kim loại, phi kim loại trong nước và xuất khẩu thì
việc nghiên cứu đánh giá đặc điểm thành phần vật chất, quặng hóa của tầng khu

vực là một khâu quan trọng phục vụ cho việc tìm kiếm, thăm dò khai thác và sử
dụng các loại khoáng sản này.
Xuất phát từ thực tế đó, đồng thời để sinh viên tiếp cận làm quen với nghề
nghiệp và khả năng kết hợp giữa lý thuyết và thực tế công việc nói chung. Em đã
được thầy: PGS.TS. Nguyễn Quang Luật giao vào trong tay viết tiểu luận tìm
hiểu về các khoáng sản.
Khoáng sản kim loại : Sắt, Chì - Kẽm, Titan
Khoáng sản phi kim loại: Felspat.
Nội dung tiểu luận gồm 4 phần và mỗi phần gồm 3 chương:
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 4

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Phần 1: Khoáng sản Sắt
Phần 2: Khoáng sản Chì - Kẽm
Phần 3: Khoáng sản Titan
Phần 4: Khoáng sản Felspat
Chương I: Lịch sử nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chương II: Phân loai các kiểu nguồn gốc của mỏ khoáng sản ở Việt nam và
trên Thế giới
Chương III: Đặc điểm các kiểu nguồn gốc mỏ khoáng sản điển hình ở Việt
nam.
Sau những ngày làm việc khuẩn trương, với sự cố giắng nỗ lực của bản thân,

đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Quang Luật, cùng các
thầy cô giáo trong bộ môn khoáng sản đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận đúng
yêu cầu.
Trong quá trình làm tiểu luận do thời gian có hạn, trình độ kiến thức còn
nhiều hạn chế nên bài tiểu luận của tôi không tránh khỏi những sai sót. Em rất
mong nhận được sự chỉ bảo góp ý của thầy và các bạn để em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Quang Luật, cùng các
thầy cô giáo trong bộ môn khoáng sản đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Phạm Văn Toàn

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 5

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 6

Bộ môn khoáng sản

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54



Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

A.KHOÁNG SẢN KIM LOẠI
Phần I: Khoáng sản SẮT
***
Mở Đầu
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, khoáng sản kim
loại nói chung và sắt nói riêng được sử dụng ngày càng nhiều trong các lĩnh vực
công nghiệp khác nhau. Sắt là 1 kim loại quan trọng. Theo F.Anghen : sắt là một
dạng nguyên liệu hang đầu ,giữ vai trò cách mạng trong lịch sử .Theo V.Lênin : Sắt
là một trong những sản phẩm chính của của công nghiệp hiện đại là một trong những
sản phẩm chính của công nghiệp hiện đại và là một trong những cơ sở của nền văn
minh. Sắt là kim loại được sử dụng nhiều nhất, chiếm khoảng 95% tổng khối lượng
kim loại sản xuất trên toàn thế giới. Chính vì vậy nhu cầu về kim loại sắt càng trở
nên cấp thiết. Để đáp ứng nguyên liệu cho ngành công nghiệp sử dụng sắt trong nước
và xuất khẩu thì việc nghiên cứu đánh giá đặc điểm thành phần vật chất, quặng hóa
sắt của từng khu vực là một khâu quan trọng phục vụ cho việc tìm kiếm, thăm dò
khai thác và sử dụng loại khoáng sản này.
Sau đây chúng ta sẽ đi nghiên cứu về thành phần, đặc điểm địa hóa, các kiểu
nguồn gốc trên thế giới và các kiểu nguồn gốc mỏ Sắt điểm hình ở Việt Nam.

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 7

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54



Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Lịch sử nghiên cứu địa chất khoáng sản
Khái quát về lịch sử nghiên cứu sắt trên thế giới
Sắt được sử dụng khoảng 4000 – 3000 năm trước công nguyên, thời kỳ ấy

con người biết lượm lặt các mảnh thiên thạch để làm đồ trang sức, dụng cụ lao
động và săn bắn. Trong thời gian đó các chế phẩm được đánh giá quý như vàng.
Những công vụ bằng sắt xuất hiện đầu tiên vào khoảng 2000 năm trước công
nguyên ở Ai cập, sau đó ở Ấn độ và Trung quốc. Từ thế kỷ XI-VIII trước công
nguyên sắt đẫ được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước và thời đại đồ sắt bắt đầu thay
thế đồ đồng. Thời ấy con người đã biết luyện thép, nhưng sau công nguyên thép
mới được sử dụng vào việc chế tạo dụng cụ sản xuất và lĩnh vực quân sự.
Lò cao nấu gang bằng than củi xuất hiện đầu tiên ở Châu âu vào giữa thế kỷ
XIV. Năm 1735, lò cao nấu gang bằng than cốc đầu tiên ra đời đánh dấu kỷ nguyên
ngành luyện kim hiện đại. Vào thế kỷ XVIII, than cốc được sử dụng để luyện gang,
luyện thép. Công nghiệp luyện thép phát triển mạnh từ giữa thế kỷ XIX, sau khi
xuất hiện một số lò nấu thép: lò bexmer 1856, lò martin 1863.
Bước sang thể kỷ XX, công nghiệp luyện kim đen phát triển mạnh, nhất là sản
xuất các laoij thép hợp kim và thép đặc biệt trong lò điện, lò hồ quang, v..v... để chế
tạo nhiều loại máy móc, thiết bị cho công nghiệp nặng, dân dụng và quốc phòng.
Khái quát về lịch sử nghiên cứu sắt ở Việt Nam
Từ năm 1964 đến nay Việt Nam đã khai thác khoảng 8-10 triệu tấn quặng
sắt, thu được gần 7 triệu tấn tinh quặng. Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên

đang phấn đấu khai thác và tuyển 192.000 tấn quặng sắt (2009). Sản lượng khai
thác hàng năm của Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên mấy năm gần đây
như sau (tấn): 368.374 (2005); 346.828 (2006); 351.149 (2007); 417.072 (2008).
Năng lực khai thác quặng sắt của công ty có thể đạt tới 500.000 tấn quặng/năm.
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 8

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Đến năm 2010, công suất khai thác của Việt Nam phải đạt 9 triệu tấn quặng
sắt/năm; 2011-2015: 14-15 triệu tấn/năm và 2016-2020:15-16 triệu tấn/năm.
Hiện nay, Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên có công suất 550.000 tấn
thép/năm. Một số nhà máy cán thép liên doanh với nước ngoài cũng đã đi vào
hoạt động (Việt-Hàn, Việt-Úc, Việt-Ý) với công suất đến năm 2010 là 8 triệu tấn
thép/năm. Việt Nam sản xuất 7-8 triệu tấn thép/năm, chủ yếu là nguyên liệu sắt
thép phế liệu nhập ngoại (80%), và 20% từ quặng sắt khai thác trong nước. Tính
đến thời điểm năm 2009, có rất nhiều dự án xây dựng các nhà máy liên hợp luyện
thép rất lớn cả về quy mô công suát và tổng vốn đầu tư.
Công ty TNHH Khoáng sản và Luyện kim Việt-Trung (Liên doanh giữa Tổng
công ty Thép Việt Nam và tập đoàn Gang thép Côn Gang, Trung Quốc) sẽ khai thác
1,5-3 triệu tấn quặng sắt/năm mỏ Quý Xa, trong vòng 40-50 năm. Trên cơ sở
nguyên liệu quặng sắt mỏ Quý Xa sẽ xây dựng và vận hành nhà máy gang thép tại
khu công nghiệp Thị trấn Tằng Loỏng (huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai) vào năm
2015 dây chuyền cán thép công suất 500.000 tấn/năm.

