Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Chuyên đề quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.58 KB, 19 trang )

ĐỀ TÀI

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHẢI

Người viết: Thế Thị Thùy Dương
Hồ Thị Trà Thương

Page19

Tổ Ngữ văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Quảng Trị

1


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

“Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”.
(Nguyễn Minh Châu). Bởi vậy, từ bao giờ cho đến bây giờ, dù viết đề đề tài, hướng
đến chủ đề nào, phục vụ đối tượng nào đi chăng nữa thì trung tâm của trang viết, chủ
đích của người viết vẫn chính là con người. Nhà văn, bên cạnh việc thể hiện quan
niệm về hiện thực đời sống luôn nhấn mạnh, khắc đậm quan niệm nghệ thuật về con
người.
Cuộc sống vô thường, vạn vật biến chuyển, xã hội đổi thay. Con người luôn vận
động theo các chiều kích của vũ trụ. Văn học nghệ thuật gắn kết chặt chẽ với con
người, cuộc sống. Bởi vậy, sự phản ánh về con người, quan niệm nghệ thuật về con
người cũng vận động theo thời gian, không gian. Đi sâu khám phá điều này, người
nghiên cứu có thể nhận ra những mảng màu phong phú trong bức tranh về nhân tâm,


nhận ra vô vàn những tư tưởng, quan niệm sâu sắc của các nhà văn về con người …
Trong những nhà văn hiện đại Việt Nam, Nguyễn Khải là một gương mặt tiêu
biểu. Góp mặt trong hơn nửa thế kỷ, văn tài Nguyễn Khải đã để lại một số lượng sáng
tác không nhỏ, phản ánh một thời kỳ đầy biến động của lịch sử Việt Nam. Những câu
chuyện ấy tựa hồ một bức tranh sống động và phong phú về đất nước Việt Nam từ
trong khói lửa chiến tranh cho đến những ngày hòa bình, xây dựng. Viết về những đề
tài ấy, ngòi bút của ông thường đi sâu phân tích, tái hiện lại một cách chân thực chân
dung đời sống cũng như tâm hồn, tư tưởng con người trước đổi thay của thời đại. Vậy
nên, theo chúng tôi, tìm hiểu về Nguyễn Khải, việc nhận diện quan niệm nghệ thuật về
con người sẽ góp phần đắc lực khai phá những tác phẩm của ông.
2.

Mục đích nghiên cứu

Chúng tôi muốn hệ thống hóa, phân lập những quan niệm nghệ thuật về con người
trong văn học Việt Nam sau 1945, vẽ nên bức tranh mang tính tổng quát.

Page19

Bước đầu đưa đến một tổng kết mang tính chất khái quát về quan niệm nghệ thuật
về con người trong sáng tác của Nguyễn Khải qua các thời kỳ. Qua đó, giúp cho người
đọc có cơ sở để hiểu sâu thêm các tác phẩm của nhà văn trong bối cảnh văn học Việt
Nam từ năm 1945 đến nay.

2


NỘI DUNG
1. Quan niệm nghệ thuật về con người – một vấn đề quan trọng trong thi
pháp học

1.1.

Khái niệm

Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng
khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của người nghệ sĩ nói
riêng và thời đại văn học nói chung. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm
nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm
trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của
mình” [8, 15]. Như vậy, thông qua quan điểm nghệ thuật về con người, nhà văn thể
hiện rõ tư tưởng của mình về con người nói riêng và về cuộc sống nói chung. Đồng
thời, đây cũng là một kênh tín hiệu quan trọng để người đọc có thể nắm bắt được
“tâm” và “tầm” của người cầm bút. Cũng bàn về vấn đề này, các soạn giả cuốn Từ
điển Thuật ngữ văn học cho rằng quan niệm nghệ thuật về con người “là hình thức
bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ
thuật, nó gắn với các phạm trù phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật, làm
thành thước đo của hình thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật.” [2, 275].
Cách định nghĩa này mang tính thuật học, trừu tượng hơn nhưng vẫn nhấn mạnh quan
niệm nghệ thuật về con người có liên quan mật thiết đến tư tưởng, phong cách nghệ
thuật của nhà văn. Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm
trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề. Chúng ta có thể hiểu quan niệm nghệ
thuật về con người một cách khái quát như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người
được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của
nhà văn. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan
sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối
tượng.
Cơ sở lịch sử xã hội và văn hóa của quan niệm nghệ thuật con người

Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc cảm nhận, thấu hiểu và miêu tả
con người trong văn học. Nhưng các nguyên tắc đó có cơ sở sâu xa trong thực tế lịch

sử, văn hóa. Quan niệm con người là hình thức đặc thù nhất cho sự phản ánh nghệ
thuật, trong đó thể hiện sự tác động qua lại của nghệ thuật với các hình thái ý thức xã
hội khác. Thời trung đại phương Tây, người ta xem con người là sản phẩm sáng tạo
của Chúa Trời; từ thời Phục Hưng đến Khai Sáng thì con người được xem là sản phẩm
3

Page19

1.2.


của tự nhiên; từ thế kỷ XIX thì xem con người là sản phẩm vừa của tự nhiên, vừa của
xã hội. Những hệ tương tưởng này có vai trò mang tính nền tảng trong việc vun đắp,
xây dựng quan niệm nghệ thuật về con người trong các sáng tác văn học.
Quan niệm nghệ thuật về con người vừa mang tính khách thể vừa mang tính chủ
thể. Mỗi thời kì văn học, mỗi nền văn học lại có những quan niệm nghệ thuật riêng,
chi phối, ảnh hưởng lớn đến người nghệ sĩ. Bên cạnh đó, mỗi nhà văn, bằng nhãn quan
riêng, cá tính sáng tạo riêng cũng sẽ tạo nên những dấu ấn riêng trong quan niệm nghệ
thuật về con người. Cùng sống trong một xã hội, một thời đại, chịu ảnh hưởng của
cùng một địa văn hóa, hệ tư tưởng nhưng mỗi nhà văn lại tạo cho mình một cách nhìn,
cách nghĩ, cách cảm riêng về con người. Nó trở thành một đặc điểm quan trọng của
trang viết và đặc tính riêng của mỗi cây bút. Chẳng hạn, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự
khác biệt trong quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nam Cao so với
Vũ Trọng Phụng hoặc Nguyên Hồng.
1.3. Ý nghĩa của quan niệm nghệ thuật về con người
Giáo sư Trần Đình Sử khẳng định “Quan niệm nghệ thuật gắn liền với thế giới
quan, với quan điểm triết học, chính trị. Nhưng nó có sự chuyển hóa từ quan niệm
chính trị, quan niệm triết học sang quan niệm nghệ thuật. Quan niệm ấy gắn liền với
phương tiện nghệ thuật (…). Khi nhà văn thay đổi quan niệm nghệ thuật thì cũng thay
đổi luôn phương tiện. Do đó muốn đổi mới nghệ thuật thơ ca trước hết phải đổi mới

quan niệm”.[8, 120] Vấn đề then chốt trong quá trình vận động, đổi mới văn học chính
là đổi mới quan niệm, mà nhất là quan niệm về con người. Nó chính là cơ sở, nhân
tố chính yếu thúc đẩy sự vận động của nghệ thuật, thay đổi bản chất nội tại của hình
tượng nghệ thuật.