Công ty Cổ phần sắt Thạch Khê (TIC) với vốn điền lệ 2.400 tỷ đồng đã làm lễ
động thổ, mở vỉa mỏ Thạch Khê (8/9/2009). Dự án sẽ khai thác 10 triệu tấn
quặng/năm, vốn đầu tư hơn 650 triệu đô la Mỹ. Nhiều dự án nhà máy sản xuấ
thép đã và đang ra đời: Nhà máy liên hợp thép Tycoon 100% vốn của Đài Loan 3
tỷ đô la Mỹ, công suất dự kiến 5 triệu tấn/năm tại Dung Quất (Quảng Ngãi); dự án
Nhà máy liên hợp Thép Formosa-Sunco 100% vốn của Đài Loan tại Vũng Áng (Hà
Tĩnh) có công suất dự kiến 15 triệu tấn/năm, tổng vốn đầu tư 7,8 tỷ đô la Mỹ (cấp
phép 11/2008); dự án liên hợp Thép Liên doanh Việt Nam-Ấn Độ công suất dự
kiến 4,5-5 triệu tấn thép/năm trên cơ sở nguyên liệu quặng sắt mỏ Thạch Khê; dự
án liên hợp Thép 100% vốn của Tập đoàn Thép Posco (hàn Quốc) đặt ở Vân Phong
(Khánh Hòa) công suất dự kiến giai đoạn I là 4 triệu tấn/năm; dự án Liên hợp
Thép Liên doanh Việt Nam –Malaysia tại Ninh Thuận, công suất dự kiến 4,5 triệu
tấn thép/năm.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Nhưng hiểu biết về khoáng sản sắt
Sắt là nguyên tố thuộc nhóm VIII trong bảng tuần hoàn Mendeleev D.I, có số
thứ tự 26, khối lượng nguyên tử 55, 84. Sắt có nhiệt độ nóng chẩy 1535 oC, nhiệt độ
sôi 2880 oC và tỷ trọng 7,2. Sắt kim loai có màu xám trắng, ánh bạc, dẻo và rèn
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 9

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

được. Sắt dễ dàng bị biến dạng dẻo ở trạng thái nóng và lạnh. Sắt tác dụng với

hydro,oxy, lưu huỳnh, carbon, photpho và nitơ.
Khi hóa hợp với hydro, độ cứng ,giới hạn bền và giới hạn đàn hồi của sắt đều
tăng lên. Khi hóa hợp với oxy độ dòn và độ cứng của sắt tăng lên, nhưng độ dẻo và
giới hạn đàn hồi của sắt lại giảm xuống. Khả năng kết hợp với nito làm cho độ bền
của các chi tiết bằng thép đối với sự ăn mòn, tăng độ cứng, độ chịu mòn và sức
chống mỏi. Nhờ tác dụng giữa sắt với carbon để tạo ra gang thép. Lưu huỳnh và
phốt pho làm cho sắt bị giòn, dễ gãy và do đó chúng là tạp chất không có lợi. Các
tạp chất khác của sắt là Sn, As, Pb, Zn, vv
Từ quặng sắt , sẽ luyện được gang (2,5 – 4%C), thép (1,7- 0,2%C) và sắt (0,20,04%C). Để sản xuất thép có chất lượng cao ( như thép hợp kim, thép hợp kim
đặc biệt) cần cho thêm Mn, Cr, V, Ni, Co, W, vào các loại thép thường rồi luyện lại
để chế tạo nhiều loại máy móc, thiết bị của ngành công nghiệp nặng. Các nguyên
tố bổ sung làm cho thép có độ dẻo, độ cứng, độ chống mòn, độ chịu nhiệt và nhiều
tính chất quý khác tăng lên.
1.2.2. Đặc điểm địa hóa và khoáng vật học của sắt
 Đặc điểm địa hóa
Trong tự nhiên rất hiếm gặp sắt (Fe) tự sinh, chủ yếu là các khoáng vật chứa
sắt hóa trị 2 với bán kính ion 0,74A o hoặc hóa trị ba Fe+3 với bán kính ion 0,64Ao .
Sắt có khả năng thay thế đồng hình bởi Mg, Ni, Mn, Zn, vv. Các hợp chất sắt hóa tri
ba bền vững trong điều kiện ngoại sinh. Càng đi sâu vào lòng đất, trị số clac cảu
sắt càng cao và các hợp chất sulfua thay thế các hợp chất oxit. Sắt vừa là nguyên
tố ưa đá vừa là nguyên tố ưa lưu huỳnh.
Sắt có mặt trong các mô động vật, thực vật, trong các lớp thổ nhưỡng, đặc
biệt trong các hợp chất oxyt, alumosilicat và trong các thiên thạch. Sau nhôm sắt
là nguyên tố kim loại phổ biến nhất trong vỏ trái đất với trị số Clark 4,65%. Hàm
lượng trung bình của sắt trong đá siêu bazơ 9,85%, trong đá trung tính 5,85%
trong đá axit 2,7% và trong đá trầm tích 3,33%.
 Thành phần khoáng vật
Trong tự nhiên có khoảng 500 khoáng vật chứa sắt, chủ yếu dưới dạng oxyt,
hydroxyt, alumosilicat, trong đó khoảng 300 khoáng vật điển hình của sắt. Tuy
SV: Phạm Văn Toàn


Trang 10

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

nhiên trong số các khoáng vật của sắt, quan trọng nhất và có giá tri kinh tế nhất
( thường gọi là có giá trị công nghiệp) là các khoáng vật sau đây.
Magnetit- Fe3O4 chứa 72,4% Fe. Các biến thể của nó là titano-magnetit,
magie-magnetit và magano-magnetit là quặng sắt tổng hợp.
Hematit- Fe2O3 chứa 70% Fe. Hematit không bền vững, có từ tính mạnh gọi
là Magetit, Hematit có dạng tấm lớn là specularit, dạng vảy nhỏ gọi là mica sắt.
Hematit giả hình mangetit gọi là martit.
Hydrohematit là hematit ẩn tinh, dạng keo chứa nước và các tạp chất cơ học
(SiO2 và Al2O3). Goethit- HfeO2 chứa 62,9% Fe.
Turit là hỗn hợp của Goethit và hydrohematit. Hỗn hợp tự nhiên các khoáng
vật ẩn tinh goethit, hydrogoethit, vật liệu sét và silic thường gọi là quặng sắt nâu
hay quặng limonit.
Siderit- FeCO3 chứa 48,3%Fe. Ngoài ra còn có các khoáng vật silicat sắt dưới
dạng chlorit sắt nhưng ít có giá trị công nghiệp.
1.2.3 Kinh tế nguyên liệu khoáng
Tùy thuộc vào con số về số lượng trữ lượng- tài nguyên trong một mỏ, người ta
phân loại mỏ quy mô như sau: mỏ khổng lồ, mỏ lớn, mỏ vừa và mỏ nhỏ.
Quy mô
mỏ (tấn)


V.I.Krasninik,1

G.A.Gross,

960 (Nga)

1966
(Canada)

Khổng lồ

n x 1010

Lớn

n x 109

Vừa/Trun

n x 108

n x 107

> 1x109

Meloux,
1977 (Pháp)

Cục ĐC&KS VN,
1986


> 2x109

> 107

2x109- 5x108

10x107- 5x106

1x109 - 1x107

5x108 - 5x107

5x106 – 2x106

< 1x107

5x107 - 5x106

< 2x106

g bình
Nhỏ

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 11

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54



Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

CHƯƠNG 2
PHÂN LOẠI CÁC KIỂU NGUỒN GỐC CỦA MỎ SẮT
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Quặng hóa sắt phân bố rất rộng rãi và có nhiều loại hình nguồn gốc .Các
mỏ sắt được thành tạo trong những loạt mỏ nội sinh,ngoại sinh và biến chất bao
gồm các loại: 1.mỏ macma; 2.mỏ cacbonatit; 3.mỏ skarn; 4.mỏ nhiệt dịch; 5.mỏ
trầm tích phun trào; 6.mỏ trầm tích; 7.mỏ biến chất ; 8.mỏ phong hóa. Trong đó
quan trọng nhất là mỏ biến chất, trầm tích và skarn.
2.1. Phân loại các kiểu nguồn gốc của quặng sắt trên thế giới.
2.1.1. Mỏ bị biến chất
Kiểu mỏ bị biến chất chiếm phần lớn tài nguyên-trữ lượng và sản lượng
khai thác quặng sắt trên thế giới. Đây là nguồn nguyên liệu rất quan trọng đối với
các nước Oxtraylia, Mỹ, Brazin, Canada, Nga, Ucraina, Trung Quốc, Ấn Độ…
Trước đây, các nhà địa chất cho rằng chúng được thành tạo trong các bồn
trầm tích, bồn trũng “địa máng” rồi sau đó bị biến chất. Hiện nay, theo Sinh
khoáng kiến tạo mảng và Địa kiến tạo toàn cầu và sinh khoáng cho rằng: Các mỏ
này được hình thành trong môi trường rift, sau đó bị biến chất.
Liên hệ trên thế giới
Các mỏ điển hình gồm: Krivoirog (Ucraina); Dị thường Kursk, viết tắt là
KMA (Nga); Hamersley (Australia/Úc); Hồ Thượng (Mỹ); Bihar-Orisa (Ấn Độ);
Minas (Brazin);…
Mỏ Krivoirog bắt đầu được khai thác từ năm 1955, nằm trong hệ tầng đá
phiến kết tinh cổ và đá granit, migmatit tuổi AR bị vò nhàu uốn nếp tạo thành một
hệ phức nếp lõm lớn và bị đứt gãy chia cắt phức tạp. Các vỉa có góc dốc 30-70 o.
Quarzit sắt hay jaspilit là những lớp rất mỏng xen kẽ giữa các lớp không quặng và

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 12

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

lớp quặng, chiều dày 1-5mm. Các lớp mỏng quặng có thành phần chủ yếu gồm
martit, magnetit, hematit, hydrohematit- limolit và một ít thạch anh, chlorit
amphibol. Các lớp mỏng không quặng có thành phần chủ yếu thạch anh hạt mịn,
có chứa xâm tán martit hoặc magnetit. Hàm lượng sắt trong các lớp chứa quặng
dạo động từ 25 đến 45%. Trong các lớp chứa quặng, có những vỉa quặng sắt giàu,
đặc sít chiếm đến 80% trữ lượng của mỏ. Chiều dài vỉa theo đường phương từ
100-500 đến 1000m, chiều dày dao động từ 10-30 đến 100m, duy trì đến độ sâu
600-800m, đôi khi đạt 1400m. Quặng đặc sít có cấu tạo phân phiến, phân dải đặc
trưng. TPKV chính là hematit, đôi khi với martit-hematit. Hàm lượng các thành
phần quặng sắt giàu như sau (%): 46-68%Fe; 0,05%S; 0,02-0,09%P; 0,45%Mn; và
<14%SiO2. Tổng tài nguyên-trử lượng mỏ Krivoirog 19 tỷ tấn quặng, trong đó
quặng giàu đã thăm dò đạt hơn 2 tỷ tấn với hàm lượng sắt trong quặng giàu 4668%; khai thác hầm lò tới độ sâu hơn 500-700m và tiếp tục tới 1000-2000m.
Mỏ sắt Hamersley phân bố trong các hệ tầng đá phiến lục kết tinh bị uốn
nếp, có tài nguyên 10 tỷ tấn sắt với hàm lượng 22,5-30% Fe. Quặng có giá trị kinh
tế ở hiện tại với tối thiểu gần 55%Fe dao động trong khoảng 15 đến 19,5 tỷ tấn.
Khoáng vật quặng có thành phần chủ yếu gồm martit, magnetit, hematit,
hydrohematit. Khoang vật phi quặng amphibol, pyroxen, calcit, clorit.
Vùng mỏ dị thường KMA với diện tích hơn 120000km 2 đã thăm dò các mỏ
giàu sắt: Jacolev, Gostise, Khokholov, Mikhailov và Lebedi. Hàm lượng sắt trong

quặng sắt giàu như sau: 48-69%; S, P và SiO 2 thấp ở mức cho phép. Trong quarzit
sắt, hàm lượng sắt dao động từ 26-46%, trung bình 32-33%. Tổng tài nguyên-trữ
lượng vùng mỏ dị thường KMA đạt tới 26 tỷ tấn quặng trung bình-giàu. Tổng tài
nguyên dự báo quarzit sắt từ mặt đá kết tinh Tiền Cambri đến độ sâu 300m xấp xỉ
9000 tỷ tấn.
2.1.2 Mỏ phong hóa
Mỏ sắt phong hóa được thành tạo do kết quả của quá trình oxy hóa các mỏ
gốc như: magnetit, hematite, siderite, sulfua chứa sắt (pyrite, pyrotin) và các đá
siêu mafic giàu sắt. Sự thành tạo các đới oxy hóa liên quan chặt chẽ với các thời kỳ
phong hóa cổ và phong hóa hiện đại. Các kiểu quặng đặc trưng cho mỏ phong hóa
từ sulfua chứa sắt là hydrogoethit-goethit (quặng sắt nâu); hydrogoethit-martit.
Quặng siderite trong đới oxy hóa chuyển thành hỗn hợp các khoáng vật hydroxit
sắt (hydrogoethit-goethit, hydro-hematit, turit) có chứa một ít khoáng vật calcite;
các khoáng vật thứ yếu có psilomelan và pyroluzit; hiếm gặp hơn là các khoáng
vật aragonite, thạch cao, marcarit, malachite, azurit, cuprit, đồng tự sinh đôi khi
có scorodit.
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 13