Quan niệm nghệ thuật về con người luôn hướng vào con người trong mọi chiều
sâu của nó, cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân bản của
trang viết. Nghệ sĩ là người suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư
tưởng mới để hiểu về con người, do đó càng khám phá nhiều quan niệm nghệ thuật về
con người thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng đánh giá đúng thành tựu
của họ.
4

Page19

Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người còn làm tái sinh những vấn đề đã
cũ mòn, làm cho văn học thay đổi căn bản. Trong lịch sử văn học, việc sử dụng lại các
đề tài, cốt truyện, nhân vật truyền thống là rất phổ biến. Vẫn là con người đã biết,
nhưng hôm qua được nhìn ở một góc độ, hôm nay nhìn sang góc độ mới bỗng trở nên
khác biệt, cho người đọc thêm nhiều suy tưởng.


Bởi những ý nghĩa quan trọng nêu trên, việc tập trung nghiên cứu, khám phá quan
niệm văn học trong các thời kì, giai đoạn văn học, đặc trưng quan niệm của từng nhà
văn trở thành một trong những vấn đề cần thiết hơn bao giờ hết.
2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học giai đoạn từ sau 1945
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 45- 75
Từ năm 1945 đến năm 1975, phát triển trong điều kiện chiến tranh, văn học nhìn
con người bằng cái nhìn lý tưởng, “lấy lịch sử làm điểm quy chiếu con người”. Con
người xuất hiện trong giai đoạn văn học này chủ yếu là con người cộng đồng, con

người giai cấp, con người dân tộc. Họ mang trong mình những lý tưởng lớn lao, những
lẽ sống cao đẹp hướng đến nhứng giá trị toàn thể.
Nhận xét về các nhân vật trong sáng tác trước 1975 của Nguyễn Minh Châu, nhà
nghiên cứu Niculin (Nga) cho rằng: Nhân vật của Nguyễn Minh Châu luôn được “tắm
rửa sạch sẽ”, được “bao bọc trong một bầu không khí vô trùng”. Đó cũng có thể coi là
nhận xét chung về nhân vật của văn xuôi Việt Nam trước 1975, kiểu “nhân vật sử thi”.
Theo cách nói của Bakhtin, đó là con người luôn “khoác bộ áo xã hội”, luôn “trùng
khít với địa vị xã hội của mình”, “con người đơn giản, dễ hiểu, đẹp đến mức hoàn hảo,
thánh thiện”… Bởi vậy không ngạc nhiên khi những nhân vật này được xây dựng theo
những công thức nhất định, có những nét rất gần nhau. Đó là tinh thần vị quốc vong
thân, xả thân vì nghĩa lớn, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của những người lính trong
sáng tác của Tố Hữu, những ngưới lính Tây Tiến, là tinh thần quyết liệt của chị Sứ, bà
mẹ Cà Xợi (Hòn đất – Anh Đức), sự cứng cỏi, kiên định và mạnh mẽ của Nguyệt
(Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu) … Đó là những con người đại diện cho
cả thế hệ quyết lên đường vì nghĩa lớn là Tnú (Rừng Xà nu – Nguyễn Trung Thành),
Việt (Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi)...
Bằng cách nhìn nhận như vậy, nhà văn miêu tả nhân vật trong cảm hứng lãng mạn,
cảm hứng ngợi ca, thi vị hóa, tuyệt đối hóa vẻ đẹp của nhân vật.
Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975

Nhưng từ sau năm 1975, yêu cầu đổi mới văn học đòi hỏi nhà văn phải nhìn con
người trong những mối quan hệ đời thường, đa đoan và đa sự, khám phá con người ở
khía cạnh đời tư bằng cặp mắt đa chiều và bằng cách viết đa thanh. Trong bảng lược
đồ về quan niệm về con người có sự phân hóa rõ nét, sự đa dạng hóa những quan niệm
nghệ thuật khác nhau về con người.
Trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975, có một hiện tượng đáng chú ý là: các nhà
văn với các tác phẩm ngược thời gian viết về đời sống riêng tư của từng cá nhân như là
5

Page19


2.2.


tiếng nói tự nhận thức về bản thân. Trong tác phẩm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành (Nguyễn Minh Châu), nhân vật Quỳ nghĩ về những năm tháng ở Trường Sơn, về
người lính trong ý nghĩ của chị lúc đó: “Tôi thật ngu với những người đàn ông đáng
quý nhất trong số những người đáng quý ấy, tôi đã không coi họ là những người đang
sống giữa cuộc đời, mà lại đòi hỏi nơi họ một thánh nhân. Tôi đã tìm cái tuyệt đối
không bao giờ có” [2, 152]. Hiểu những giá trị có được của chính bản thân cũng có
nghĩa là mỗi người đang thực hiện hành động tự giải phóng. Từ những chiêm nghiêm,
mỗi người hiểu thêm về bản thân mình, về người thân, về nhân dân: “Hoá ra cuộc
sống từ bao đời là như thế, con người là một sự kết tinh của những tinh hoa. Hóa ra
thời nào cũng có những con người như anh ấy, tập trung trí tuệ và tài năng trác tuyệt
của nhân và mang trong lòng tất cả những khát vọng cháy bỏng của nhân dân”.
Những vấn đề lớn lao về lịch sử, dân tộc, đất nước, con người được nhìn nhận trong
tâm thế của từng cá nhân. Tội ác chiến tranh được nhìn nhận qua thân phận đầy đớn
đau của những người phụ nữ (Bến không chồng – Dương Hướng), cuộc chiến được
nhìn nhận với nhiều góc nhìn rộng mở (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh) …

Xem con người là một cá thể độc lập, nhà văn trao cho nhân vật những sinh mạng
riêng, để nhân vật tự sống, tự phát triển, tự bộc lộ tính cách, tâm tư, tình cảm. Nhà văn
trở thành người bạn đồng hành quan sát, ghi chép tiến trình bộc lộ, phát triển của nhân
vật. Trong quá trình đó, nhà văn nhấn mạnh quá trình dấn thân, tranh đấu với thế giới
và đặc biệt là tranh đấu với chính bản thân mình. Sống với thời gian hai chiều (Vũ Tú
Nam) là sự tự phán xét của lương tâm trước hai chiều thời gian: quá khứ và hiện tại.
Bức tranh của Nguyễn Minh Châu là con người trong sự đối diện với “tòa án lương
tâm” của chính mình.
6


Page19

Con người được nhìn nhận như một bản thể riêng biệt, chịu ảnh hưởng của hòan
cảnh nhưng không phải toàn bộ kết quả đều do hoàn cảnh. Mỗi con người có những
yếu tố tự thân, góp phần quan trọng tạo thành số phận và thân phận. Nhà văn Nguyễn
Minh Châu, người đi đầu trong phong trào đổi mới, thay máu văn nghệ đã chỉ rõ, một
trong những cội nguồn dẫn đến số phận con người chính là quan niệm, cách nhìn, cách
hành xử của họ. Người đàn bà làng chài khổ một phần là do cuộc sống đẩy đưa nhưng
phần nhiều là do tính cách. Sự cam chịu đầy tinh thần hi sinh, vị tha và có phần mù
quáng của một người mẹ, người vợ đẩy chị đến cảnh sống khốn khổ, khốn đốn. Không
một cánh tay nào từ bên ngoài, dù là pháp lí hay chân lí thông thường có thể cứu vớt,
đổi thay cuộc sống của chị bởi mấu chốt của vấn đề đến từ bên trong, là dòng tâm tư
bản năng của một người phụ nữ.


Mỗi con người là một cá thể phân lập nhưng không biệt lập. Bởi ngoài tính chất
cá nhân đậm nét còn mang tính cộng đồng. Các nhà văn thời kì đổi mới đề cao con
người cá nhân nhưng cũng không phủ định tính chất cộng đồng trong mỗi con người.
Tuy nhiên, ở thời Đổi mới, khi miêu tả con người xã hội, nhà văn không chỉ hướng tới
thể hiện những sự kiện, biến cố xã hội, không còn bị gò theo tiêu chí phân tuyến thiện
- ác mà đã là những con người đa diện, phức tạp “đa đoan”. Nhà văn đặt con người
trong những hoàn cảnh cụ thể, soi chiếu vào thế giới nội tâm để thấy con người trong
các mối quan hệ xã hội chằng chịt, trong sự chi phối nhiều chiều của hoàn cảnh. Giang
Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu; Hoan, Khiêm trong Ngược dòng nước lũ của
Ma Văn Kháng; Anh Khải trong Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải; Bối trong Ba
người khác của Tô Hoài… và nhiều nhân vật của văn xuôi đương đại đều được thể
hiện từ “tọa độ” mới đó.

Phần sâu nhất trong mỗi con người là con người tâm linh. Ai cũng biết khoa học
cuối thế kỉ XX đã quay về phương Đông “đi tìm con người ở bên trong con người”.

Không ít thành tựu đã thật sự làm chúng ta kinh ngạc. Người ta nói nhiều tới thế giới
tiềm thức, vô thức, siêu thức trong tâm thức của con người. Khám phá bí ẩn của tâm
linh là con đường hữu hiệu giúp nhà văn khám phá được chiều sâu vô tận bí ẩn trong
tâm hồn con người. Con người tâm linh đã hiện diện khá phổ biến trong văn xuôi
đương đại, đặc biệt trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thiên thần sám hối của
Tạ Duy Anh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh… Người đọc cảm thấy ranh giới giữa những cái thực và hư, cái vô hình và hữu
hình trở nên nhạt mờ. Vẻ đẹp ngoại diện của nhân vật có thể mang tính dự báo về thân
phận (Phương – Nỗi buồn chiến tranh), một câu nói của Dũng “ nóng quá, phải tắm
một cái, kẻo chẳng bao giờ được tắm nữa” (Chim én bay) được Quy suy luận là “linh
cảm trước một điều gì”. Nhân vật bị ám ảnh bởi những câu chuyện ma quỷ, hắc ám
7

Page19

Bên cạnh tính chất xã hội, phần tự nhiên của con người cũng là một bình diện
quan trọng. Văn xuôi đổi mới quan tâm nhiều đến con người tự nhiên, khám phá con
người tự nhiên từ nhiều góc độ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc quan tâm đến con
người trong tính toàn vẹn của nó, khẳng định bản năng tự nhiên như một “lực sống”
của con người (theo cách diễn đạt của Freud), khiến con người hiện diện trong văn học
trọn vẹn và sống động hơn. Nhà văn đi đầu trong việc miêu tả bản thể tự nhiên của con
người chính là Nguyễn Huy Thiệp. Ở thập kỉ 80, nhà văn họ Nguyễn đã khiến văn đàn
dậy sóng với những trang viết tự nhiên hơn cả cuộc sống đời thường, khai mở, khám
phá những vấn đề bản thể của con người qua đó nêu lên những tính chất triết lí cô
đọng mà sâu sắc.


(Bến không chồng), cũng có thể mang siêu năng có thể quan sát mọi chuyện từ trong
bụng mẹ (Thiên thần sám hối) … Nhà văn đi sâu vào giấc mơ của nhân vật bởi trong
“giấc mơ con người sống trong thế giới phi lý, huyền ảo không có thật nhưng cũng