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Liên hệ trên thế giới
Kiểu mỏ sắt phong hóa rất quan trọng đối với Australia, Mỹ, Brazin, Canada,
Nga, Ucraina, Trung Quốc, ẤN Độ, Việt Nam. Chúng phát triển ở phần trên của các

thân quặng sắt của các mỏ trầm tích bị biến chất nổi tiếng như Krivoirog
(Ucraina), Dị thường Kursk,viết tắt là KMA (Nga), Hamersley (Australia), Hồ
Thượng (Mỹ), Brazin, Bihar-Orisa (Ấn Độ).
2.1.3 Mỏ trầm tích
Kiểu mỏ sắt trầm tích khá phổ biến và có giá trị công nghiệp. Chúng có quy
mô lớn, cung cấp 30% sản lượng khai thác quặng sắt cho thế giới (chỉ đứng sau
nhóm mỏ nguồn gốc biến chất). Mỏ sắt trầm tích được thành tạo tong nhiều thời
đại địa chất khác nhau: Proterozoi ở Nga, Nam Phi; Silur ở Mỹ (Clinton Apalach),
Mali (Châu Phi), và Bắc Úc (Australia); Jura ở Pháp, Đức Bỉ. Mỏ sắt trầm tích
được thành tạo tong các bồn địa biển hoặc hồ, từ các hợp chất keo sắt được nước
trên mặt mang tới và lắng đọng ở đới ven bờ. Tùy thuộc vào thế năng oxy hóa khử
(Eh), độ axit hoặc kiềm (pH) của môi trường và nồng độ CO 2 ở đáy bồn địa sẽ lắng
đọng quặng sắt oxy (limonit, goethite, hematite); silicat (samozit, turingit) hoặc
quặng sắt carbonat (siderite). Cấu tạo đặc trưng của quặng sắt nguồn gốc trầm
tích là trứng cá, hạt đậu hoặc dạng thân. Căn cứ vào vị trí và cơ chế thành tạo
người ta chia mỏ sắt trầm tích ra hai loại: mỏ trầm tích biển và mỏ trầm tích lục
địa.
Liên hệ trên thế giới
Điển hình cho kiểu mỏ sắt trầm tích là mỏ Loranh có diện tích 1100km 2 chủ
yếu phân bố ở Pháp và một phần ở Đức, Bỉ, Lucxambua. Quặng hóa nằm trong
tầng carbonat cát kết dày 10-60m. Vùng mỏ có 4-12 thân quặng dạng vỉa, mỗi vỉa
dày từ 1-6m nằm xen kẽ với các lớp phi quặng cũng có độ dày tương tự. Tầng
chứa quặng cắm thoải về phía tây, các lỗ khoan đã đạt tới chiều sâu 800m. Vùng
mỏ vừa khai thác lộ thiên, vừa khai thác hầm lò, các lò đã khai thác tới độ sâu
200m. Khoáng vật quặng gồm goethite, samozit, turingit, siderite. Quặng có cấu
tạo trứng cá rất điển hình (kích thước 0,25-1mm). Hàm lượng sắt trung bình 3136%; P: 0,6-1,8%; Mn: 0,5-2%; S: 0,01-0,4%; V 0,1%. Quặng dùng để luyện trong lò
Tomat. Tổng tài nguyên-trữ lượng của mỏ là 15 tỷ tấn quặng, trong đó trữ lượng
đã thăm dò là 2 tỷ tấn. Tuy nhiên, mỏ đã ngừng hoạt động từ năm 2002 do hiệu
quả kinh tế thấp.


SV: Phạm Văn Toàn

Trang 14

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Mỏ Kerchen (Ucraina) được phát hiện vào năm 30 của thế kỷ XX là một mỏ
sắt nổi tiếng với tài nguyên-trữ lượng gần 1,8 tỷ tấn quặng. Các mỏ trầm tích sắt
khá điển hình gặp ở Liên Bang Nga với quặng siderir dạng vỉa lắng đọng trong
tầm tích lục nguyên carbonat biển, xuât hiện ở sườn nam Uản trong nếp lồi cổ
Hersini. Chúng nằm trong các đá trầm tích phiến carbonat tuổi Proterozoi. Mỏ
điển hình và lớn nhất là mỏ Baican (Nga). Nhóm mỏ Baican có hơn 200 thân
quặng dnagj vỉa, thấu kính, dạng mạch và dạng ổ. Trong các vỉa siderite còn chứa
các thể sót dolomite và có biểu hiện khoáng hóa sulfua nên một số nhà địa chất
cho rằng đó là mỏ nhiệt dịch. Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu đều
cho là trầm tích và chỉ ra mối liên quan cơ bản với quá trình lắng đọng nhiệt dịch
muộn hơn. Các mỏ sắt quặng hematit trầm tích biển phân bố trong các thành tạo
lục nguyên carbonat vùng Angara Bitsco ở bờ phải hạ nguồn sông Angara Liên
Bang Nga. Thân quặng phân bố trong thành hệ trầm tích Proterozoi muộn. Thành
phần khoáng vật quặng gồm hydrogoethit, hematit, samozit hoặc siderite. Quặng
siderite-samozit ở các bồn trầm tích lục địa có cấu tạo hạt đậu và trứng cá phân
bố trong trầm tích lục nguyên carbonat tuổi Mezozoi-Kainozoi thuộc bể quặng sắt
Kechan, Tây Xiberi (Liên Bang Nga).
Mỏ trầm tích lục địa được thành tạo ở các hồ, đầm lầy, tam giác châu, các
thung lũng sông và vũng vịnh. Loại mỏ này thành tạo do sự kết đọng của các hợp

chất keo mang từ lục địa tới, có sự tham gia của axit mùn cây (humit) cùng với tác
động của các vi khuẩn và rong tảo. Tuổi thành tạo của các laoij mỏ này khá trẻ,
tuổi từ J đến Q. Quặng thuộc kiểu siderit-samozit-hydrogoethit. Các vỉa quặng kéo
dài khoảng 10km dọc theo lòng sông cổ. Thân quặng có dạng thấu kính, ôvan và
nhiều hình dạng khác nhau. Quặng có cấu tạo trứng cá và hạt đậu. Khoáng vật
chủ yếu gồm : hydrogoethit, samozit, siderit, ngoài ra còn có thạch anh, calcit,
ankerit, nhóm khoáng vật sét, hiếm hơn là pyrit, marcazit, thạch cao, và hydroxyt
mangan. Hàm lượng sét trong quặng thấp 30-35%, hàm lượng P cao, gần 50%.
Mỏ trầm tích phun trào của sắt của sắt liên quan chặt chẽ với các thành hệ
đá phun trào và trầm tích phun trào thể hiện ở một loại dấu hiệu về thế nằm của
các vỉa quặng trong các tuf và tufit, sự có mặt các lớp kẹp và thấu kính đá phun
trào ngay trong vỉa quặng cũng như sự có mặt của các mảnh nhỏ vụn núi lửa
trong thành phần quặng. Điển hình cho loại thành tạo này là mỏ Khojunsco và một
loạt thành tạo khác gặp ở mỏ Tây Karajan (Atasui Liên Xô cũ). Ở đây, đá vây
quanh, các thấu kính quặng và vỉa quặng có sự chuyển tiếp từ đá vôi đến carbonat
silic, đá ngọc bích và argilit, đá lót thân quặng là những lớp đá dày của thành hệ
trầm tích – phun trào. Các vỉa quặng và thấu kính quặng bị biến dạng uốn nếp và
biến vị đứt gãy với biên độ lớn. Thân quặng nằm khớp đều với đá vây quanh trong
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 15