chính từ đó mà bộc lộ ra cái phần tiềm thức ẩn khuất không dễ gì thấy được trong đời
thực”[3, 63]. Trong Nỗi buồn chiến tranh, nhà văn nhắc đến 39 lần Kiên mơ, trong có
14 lần khắc họa rõ nét tạo hiệu quả thẩm mĩ đặc sắc cho tác phẩm. Nhà văn Nguyễn
Minh Châu trong Phiên chợ Giát dụng công khắc họa 2 giấc mơ của lão Khúng nhấn
mạnh nỗi ám ảnh của lão về việc bán con Khoang, nỗi đau của con người nhận thấy
mình cũng vừa là kẻ sát nhân vừa là một con vật tội nghiệp mắc kẹt trong những chiếc
tròng cổ oan nghiệt. Nhà văn Nguyễn Bình Phương đi xa hơn, thâm nhập sâu vào cõi
vô thức của con người. Nhân vật Tính trong Thoạt kỳ thủy dường như chìm trong
“vùng mang huyền thoại” (Thụy Khuê) của máu và trăng, Hoàn gần như sống trong
mơ … Như vậy, các nhà văn đi sâu phản ánh con người tâm linh, sử dụng giấc mơ như
một hương thức phản ánh thực tại và bóc tách thế giới tâm hồn của con người, những
nỗi bất an, ám ảnh trong nhân tâm.
Chính từ sự đổi mới cơ bản trong quan niệm nghệ thuật về con người, thế giới
nhân vật trong văn xuôi đương đại phong phú, gần gũi và giàu sức ám ảnh đối với
người đọc với nhiều kiểu loại nhân vật mới: nhân vật tự ý thức, nhân vật cô đơn, nhân
vật bi kịch, nhân vật tha hóa và bị tha hóa, nhân vật dị biệt – những dạng nhân vật
chưa từng hoặc rất ít xuất hiện trong văn xuôi trước 1975.
Qua những tìm hiểu trên đây, có thể khẳng định rằng quan niệm nghệ thuật về con
người là một trong những vấn đề hàng đầu được nhiều nhà văn dụng tâm nghiên cứu.
Quan niệm này thay đổi theo từng giai đoạn. Trong giai đoạn 45 – 75, nhà văn quan
niệm con người với tư cách là con người cộng đồng, dân tộc, con người anh hùng sử
thi được tuyệt đối hóa, thi vị hóa, đặt lên cao để ca ngợi, chiêm ngưỡng. Nhân vật
trong văn học thời kỳ đổi mới đã được dân chủ hơn, nhà văn và nhân vật là “bạn đồng
trang lứa”, từ đó, nhà văn sẵn sàng chỉ ra tất cả những ưu điểm, khuyết điểm của nhân
vật mình, đặt nhân vật trong cái nhìn đa diện đa chiều, đi sâu khám phá các vỉa tầng
sâu kín, từ con người xã hội, tự nhiên, tâm linh … Đó là một bước tiến dài trong việc
thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người của văn học thời kỳ đổi mới.
3.

Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Khải


Nguyễn Khải, tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải (3 tháng 12, 1930 - 15
tháng 1, 2008) là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành
8

Page19

3.1. Nguyễn Khải trong bản lược đồ văn học từ sau 1945


sau cách mạng tháng Tám 1945. Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết,
ký sự, kịch. Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều tác phẩm như: Xung
đột (1959-1962), Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Thời gian của người (1985),
Thượng đế thì cười (2003)...
Là một trong những cây bút xuất sắc trong văn học sau 1945, Nguyễn Khải
luôn thể hiện rõ quan điểm sáng tác của mình. Trong hội nghị thành lập Hội nhà văn
Việt Nam năm 1957, Nguyễn Khải phát biểu: “Tôi quan niệm nghệ thuật đơn giản
như sau, là khoa học thể hiện lòng người, là lịch sử lòng người”. Quan niệm này mang
tính quyết định đến phương hướng tiếp cận hiện thực của nhà văn, lấy trạng thái tâm lí,
thế giới bên trong của con người làm đối tượng khám phá, phản ánh để từ đó làm bật
lên bức tranh đa sắc màu của cuộc sống.
Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của
nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí
tỉnh táo. Các sáng tác của ông khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng
cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã
hội–chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay
trước những biến động phức tạp của đời sống. Ông đặc biệt nhấn mạnh, quan tâm đến
thế giới bên trong của con người.
Nguyễn Khải không chỉ đóng góp cho văn học Việt một lối viết đầy tính triết
luận, biện luận sắc sảo, những khám phá độc đáo về những vấn đề muôn thuở mà còn

thể hiện những quan niệm mới mẻ về nghệ thuật, con người trong những sáng tác của
mình.
3.2. Thời kỳ trước năm 1978

Nhiệt tình xây dựng cuộc sống mới, chế độ mới từng là vấn đề trung tâm của văn
học trong suốt một thời kỳ văn học sau năm 1945. Trong niềm tự hào về nền độc lập
mới giành lại được, cả dân tộc hân hoan bắt tay vào xây dựng một đất nước mới.
Tương lai tươi đẹp với sự no đủ, thân ái, hạnh phúc dường như đã nhìn thấy ở trước
mắt. Vậy cho nên, không lạ khi con người trong thực tiễn lao động, xây dựng quê
hương trở thành kiểu con người chủ yếu xuất hiện trong những sáng tác thời kỳ trước
9

Page19

Trong một lần trả lời phỏng vấn, Nguyễn Khải tự chi sáng tác của mình thành hai
giai đoạn: “ Trừ 1955 đến 1977 tôi sáng tác theo một cách, từ 1078 đến nay theo một
cách khác”. Ông đã tự phân đoạn thời kì sáng tác của mình, thể hiện những bước
đường đổi thay, sự đổi mới, đột phá toàn diện trong quá trình sáng tạo.
3.1.1. Con người trong thực tiễn lao động, xây dựng quê hương


đổi mới. Trong âm hưởng sôi nổi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, các sáng tác của Nguyễn Khải thời kỳ này tập trung quanh một bối cảnh: những
nông trường sản xuất tập thể theo mô hình xã hội chủ nghĩa. Nhà văn tin tưởng một
cách nhiệt thành khi lên nông trường Điện Biên, “ở mảnh đất mới ấy tôi sẽ tìm ra
những con người mới, sẽ viết được một tác phẩm rất mới, góp phần xây dựng một nền
văn học hoàn toàn mới”. Nhân vật trung tâm trong những sáng tác của Nguyễn Khải
thời kỳ này là những con người “lý tưởng”, lấy lao động, lấy sự nghiệp của tập thể làm
lẽ sống của mình. Nhà văn say sưa mô tả “những con người có thể hiểu biết hết thảy,
và có thể giải quyết những việc rắc rối, phức tập nhất bằng những biện pháp đơn giản,

không ai ngờ tới”.
Đó là một Nông Ký Lâm nhân hậu trong Nguồn vui, luôn hết lòng vì công việc
chung. Trong tâm hồn của Lâm, dường như có rất ít chỗ cho những nỗi niềm riêng. Là
đội trưởng đội sản xuất, choán lấy toàn bộ tâm trí Lâm là những suy tư, kế hoạch hoạt
động cho cái nông trường rộng lớn mà anh phụ trách: “Mùa xuân sẽ trồng ngô, đến
tháng tư là bẻ bắp được, qua mùa nước lũ sang cuối thu thì gieo lạc…”, “mùa gặt thế
là sắp kết thúc, biết bao nhiêu kế hoạch được thảo ra với nhiều nỗi lo lắng, băn khoăn
đã trở thành công việc của hôm qua. Ngày mai đồng chí đội phó sẽ về mang theo
những kế hoạch mới, cùng với niềm vui và nỗi lo mới...”.