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

uốn nếp của cấu trúc trường quặng. Phần lớn mỏ Khojunsco bị xâm nhập granitoit

xuyên qua. Kết quả đó đã tạo nên những vỉa quặng biến chất tiếp xúc nhiệt dịch
trao đổi thay thế và xuất hiện những thân quặng scacnơ magnetit. Thành phần
khoáng vật chủ yếu là hematit, thứ yếu là magnetit và siderit. Ngoài ra còn gặp
pyrit, arsenpyrit, chalcopyrit, sfalerit và galenit. Các khoáng vật phi quặng gồm
clorit, sericit, thạch anh, chacedon, opan, dolomit, ankerit, apatit. Ở đới oxy hóa
yếu thường gặp martit, goethit, hydrogoethit. Giá trị công nghiệp của nhóm mỏ
trầm tích phun trào không lớn.
2.1.4 Mỏ skarn
Kiểu mỏ sắt skarn là những mỏ, hoặc tập hợp các mỏ và điểm quặng sắt
được thành tạo ở lân cận tiếp xúc của khối xâm nhập granitoit với các đá trầm
tích carbonat hoặc lục nguyên –carbonat, có sự tham gia của dung dich hậu
magma. Các mỏ này thường phát triển ở rìa lục địa hoặc cung đảo, nơi có hoạt
động magma mạnh mẽ. Thân quặng chủ yếu tập trung trong đới ngoại tiếp xúc, cá
biệt đôi khi trong đới nội tiếp xúc; có dạng thấu kính, thấu kính phức tạp, vỉa hay
dạng thay thế trao đổi với kích thước khác nhau. Khoáng vật quặng chủ yếu là
magnetit, ít hematit, goethit , đôi chỗ là chalcopyrite, pyrite, galenit, sfalerit. Hàm
lượng sắt dao động 60-68%, có khi tới 70%.
Điển hình là các mỏ : Núi Quặng, Núi Cao và Núi Blagodat (Uran, Nga);
Sarbai, Socolov và Kachar ở tỉnh Kustanai (Kazaxtan); Mount Iron (Mỹ), Ba Nat
(Rumany), Rif (Maroc), Morning Iron (Mỹ) và Thạch Khê (Việt Nam)…
Kiểu mỏ skarn magnetit được G. Xocolov chia ra các kiểu sau: skarn vôi,
skarn magie, skarn vôi-magie, skarn scapolit-albit, magnetit và hematite-silicat
chứa nước.
Các khoáng vật của skarn vôi gồm: pyroxene, groxule, andradite, epidot,
zoizit, actinolit, vezuvian, clorit. Các khoáng vật quặng gồm magnetit, musketovit,
martit, hematite, pyrit, pyrotin, chalcopyrite, sfalerit, galenit… Các khoáng vật phi
quặng thành tạo muộn hơn gồm: các mạch thạch anh và calcite. Hàm lượng sắt
trong quặng đạt từ 20-25% đến 60-70%, trung bình 35-40%. Trong số các tạp
chất có hại, đáng kể là S:1-2%. Ngoài ra còn có một ít nguyên tố Co, Ni, As, Cu.
Quặng được làm giàu tự nhiên khi lưu huỳnh bị rửa trôi, magnetit bị martit hóa,

các sulfua bị oxy hóa.

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 16

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Kiểu skarn magie chủ yếu thường phân bố ở các cấu trúc cố kết cổ và những
vùng có các thành tạo Tiền Cambri. Các khoáng vật silicat magie đặc trưng gồm
forterit, diopxit, spinel,, flogopit, serpentin.
Điều khác biệt chủ yếu của skarn scapolit-anbit và mỏ skarn magnetit –
albit-scapolit là sự biểu hiện biến chất trao đổi mạnh mẽ natri-clo vơi scacs đá
alumosilicat của trường quặng. Tổ hợp khoáng vật của thành hệ này là scapolit,
albit, ankerit và rất nhiều zeolit. Trên thế giới kiểu quặng này khá phổ biến.
Mỏ biến chất trao đổi thay thế magnetit và hematit silicat ướt phần lớn
thường gặp trong các trường quặng skarn, nhưng hay phân bố dọc nơi tiếp xúc
của khối xâm nhập. Thành phần khoáng vật của đá biến đổi gồm: epidot, actinolit
đôi khi có albit, granat, pyroxene, clorit, zeolit, calcite và thạch anh (gần giống với
các khoáng vật biến chất trao đổi của kiểu quặng silicat ướt, nhưng nhiệt độ
thành tạo thấp hơn). Các khoáng vật chứa sắt chủ yếu là magnetit, một vài trường
hợp đặc biệt gặp hematite trong loại sắt ánh thủy tinh.
Liên hệ trên thế giới
Vùng quặng điển hình Kustanai trong đai quặng sắt Turgai dài hơn 600km,
rộng 30-80km với hơn 70 mỏ lớn nhỏ khác nhau đã được thăm dò, trong đó có 3

mỏ lớn nhất là Sarbai, Socolov và Kachar. Mỏ điển hình là Sarbai được phát hiện
từ năm 1948. Vùng mỏ được chia ra hai khu: Sarbai nằm ở phía Tây, Xocon ở phía
Đông. Chúng được phân cách bởi hệ thống đứt gãy phá hủy có phương Đông BắcTây Nam và các đá dăm tuf. Các thân quặng sắt của mỏ Sarbai nằm ở nơi tiếp xúc
giữa đá trầm tích carbonat với dăm tuf kéo dài 1000-1700m, dày 170-185m, phát
triển theo hướng dốc 1800m. Quặng xâm tán dày với hàm lượng sắt 50%, xâm tán
thưa với 20-30% Fe. Khoáng vật quặng chủ yếu là magnetit, ngoài ra gặp một ít
pyrite, pyrotin, arsenpyrit, sfalerit. Trử lượng thăm dò của mỏ đạt 1,5 tỷ tấn
quặng với hàm lượng trung bình Fe: 45%, S: 3,85%, P: 0,129%. Trong quặng
magnetit giàu, hàm lượng sắt trung bình 54,7% cao nhất tới 65-70%. Tổng tài
nguyên-trử lượng mỏ Kustanai 4 tỷ tấn quặng sắt. Mỏ được khai thác lộ thiên.
2.1.5 Mỏ magma thực sự
Mỏ sắt magma thực sự kiểu quặng titanomagnetit liên quan chặt chẽ về
không gian và thời gian với các đá gabro pyroxenit, anortozit và gabro-diabaz.
Thân quặng tập trung thành đới xâm tán, dạng mạch, dạng ổ và thấu kính.
Khoáng vật tạo quặng chủ yếu là magnetit và ilmenit, đôi khi lẫn 1 ít sulfua
(bornit, chalcopyrite), cromit và hiếm hơn là bạch kim và paladi. Quặng có kiến
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 17

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

trúc sideronit (quặng là xi măng gắn kết các khoáng vật olivin và pyroxene thnahf
tạo trước) và kiến trúc phân hủy dung dịch cứng của ilmelit trong magnetit. Hàm
lượng sắt trong quặng này cao tới 50-55%, Ti: 8-12%, V: 0,5-1%.

Liên hệ trên thế giới
Loại mỏ này gặp ở sườn đông dãy núi Uran (Liên Bang Nga), miền nam
Thụy Điển, ở Na Uy, Mỹ, Canada, Nam Phi, Ấn Độ với quy mô mỏ từ nhỏ đến lớn và
cực lớn. Tuy vậy tổng sản lượng khai thác của loại quặng này chiếm tỷ lệ không
lớn so với sản lượng quặng sát khai thác trên thế giới. Trong loại quặng này
thường chứa Vanadi có chất lượng tốt.
2.2. Phân loại các kiểu nguồn gốc của quặng sắt ở Việt nam.
Quặng sắt nguồn gốc magma mới chỉ gặp điểm quặng ở Tam kỳ (Quảng
Nam) và xã Hiếu (Kom Tum), trong các thể xâm nhập mafic nhỏ. Quặng magnetit
hàm lượng nghèo (25-45% Fe), ít ý nghĩa kinh tế.
Quặng sắt skarn tuy có số lượng tụ khoáng đã biết không nhiều nhưng lại
có tài nguyên và trữ lượng lớn nhất trong các nhóm tụ khoáng sắt, điển hình là tụ
khoáng sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh). Tụ khoáng nằm trên vùng bờ biển, dưới lớp phủ
50-120 m, phân bố trên chiều dài hơn 3000 m, rộng 450-500 m, nơi rộng nhất tới
800 m, chiều dày trung bình thân quặng khoảng 200 m. Thành phần khoáng vật
quặng chủ yếu là magnetit, một phần, ở phía đông bắc quặng bị phong hóa thành
limonit, goethit nhưng vẫn có từ tính cao. Hàm lượng Fe thay đổi trong khoảng
30-75%, trong đó quặng giàu (50-65% Fe) chiếm chủ yếu. Tổng trữ lượng và tài
nguyên cấp 121+122+333 (B+C1+C2) đã tính được khoảng 544 triệu tấn quặng
[Bùi Tất Hợp và nnk., 2007]. Tụ khoáng này đã được thăm dò, đang được khai
thác [Bùi Tất Hợp và nnk., 2007].
Ngoài tụ khoáng Thạch Khê, quặng sắt nguồn gốc skarn còn được biết ở một
vài nơi khác như Bó Lếch, Ngườm Cháng, Nà Rụa, Bản Lũng (Cao Bằng) và một
vài nơi khác.
Quặng sắt dạng mạch nhiệt dịch (nhiệt dịch-biến chất trao đổi) phân bố
rộng rãi ở các tỉnh Hà Giang (Sàng Thần, Tòng Bá), Thái Nguyên (Trại Cau). Các
tụ khoáng nguồn gốc nhiệt dịch chỉ có quy mô trung bình và nhỏ. Tụ khoáng có
quy mô lớn nhất là Sàng Thần, có tổng trữ lượng khoảng 32 triệu tấn, Tiến Bộ

SV: Phạm Văn Toàn


Trang 18

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

(Thái Nguyên) khoảng 22 triệu tấn, Trại Cau (Thái Nguyên) khoảng 11 triệu tấn,
Tòng Bá (Hà Giang) khoảng hơn 6 triệu tấn [Bùi Tất Hợp và nnk., 2007].
Quặng sắt nguồn gốc trầm tích phân bố ở các điểm quặng Tuyên Quang
(Thạch Thành, Thanh Hóa), Khe Mỏ Hai (Tân Lâm, Quảng Trị). Quặng phân bố
trong các hệ tầng Yên Duyệt và Cam Lộ tuổi Pecmi muộn. quặng có chất lượng
thấp, quy mô không đsngs kể.
Tụ khoáng quặng sắt kiểu quarzit sắt (trầm tích – biến chất) phổ biến
trên diện tích phát triển các thành tạo biến chất trên lãnh thổ các tỉnh Yên Bái,
Phú Thọ thuộc địa khu Hoàng Liên Sơn. Vùng quặng sắt điển hình là Làng MỵHưng Khánh (Yên Bái) và Thanh Sơn (Phú Thọ), trong đó vùng quặng sắt Làng
Mỵ-Hưng Khánh đã được điều tra, đánh giá còn một số tụ khoáng đã và đang
được thăm dò tính trữ lượng; Vùng quặng sắt Thanh Sơn có một số tụ khoáng
đang được thăm dò. Quặng sắt dạng vỉa, dạng thấu kính, chủ yếu chỉnh hợp với đá
vây quanh, có nơi gặp quặng dạng mạch muộn xuyên cắt các thành tạo biến chất.
Quặng phân bố chủ yếu trong các tập quarzit phân lớp, phân dải. Thành phần
khoáng vật chủ yếu gồm magnetit và hematit, khoáng vật không quặng chủ yếu là
thạch anh. Hàm lượng quặng thường nghèo, thay đổi trong khoảng 25-30% Fe.
Tổng trữ lượng và tài nguyên quặng sắt vùng Làng Mỵ-Hưng Khánh và lân cận
khoảng 76 triệu tấn quặng, vùng Thanh Sơn khoảng 30-35 triệu tấn [Bùi Tất Hợp
và nnk., 2007].
Quặng sắt nguồn gốc phong hóa phân bố gần như trong hầu khắp các

tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ, Trung Bộ. Số lượng tụ khoáng quặng sắt thuộc
nhóm này cũng chiếm ưu thế, gần 200 tụ khoáng. Quặng có thành phần khoáng
vật chủ yếu gồm limonit, goethit, được hình thành do rửa lũa, làm giàu khoáng
vật chứa sắt hoặc thấm đọng lấp đầy khe nứt. Các tụ khoáng quặng sắt nguồn gốc
phong hóa điển hình có quy mô lớn gồm tụ khoáng Quý Xa (Lào Cai) có trữ lượng
khoảng 135 triệu tấn quặng, vùng quặng Hương Sơn (Hà Tĩnh)-với tài nguyên
khoảng 6-7 triệu tấn; vùng quặng Mộ Đức (Quảng Ngãi) cói tổng tài nguyên
khoảng 8 triệu tấn [Bùi Tất Hợp và nnk., 2007].
Một kiểu quặng sắt phong hóa phổ biến, có tài nguyên rất lớn nhưng chưa
được điều tra đây đủ là quặng phong hóa laterit trên bề mặt các đá giàu khoáng
vật sắt, điển hình là trên các bề mặt phong hóa đá basalt vùng Tây Nguyên. Thành
phần khoáng vật kiểu quăng này chủ yếu là limonit, goethit và sét. Trước mắt,
quặng laterit thích hợp cho sử dụng làm phụ gia xi măng. Vấn đề lớn nhất cần giải
quyết đối với loại quặng này để có thể sử dụng cho luyện kim, là hàm lượng Al 2O3
trong quặng cao, có thể tới 10-15% gây ảnh hưởng lớn đến tiêu tốn nhiên liệu.
Quặng chưa rõ nguồn gốc bao gồm nhiều điểm quặng Limonit, quy mô
khác nhau trong đó đáng kể nhất là các mỏ Qúy Xa, Mộ Đức.
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 19

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Quặng magnetit phân bố phổ biến trong các mỏ sắt nguồn gốc Skarn như:
Thạch Khê (Hà Tĩnh), nhóm tụ khoáng Cao Bằng, nguồn gốc nhiệt dịch như Tòng

Bá – Bắc Mê (Hà Giang)… quặng thường có hàm lượng sắt cao.
Quặng limonit (sắt nâu) gồm limonit, geothit, hydrogeothit, phân bố chủ
yếu trong các tụ khoáng, điểm quặng có nguồn gốc phong hóa hoặc chưa rõ nguồn
gốc.
Hình ảnh về khoáng tướng và mẫu quặng sắt ở Việt Nam

Maghemit (Mg) Mỏ Làng Mỵ Cấu
tạo dải. Kiến trúc hạt tha hình. 40X.
Ảnh Hoàng Thị Thoa.