Đó còn là Súy, người tổ trưởng tổ kiểm tra đường dây của đại đội thông tin.
Không giống như Huân hay Lâm, công việc của những người như Súy đòi hỏi sự hi
sinh thầm lặng. Anh và đồng đội của mình phải đặt chân đến những vùng rừng núi
hoang sơ, những miền đất hiểm trở. Họ phải làm việc trong những môi trường khắc
nghiệt nhất, thiếu thốn nhất. Thế nhưng, những vất vả đó chẳng hề cản được bước
10

Page19

Đó là Huân (Mùa lạc) – người chiến sĩ từng đi qua bao gian khổ của chiến tranh,
nay trở về góp sức mình xây dựng, sản xuất. Huân lâng lâng vui sướng khi nhìn thấy
“màu xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của
ớt chín lấn dần lên các màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang”. Trong lao động,
những vết thương trong tâm hồn con người từng cận kề cái chết, từng bị hành hạ bởi
những mất mát, gian khổ của chiến tranh ấy dần lành lặn. Giờ đây, ở mảnh đất Hồng
Cúm chiến trường xưa, anh tìm thấy niềm hạnh phúc khi thấy đôi tay mình đã góp
công đưa “cuộc sống vĩ đại trở lại”, thấy “sức vóc của mình có thể thay đổi cuộc sống
nhiều đến thế”. Mỗi chiều đi làm về, ngâm mình xuống dòng Nậm Rốm, anh an lòng
bởi giờ đây, “những mũi gai thép đâm, những vệt nứa cứa, những chấm đen ở lỗ chân
lông của bệnh sốt rét rừng, màu xanh của thiếu ăn và bệnh tật đều đã được những lớp

tế bào mới xóa mờ đi, thay thế”.


chân họ: “Lên đường! Chúng tôi tự hào là những người đi bộ nhiều nhất, bền bỉ nhất
trong những năm hòa bình. Buổi sáng lên đường bao giờ cũng rạo rực một niềm vui,
những khung cảnh, những con người, những công việc mới đang chờ đón” (Nhật ký
chiến sĩ).
Có thể nói, ngợi ca nhân dân trong lao động là một đề tài dành được sự ưu ái lớn
của Nguyễn Khải trong thời kỳ trước 1978. Trực tiếp ca ngợi những con người hết
mình cống hiến, lao động bao nhiêu, nhà văn cũng phê phán những con người trốn
tránh lao động, những con người mà cả cuộc đời chỉ dừng lại ở những “ý tưởng”.
Nhân vật Q trong Người mơ mộng là kiểu người như vậy. Là con người có chí, lại có
tài, nghĩa là đã có một xuất phát điểm hơn nhiều người khác, thế nhưng rốt lại, cả một
cuộc đời, Q đã không thể làm được một điều gì cho xã hội, cho gia đình mình, thậm
chí cho chính bản thân mình. Bởi “người khác làm, còn anh thì đứng ngoài chê trách.
Họ không vì sự chê trách của anh mà không làm. Còn anh không vì biết chê trách
người khác mà làm được hay hơn. Bây giờ anh đã ngót năm chục tuổi đầu rồi, nói một
cách bi quan thì đã một chân trong mồ rồi, mà vẫn chưa làm được một việc nào để
người khác khen”. Tài năng lớn nhất, cũng là ước mơ lớn nhất của Q là viết văn. Q ôm
ấp giấc mộng sáng tác một cuốn tiểu thuyết vĩ đại. Thế nhưng Q lại chưa bao giờ đặt
bút viết một tác phẩm nào, dù là một bài báo tường. Để rồi cuối cùng, khi Q cũng đủ
can đảm cho ra đời một truyện ngắn, thì đó là câu chuyện khiến “tôi” nghẹn thắt vì
“bực dọc, vì đau đớn, vì xấu hổ”, bởi nhận ra con người mà bao lâu nay anh vẫn
ngưỡng mộ hóa ra “rất cũ kỹ và tầm thường”. Nhân vật Q hiện lên như một minh họa
cho luận đề: chỉ có trong lao động, con người ta mới tiến bộ, trưởng thành.
Cũng chung một nguồn cảm hứng với Người mơ mộng nhưng Anh đội phó và
người thợ mộc lại có cách đặt vấn đề khác. Bằng cách xây dựng hai hình tượng nhân
vật đối lập: anh đội phó – con người tháo vát, nhiều sáng kiến nhưng lại chưa bao giờ
dám làm, dám chịu trách nhiệm về những sáng kiến của mình với người thợ mộc – con
người miệt mài làm – thử, biến những sáng kiến thành thực tế, nhà văn đã gián tiếp

bày tỏ sự đồng tình, ngưỡng mộ của mình với nhân dân lao động – nhân vật đẹp nhất
trong những trang văn của ông.
Con người trong hành trình vận động từ bóng tối u mê đến ánh sáng nhận

Cùng nhóm những tác phẩm viết trong niềm hưng phấn cao độ với thành quả của
Cách mạng, có những truyện ngắn thể hiện hình ảnh con người trong hành trình từ
bóng tối u mê đến ánh sáng nhận thức. Một trong những sáng tác đầu tiên của khuynh
11

Page19

3.1.2.
thức


hướng này chính là truyện ngắn Một đứa con chết. Bằng cái chết của đứa trẻ sơ sinh
trên chuyến đò sang sông tìm về miền đất Chúa, nhà văn đã đả phá mạnh mẽ niềm tin
ngây thơ của một bộ phận nhân dân vào sự cứu rỗi của tôn giáo, mà cụ thể ở đây là
Thiên Chúa giáo. Sự đối lập giữa cuộc đời đầy đau khổ, mất mát của đôi vợ chồng mất
con, giữa “chiếc thuyền ọp ẹp nhưng đầy người, nước mấp mé cắn mạn” khiến cho
đứa trẻ buột khỏi tay người mẹ rơi xuống nước với “chiếc thuyền cách đấy không xa
cồng kềnh những đòn khiêng, võng, hòm xiểng, và một cha ngồi đằng mũi ném con
mắt thương xót nhìn sang” thật mỉa mai, bi phẫn. Để rồi cuối cùng, nhận thức đến với
người chồng trong đau khổ, muộn màng: “tại anh, vì anh dại dột và ngu đần, vì anh
quá tin ở kẻ khác nên mới bỏ cái hạnh phúc thật ở đời nay để tìm một thứ hạnh phúc
hão huyền nào không có thật.”