Quặng sắt Làng Mỵ-Yên Bái.TPKV:
manhetit, hematit. Cấu tạo dải
(quarzit sắt). Ảnh Trần Bỉnh Chư.

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 20

Manhetit hạt tự hình, nửa tự hình
cùng hematit hạt tha hình xâm
tán trong đá (100X). Mỏ Tùng Bá.
Ảnh Nguyễn QuangLuật.

Quặng sắt Tùng Bá- Hà Giang.
TPKV: hematit, magnetit, cấu tạo
dải. Ảnh Nguyễn Quang Luật.

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54



Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Quặng sắt nâu Quý Xa-Lào
Cai.TPKV:
Limonit,
goethit,
manganit. Cấu tạo đặc sít. Ảnh Trần
Bỉnh Chư.

Quặng sắt, Nà Rụa - Cao Bằng.
TPKV: hematit, magnetit, cấu tạo
đặc sít. Ảnh Nguyễn Quang Luật.

Hematit hạt định hướng kéo dài,
cấu tạo dải. Mỏ Làng Lếch, Lào Cai.
Ảnh Nguyễn Quang Luật.

Hematit hạt định hướng kéo dài,
cấu tạo dải. Mỏ Tùng Bá, Hà
Giang. Ảnh Nguyễn Quang Luật.

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 21

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54



Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM CÁC KIỂU NGUỒN GỐC MỎ SẮT
ĐIỂN HÌNH Ở VIỆT NAM
Quặng sắt ở Việt Nam đã biết khoảng 230 tụ khoáng và điểm khoáng, phân bố
tập trung chủ yếu trong các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ,
Bắc Kạn, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Có 4 kiểu nguồn gốc chính:
skarn, nhiệt dịch, biến chất và phong hóa
3.1. Mỏ Skarn (hay thường gọi mỏ scacnơ)
Tuy có số lượng tụ khoáng đã biết không nhiều nhưng lại có tài nguyên và trữ
lượng lớn nhất trong các nhóm tụ khoáng sắt, điển hình là tụ khoáng sắt Thạch
Khê (Hà Tĩnh), tụ khoáng Nà Rụa có quy mô trung bình, còn lại có quy mô nhỏ.
Phần lớn các tụ khoáng thuộc nhóm nguồn gốc này phân bố ở vùng Cao Bằng
(Bản Chang (Fe-9), mỏ sắt, Bó Lếch, Nà Rụa (Fe-17), Bản Lũng , Lũng Luông, Bản
Nùng. Tụ khoáng Thạch Khê (Fe- 68), một số điểm quặng ở Tây Thanh Hóa.

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 22

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản


Ở vùng Cao Bằng có 8 tụ khoáng với các thân quặng thường có dạng thấu kính
dài từ 550m đến gần 1050m, rộng từ hơn vài chục mét đến 250m. Ngoài quặng
gốc, trong các tụ khoáng sắt Skhản thường có các tích tụ quặng deluvi với trữ
lượng lớn. quặng thường có cấu tạo khối. Thành phần khoáng vật chủ yếu là
magnetit, ít hematit, hydrogeothit, pyrit, pyrotin, chalcopyrit…, khoáng vật phi
quặng là thạch anh, calcit, pyroxen, granat. Hàm lượng Fe cao, trung bình đạt 5570%. Ngoài ra trong quặng còn có % : Mn=0,02-0,3 ;TiO2 ít, S= 0.006-0.29;
SiO2<1-6; Pb-Zn=0,0n. quặng thuộc loại axit có chất lượng cao và ôn định.
Mỏ Thạch Khê
Mỏ Thạch Khê nằm trong phạm vi ba xã Thạch Khê, Thạch Trị và Thạch Hải thuộc
huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, cách thị xã Hà Tĩnh 7km về phía ĐB, cách cảng
nước sâu Vũng Áng 50km, có diện tích khoảng 2,6km2, dài 3,2 km theo chiều Bắc
Nam và rộng 0,8km theo chiều Đông Tây. được phát hiện qua
bay đo từ hàng không năm 1962 và bắt đầu khoan (từ cuối 1963-1966), sau đó
thăm dò sơ bộ (1975-1978) và thăm dò chi tiết (1981-1984). Toàn bộ tụ khoáng
Thạch Khê nằm ở ven biển và bị phủ bởi lớp trầm tích bở rời tuổi Đệ Tứ với chiều
dày từ 25-30m đến 100-135m, gồm cát, sét, cuội, sỏi.
Đá vây quanh là các đá trầm tích lục nguyên-carbonat tuổi Devon phân bố ở
phía tây và tây bắc được chia thành 3 tập: tập dưới chủ yếu là đá sừng hóa xen đá
vôi bị hoa hóa dày 300m; tập giữa chủ yếu là đá vôi bị hoa hóa màu trắng xám đến
phớt hồng dày 250-300m; tập trên là đá vôi hoa hóa xen đá sừng dày 500-1000m;
đá carbonat Carbon, Carbon-Permi ven biển về phía đông và lục nguyên Trias ở
phía nam. Tại gần chỗ tiếp xúc với xâm nhập granitoid thuộc phức hệ Phia Bioc,
tập trầm tích này bị skarn hóa chứa quặng. Đá biến đổi có thành phần chủ yếu là
scapolit (20-30%), chlorit (30-35%), serpentin (20-30%).