Từ Một đứa con chết, Mùa lạc, Đứa con nuôi, và rất nhiều những tác phẩm khác
nữa như Hãy đi xa hơn nữa, Người trở về, Gia đình lớn…, có thể khẳng định rằng,
trung tâm chú ý trong sự tìm tòi, phát hiện của Nguyễn Khải thời kỳ này chính là hình

ảnh con người trong hành trình vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Những con người
ấy có những cách đi và bước đi nhanh, chậm khác nhau. Có người trải qua nhiều băn
khoăn, dằn vặt thậm chí khổ đau, có người nhẹ bước, thanh thản. Thế nhưng nhà văn
đã làm cho ta tin tưởng chắc chắn rằng, những sự vận động ấy là tất yếu. Đó chính là
12

Page19

Lấy bối cảnh ở nông trường Điện Biên, Nguyễn Khải đã cho ra đời một loạt những
tác phẩm miêu tả hành trình bóng tối – ánh sáng của lớp người cũ, chịu ảnh hưởng
nặng nề của xã hội cũ. Đó là Đào, người con gái chịu bao nhiêu dập vùi của số phận,
sống chỉ bởi “đời còn dài nên phải sống”. Thế nhưng, ở nông trường Hồng Cúm cô đã
tìm lại được niềm vui, sự gắn bó với cuộc đời. Tâm hồn cô dần mềm mại trở lại, bao
dung hơn, nhẹ nhàng hơn. Cũng ở nơi đó, cô tìm thấy tình yêu, mái ấm, niềm hạnh
phúc gia đình của mình. Cuộc sống mới ở nông trường đã giúp cô thực hiện một cuộc
lột xác, hồi sinh ngoạn mục. Đó còn là Tấm (Đứa con nuôi), đứa trẻ mồ côi đáng
thương, sớm phải bươn chãi, phải đối mặt với sự độc ác của người đời đến nỗi tâm hồn
trở nên chai lì và đầy nghi kỵ. Em không tin ai, không gắn bó với ai, bởi kinh nghiệm
từ cuộc đời cũ đã khiến em tin tưởng một cách chắc chắn rằng: “Ở đời này làm gì có
được mấy người tốt, còn đời nó thì chắc là không thể sung sướng như người khác
được”. Thế nhưng, dần dần cuộc sống ở Điện Biên, sự quan tâm của những người
xung quanh, đặc biệt là tình yêu thương chân thành của vợ chồng Lâm đã làm thay đổi
suy nghĩ của em. Lòng tin, tình yêu đã trở lại trong tâm hồn thơ trẻ ấy. Mảnh đất sôi
động và thơ mộng Điện Biên không chỉ thay đổi cuộc đời em mà còn đem lại cho em
niềm hạnh phúc mà em chưa bao giờ dám mơ ước tới.


niềm tin của cả một thế hệ được nuôi dưỡng trong bầu khí quyển sử thi – lãng mạn của
thời đại anh hùng.
Những sáng tác của Nguyễn Khải trước 1978, nhìn chung, mang một cảm quan

tràn đầy ánh sáng lạc quan, tin tưởng. Xét một cách khách quan, đó không phải là cách
nhìn của riêng Nguyễn Khải. Đó là âm hưởng của cả một giai đoạn văn học. “ Nhiều
người cùng sống trong cái cảm giác Nguyễn Khải đã sống, tức là cảm giác lãng mạn:
vẻ đẹp tự nhiên ở con người; tổ chức chu đáo; và lòng tin sâu xa ở chiến thắng…
những yếu tố ấy, là có thực và thật dễ làm say lòng người!”. Âm hưởng sử thi và cảm
hứng lãng mạn ngự trị suốt một thời. Tuy nhiên, trong bầu không khí chung đó, ta
cũng không khó nhận diện bản sắc riêng của Nguyễn Khải. Trong không gian của lịch
sử - cộng đồng – tập thể, Nguyễn Khải vẫn phần nào chú ý đến con người trên tư cách
là một cá nhân. Hiện hình trên những trang văn của Nguyễn Khải là những con người
đầy bản sắc riêng biệt. Nhà văn, khi đặt con người trong môi trường tập thể, vẫn rất
chú ý đến những vấn đề cá nhân của họ. Đặc biệt, Nguyễn Khải cũng là một trong
những nhà văn đầu tiên trong số các tác gia cùng thời nêu ra vấn đề giá trị cá nhân,
khẳng định cá nhân trước cộng đồng (như trong Đường trong mây, Ra đảo). Bởi vậy,
có thể nói rằng, trong trang văn của Nguyễn Khải thời kỳ này, có một sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa hiện thực tỉnh táo và lãng mạn sử thi.
3.2. Thời kỳ sau năm 1978 – Con người tư tưởng
Từ sau mốc 1978, sáng tác của Nguyễn Khải có một sự chuyển động đổi mới khá
rõ rệt và ráo riết. Thoát li khỏi bầu không khí sử thi – lãng mạn của những năm kháng
chiến, văn học dần trở lại dòng chủ lưu là hình ảnh con người hiện sinh trong dòng
chảy cuộc đời. Hiện thực bề bộn của đất nước trong những năm bao cấp – đổi mới là
một nguồn tư liệu phong phú cho các nhà văn thả sức tìm tòi, khám phá. Thực tế đời
sống tất yếu đặt ra cho những người cầm bút yêu cầu quyết liệt phải thay đổi cách
nhìn, cách cảm, cách nghĩ. Phản ánh hiện thực là chưa đủ, nhà văn cần nghiền ngẫm
hiện thực. Đó là một quá trình gian khổ dấn thân vào con đường tìm kiếm, lí giải “con
người trong con người”. Văn học thời kỳ này cho ra đời nhiều gương mặt đa hình, đa
dạng, phức tạp và trải đời hơn.