SV: Phạm Văn Toàn

Trang 23

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54



Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

Mỏ sắt Thạch Khê có hai thân quặng: Ở phía đông và đông bắc tụ khoáng gặp
thân quặng deluvi chiều dày 1,5-100m, diện tích gần 2km 2. Thành phần khoáng
vật hematit, magnetit, goethit, hydrogoethit, hydrohematit. Hàm lượng (%):
Fe=42,47; Mn=0,119; Zn=0,033; S=0,026; P=0,122. Thân quặng gốc có dạng thấu
kính phức tạp nằm trùng hoặc nằm gần trùng với mặt phân lớp của đá vây quanh
phương ĐB-TN; chiều dài hơn 3.000m, chiều rộng nhất 800m, chiều dày 13397,5m (trung bình 200m). Quặng sắt Thạch Khê thuộc loại axit,
(CaO+MgO)/SiO2+Al2O3=0,6 đối với quặng nguyên sinh và 0,12 đối với quặng oxy
hóa. Thân quặng lộ ra ở chỗ nông nhất có độ cao -14,3m và đáy thân quặng gặp ở
chỗ sâu nhất -706,4m và được chia thành 2 phần:
•Phần phía bắc quặng bị dập vỡ và oxy hóa mạnh mẽ, hình dáng thân
quặng đơn giản. Chiều rộng trung bình 450m, chiều dày trung bình 72m. Quặng
oxy hóa có thành phần khoáng vật chủ yếu là hematit (40-95%), tàn dư magnetit,
limonit (0-50%). Hàm lượng Fe trong quặng thay đổi từ hơn 30% đến hơn 60%.
•Phần phía nam thân quặng chưa bị oxy hóa, hình dáng thân quặng phức
tạp chia thành nhiều nhánh; chiều dày các nhánh từ vài chục mét đến 420m; chiều
rộng trung bình 600m. Thành phần khoáng vật quặng chủ yếu là magnetit, (5095%), rất ít pyrit, arsenopyrit, chalcozin, rutil. Khoáng vật phi quặng thường gặp
là calcit, thạch anh, scapolit, diopsit, granat, zoisit…Quặng có hàm
lượng(%):Fe=59,38; Mn=0,304; S=0,012-0,121; Zn=0,027; P=0,014. Hàm lượng S
một số nơi khá cao nhưng thường ở rìa thân quặng.
Tụ khoáng Thạch Khê có quy mô lớn, tổng tài nguyên và trữ lượng cấp
121+122+333 chung cả mỏ là 544,1 triệu tấn, trong đó quặng gốc là 488 triệu tấn.
[Trần Xuân Hưởng,1995; Trần Tất Thắng và nnk,2002]. Mặc dù tụ khoáng có quy
mô lớn, hàm lượng Fe cao, song việc khai thác sẽ rất khó khăn do điều kiện địa
chất thủy văn phức tạp.

3.2. Mỏ nguồn gốc nhiệt dịch (nhiệt dịch-biến chất trao đổi)
Mỏ sắt nguồn gốc nhiệt dịch phân bố rộng rãi ở các tỉnh Hà Giang, Thái
Nguyên ,Phú Thọ , Thanh Hóa,Yên Bái, Quảng Nam,Phú Yên,Kon Tum.Các tụ
khoáng nguồn gốc nhiệt dịch chỉ có quy mô trung bình và nhỏ.
Điển hình là mỏ Trại Cau thuộc huyện Đồng Hỷ,tỉnh Thái Nguyên. Mỏ gồm
nhiều khu(Thái Lạc,Kim Cương,Hàm Chim,Núi Quặng,Chỏm Vung).Mỏ nằm ở phía
nam nếp nồi Bồ Cu,được cấu thành từ đá lục nguyên-carbonat tuổi Devon bị các đai
mạch diaba xuyên cắt.Hiện đã đannhs giá được 22 thân quặng.các thân quặng có
dạng thấu kính,lớp,mạch,phân bố dọc các phá hủy đứt gãy theo phương á kinh
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 24

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


Tiểu luận khoáng sản Việt Nam

Bộ môn khoáng sản

tuyến.Các thân quặng kéo dài 250-800m,cắm sâu 100-250m,dày 0,5-2m. Quặng có
cấu tạo đặc sit.Thành phần khoáng vật chủ yeeuslaf magnetit,ít hematite,hiếm
pyrite,galenit,sphalerit,chalcopyrite.
Hàm
lượng(%):Fe=58,8361,79;Mn=0,32;Al2O3=3,9;Cr2O3=0,092;CaO=0,04;MgO=0,08;K2O+Na2O=0,44;V
2O5=0,02;S=0,38;0,044;As=0,02. Quặng có chất lượng tốt bảo đảm yêu cầu cho
luyện thép của khu gang thép Thái Nguyên.Mỏ Trại Cau có trữ lượng 11,4 triệu tấn
đã được khai thác trong nhiều năm ,còn tụ khoáng Tiến Bộ chủ yếu là quặng sắt nâu
hydrogeothit,geothit,hydrohematit ở đới phong hóa và siderite,magnetit là quặng ở
dưới sâu,có tài nguyên đến 22 triệu tấn chủ yếu là limonit hàm lượng Fe không cao

khoảng 40%,tính khả tuyển thấp.
3.3. Mỏ nguồn gốc biến chất
Mỏ sắt biến chất được thànnh tạo từ mỏ trầm tích sắt có tuổi trước Cambri bị
biến chất. Mỏ này thường phân bố trong các nền và khiên cổ nơi phát triển nhiều loại
đá trầm tích lục nguyên,lục nguyên-cacbonat,trầm tích phun trào. Các mỏ sắt biến
chất có quy mô lớn chiếm trên 90% trữ lượng và trên 60% sản lượng khai thác sắt
trên thế giới.
Ở Việt Nam,quặng sắt nguồn gốc biến chất khá phổ biến,tập trung thành đới dọc bờ
phải sông Hồng từ Lào Cai qua Yên Bái đến Phú Thọ .Các thành tạo đá biến chất gắn
bó chặt chẽ với các thành tạo đá biến chất ,siêu biến chất phức hệ Ca Vịnh ,các hệ
tầng Sinh Quyền,Sa Pa,Sông Chảy.Từ TB xuống ĐN,quặng sắt nguồn gốc biến chất
tập trung trong các vùng :Văn Bàn ,Văn Yên,Làng Mỵ-Hưng Khánh (Yên Bái) và
Thanh Sơn và Thanh Sơn –Thanh Thủy (Phú Thọ); ngoài ra chúng còn phân bố rải
rác ở 1 số vùng khác Quặng sắt nguồn gốc biến chất liên quan tới phức hệ Ca Vịnh
với các tầng trầm tích biến chất hoặc Neoproterozoi
Quặng sắt nguồn gốc biến chất liên quan với magma phức hệ Ca Vịnh gồm các tụ
khoáng và điểm quặng vùng Làng Mỵ-Hưng Khánh tạo thành dải kéo dài không liên
tục gần 100km, rộng 10-20km. Quặng được thành tạo trong
đá
plagiogranitogneis,plagiogranit tiền Cambri. Các thân quặng dạng vỉa ,thấu kính kéo
dài từ vài trăm mét đến 4000m,trung bình 1000-2000m;chiều dày thay đổi từ 1m đến
hơn 20m,bề dày thân quặng thay đổi theo đường phương và hướng dốc. Theo thành
phần,quặng được chia làm 2 loại:quarzit magnetit và quarzit magnetit –
amphibol.Khoáng
vật
không
quặng
chủ
yếu


thạch
anh(3070%),amphibol,pyroxene,biotit.Hàm lượng Fe trong quặng thay đổi trong khoảng:2733%,ít khi đạt đến 40%;tổng hàm lượng Al2O3 + SiO2 chiếm trên 40% đến hơn 50%
(SiO2 trung bình từ 32-45%);P,S dưới 0,1%;Pb,Zn,Cu,As dưới 0,02. Quặng sắt vùng
Làng Mỵ -Hưng Khánh có tài nguyên đánh giá được 76 trệu tấn [Bùi Tất Hợp và
nnk., 2007].
SV: Phạm Văn Toàn

Trang 25

Lớp: ĐCCT - ĐKT A.K54


×