Trong những truyện được Nguyễn Khải viết sau năm 1978 như Một người Hà Nội,
Thượng đế thì cười, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người…, ta thường thấy xuất
hiện những nhân vật tư tưởng. Đó là kiểu nhân dù ở lứa tuổi nào, thành phần nào, nghề

13

Page19

Trong dòng chảy chung của thời kỳ tiền và trong đổi mới, Nguyễn Khải đã góp
cho văn học những hình tượng nhân vật vô cùng đặc sắc.


nghiệp gì cũng “đều thông minh, giàu suy tư và giỏi biện luận”, “thường hay tranh cãi
và lí sự”. Cũng cần lưu ý rằng, không phải đến sau mốc 1978, trong sáng tác của
Nguyễn Khải mới xuất hiện loại nhân vật này. Thực ra trong giai đoạn trước đó, đọc
truyện Nguyễn Khải ta đã thấy bóng dáng của những con người hay suy tư, trăn trở về
cuộc đời và con người. Đó là những nhân vật như “tôi” trong Người mộng mơ, Hãy đi
xa hơn nữa, Biền trong Tầm nhìn xa hay Thi trong Một cặp vợ chồng… Điều này tạo
thành nét phong cách độc đáo xuyên suốt sự nghiệp sáng tác Nguyễn Khải. Đó là một
lối viết giàu tính trí tuệ, triết lý, nhiều suy tư và chiêm nghiệm. Tuy nhiên có thể thấy
rằng, ở những nhân vật này, tính chất tư tưởng còn chưa đậm nét và bị lấn át bởi kiểu
con người mang âm hưởng sử thi – lãng mạn đã nói ở trên. Chỉ đến sau 1978, đối diện
với một hiện thực bộn bề, phức tạp, kiểu con người triết luận mới có cơ hội trở thành
lớp nhân vật chiếm địa vị trung tâm trong sáng tác của Nguyễn Khải. Các nhân vật của
ông thường đứng trên những lập trường tư tưởng khác nhau để đối thoại với nhau về
mọi vấn đề của đời sống: lịch sử, chính trị, triết học, văn hóa, đạo đức.
Nổi bật trong thời kỳ này là hai kiểu con người:
3.2.1. Con người suy tư – vỡ lẽ

Truyện ngắn Một người Hà Nội xây dựng trên một loạt những tình huống hiểu
nhầm – vỡ lẽ - nhận thức của nhân vật người cháu – xưng “tôi” - đối với bà Hiền. Nếu
như người cháu đại diện cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong chiến tranh, thấm
nhuần lí tưởng cách mạng thì bà Hiền lại là đại diện tiêu biểu của tầng lớp quý tộc xưa.
Cơn bão táp của thời đại đặt họ trước những lựa chọn, đổi thay để thích ứng với hoàn

cảnh mới. Nhân vật tôi đã không ít lần tỏ ra nghi ngờ, bất đồng với bà Hiền. Nhưng
rồi, mỗi lần như thế, “tôi” đều nhanh chóng vỡ lẽ, nhận ra những sai lầm trong cách
nhìn nhận, đánh giá của mình. Toàn bộ tác phẩm là một hành trình suy tư – nhận thức
của nhân vật tôi để rồi từ đó, đi đến chiêm nghiệm về sự tồn vong của những nét đẹp
văn hóa truyền thống trong cơn phong ba lịch sử. Vẻ đẹp và phẩm chất của nhân vật bà
Hiền chính là hiện thân của vẻ đẹp cổ kính, thanh lịch, tao nhã của người Hà Nội. Tác
phẩm nhắn nhủ đến người đọc một bài học sâu sắc: giữa cuộc biến đổi của lịch sử, đôi
lúc con người cần tìm về với quá khứ, với cội nguồn để hiểu, nâng niu và trân trọng
14

Page19

Hiện thực phong phú những năm đổi mới khiến cho con người ta không thể không
băn khoăn về lẽ đúng sai, hay dở, không đặt ra những câu hỏi về cách sống, về cách
con người đối diện, ứng xử với cuộc đời. Trong một số tác phẩm, Nguyễn Khải thường
đặt nhân vật của mình vào những tình huống mang tính nhận thức, lựa chọn, để từ đó
khái quát lên những triết lí sâu xa.


giá trị của dân tộc. Nguyễn Khải đã về với cội nguồn ấy, đặt nó trong thế đối sánh với
sự xô bồ của nếp sống hiện đại, của con người hiện đại để rồi khẳng định nét đẹp xưa
vĩnh cửu, thanh lịch, quý giá “vượt lên mọi suy biến của thời gian, mọi nông nổi của
thói thời thượng”.
Tiếp tục đặt nhân vật vào trong những thử thách của cuộc sống hiện đại, Bảy đô
một đêm, tác phẩm với dung lượng rất ngắn là câu chuyện về sự xung đột giữa đam mê
vật chất và niềm vui tinh thần trong tâm hồn con người. Sau 1986, việc trao đổi, buôn
bán theo cơ chế thị trường đã mở ra một vận hội mới cho nền kinh tế đất nước. Thế
nhưng nó cũng cuốn theo một lối sống chạy theo vật chất, tiền bạc mà lãng quên đi
những hạnh phúc tinh thần. Nhân vật “anh” trong Bảy đô một đêm là con người như
vậy. Gạt đi nỗi lo lắng của người cha cùng những suy tư của vợ, anh rời xa mái nhà

của mình, những người thân yêu của mình để kiếm những đồng tiền hậu hĩnh. Anh hân
hoan vui sướng bởi mình đã đem đến một cuộc sống vật chất dư dả, xa hoa cho vợ
con. Vậy nhưng, điều là những người thân của anh cần nhất – chính là sự có mặt của
anh – thì anh lại không biết đến, cũng không thể nào hiểu nổi. Chỉ đến khi vợ con,
những người thân yêu nhất cuộc đời dần rời xa thì anh mới nhận ra sai lầm của mình.
Bảy đô một đêm là một lời cảnh tỉnh mang đầy ý nghĩa thời sự của nhà văn Nguyễn
Khải khi càng ngày con người càng trở thành những nô lệ tự nguyện cho ham muốn
vất chất không bao giờ thỏa.
3.2.2. Con người tìm kiếm – lí giải

Gặp gỡ cuối năm là câu chuyện được kể từ điểm nhìn của một nhân vật “tôi” –
nhà văn - chiến sĩ. Truyện lấy bối cảnh bữa cơm tất niên cuối năm trong đại gia đình
nhân vật “tôi”. Góp mặt ở bữa tiệc ấy là anh, chị, chú, thím, cô, dì… những người vốn
có mối quan hệ máu mủ với “tôi”. Thế nhưng bữa tiệc ấy lại cũng hội tủ đủ những
gương mặt tiêu biểu nhất của cả hai bên chiến tuyến: chính trị gia, gián điệp, quý tộc,
tư sản, người giúp việc, nhà văn, người lính... Ở Gặp gỡ cuối năm nhân vật cách mạng,
đồng thời lại hiện diện, chung mâm với những kẻ đầu sỏ của chế độ Ngụy quyền. Ở
đó, có lớp người cũ kỹ, ọp ẹp như ông bà Hoàng, ông Chương nhưng cũng có lớp trẻ
sôi nổi, năng động như Bình. Mỗi một nhân vật giờ đây trở thành người phát ngôn cho
15

Page19

Con người tìm kiếm – lí giải là kiểu nhân vật đặc sắc nhất trong những tác phẩm
của Nguyễn Khải sau 1978. Ở những sáng tác thời kỳ này, có một loại nhân vật đặc
biệt xuất hiện ngày càng đậm nét, đó là nhân vật tôi suy tư – tự nghiệm. Những câu
chuyện kiểu này thường mang dáng dấp của những cuốn tự truyện. Theo dõi tác phẩm,
người đọc có thể dễ dàng nhận ra khá rõ dấu vết đời tư tác giả trên trang giấy.



cả một thế hệ, giai cấp, tầng lớp mà mình đại diện. Có bao nhiêu con người là có bấy
nhiêu luồng tư tưởng. Những luồng tư tưởng ấy gặp gỡ, xung đột, đối thoại với nhau.
Trong câu chuyện của mấy tiếng đồng hồ trước giao thừa hiện lên cả một bức tranh
lịch sử của đất nước suốt mấy chục năm biến động. “Tôi” trong câu chuyện, vừa là
nhân vật, vừa đóng vai trò là nhân chứng, là nhà bình luận. Tôi nói rất ít nhưng lại
nhận xét nhiều, suy ngẫm nhiều – những suy ngẫm mang tính chất lí giải những biến
động lịch sử và số phận con người trong cơn phong ba lịch sử ấy, tìm kiếm câu trả lời
cho tương lai của cả một lớp người.
So với Gặp gỡ cuối năm, trong Thượng đế thì cười, tính chất suy tưởng thể hiện có
phần còn rõ rệt, đậm đặc hơn nữa. Nhân vật “hắn” của câu chuyện vừa là hiện thân của
chính nhà văn nhưng vừa là một nhân vật mang tính hư cấu. Có lúc nó nhập thân hẳn
vào một hình tượng tác giả Nguyễn Khải, là “người của nghề”, trong cuộc hành trình
tìm lại mình nhằm đi đến một sự giác ngộ mới về nghệ thuật. Những khi ấy, cái tôi –
Nguyễn Khải thả sức tâm sự, giãi bày nỗi niềm buồn vui trải nghiệm trong đời, nhất là
đời viết. Khi chua chát, nghiệt ngã, khi hãnh diện, sảng khoải, “hắn” không ngần ngại
bóc trần cái con người nghệ sĩ của mình ra, mang lên bàn cân đánh giá, phán xét. Với
Thượng đế thì cười, Nguyễn Khải đã cho thấy tài ba của một cây bút hướng nội, đào
sâu vào bản thân để thấy mình, hiểu mình, và thông qua đó cũng là thấy đời, hiểu đời.
Trước đổi mới, quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Khải chủ yếu tập
trung vào “con người hướng ngoại”, con người trong quá trình khám phá, xây dựng
thế giới còn sau đổi mới, ông lại tập trung thể hiện “con người hướng nội”, con người
trong hành trình đào sâu nghiền ngẫm bản ngã, khái quát các vấn đề thiết thân, vấn đề
nhân sinh.

Page19

Trong cuộc trao đổi ngắn với nhà báo Vương Lập, nhà văn Nguyễn Khải khẳng
định: “Muốn giữ được vai trò nhà văn, thì tự mình phải tái sinh thôi, và tôi đã làm
được”. Phải chăng đó là cội rễ sâu xa về quá trình lao động miệt mài, sự bắt nhịp
nhanh nhạy với những đổi thay cuộc sống, sự vận động không ngừng nghỉ của nhà văn

trên hành trình bất tận của văn chương?

16


17

Page19


KẾT LUẬN
Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Khải có sự vận động đáng kể
theo từng giai đoạn lịch sử, văn học. Nó cho thấy quá trình trăn trở, sáng tạo, nhận
đường của một nhà văn khao khát sáng tạo, khao khát đổi mới.

Page19

Ngòi bút xông xáo trong việc khám phá hiện thực, miêu tả con người đã khai mở
nhiều cách nhìn, mở rộng tầm nhìn về con người, cuộc sống. Nhân vật trong tác phẩm
của ông, dù trong thời kỳ trước hay sau năm 1978 đều là những con người sống với
một nguồn nhiệt tình mạnh mẽ. Tái hiện hình tượng con người, Nguyễn Khải chủ yếu
xây dựng hình tượng con người trong mối quan hệ với hoàn cảnh, với cuộc đời, từ đó
nêu bật lên vấn đề thái độ sống, triết lí sống. Có lẽ đó chính là đặc trưng lớn nhất trong
văn Nguyễn Khải, điểm làm nên một Nguyễn Khải khác biệt, không lẫn với bất cứ một
tác giả nào khác. Bởi những đóng góp to lơn ấy mà nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn
Đánh giá rằng “Ông là một trong những nhà văn dẫn đầu của thời đại. Với cuộc cách
mạng này, những năm tháng đấu tranh gian khổ này, tác phẩm của ông là một bằng
chứng, một tài liệu tham khảo thực sự. Và muốn hiểu con người thời đại với tất cả
những cái hay dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, đời sống tinh thần của
họ, phải đọc Nguyễn Khải”


18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Cự Đệ (2007), Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi pháp - Chân dung,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt
Nam 1975 – 2000, Nxb Đại học Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Khải, Nhìn lại trang viết của mình –Việt Nam nửa thế kỷ văn học, Nxb
Văn học.
5. Nguyễn Khải (2013), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học.
6. Vương Trí Nhàn (1996), Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách
mạng từ sau 1945 – Tuyển tập Nguyễn Khải, Tập 1, Nxb văn học.
7. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam
thời kì đổi mới, Tạp chí văn học, số 1-2012

Page19

8. Trần Đình Sử (1993), Dẫn luận Giáo trình Thi pháp học, Nxb Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh.

19




×