Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Giới thiệu về amazon

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.96 KB, 16 trang )

I. Lịch sử hình thành và phát triển
Bốn năm về trước, Jeff chỉ là một nhân viên làm thuê cho bác họ. Công việc
này chỉ kéo dài có đúng 8 năm. Và trong 8 năm đó Jeff đã nung nấu một ý chí là
phải làm sao lập ra cho mình một kế hoạch thăng tiến trong nghề nghiệp mà theo
đó cứ hai năm một lần anh ta phải thay đổi được vị trí của mình.
Năm 22 tuổi, với 2 mảnh bằng kỹ thuật điện tử và bằng lập trình viên, Jeff rời
gia đình lên New York. Tại đây Jeff được nhận vào làm ở một công ty máy tính có
tên là Fitel. Hiện nay Fitel là công ty con của tập đoàn Furukawa Electric của Nhật
Bản. Nhưng lúc mà Jeff còn làm ở đây với vai trò tập sự thì Fitel chỉ là một cái tên
chưa ai biết đến. Anh ta không đoái hoài đến những điều đó, cái quan trọng nhất
với anh ta là kế hoạch thăng tiến trong nghề nghiệp phải được diễn ra đúng theo ý
muốn đã định sẵn
Năm 1988, Jeff nhảy sang đầu quân cho một công ty tài chính có tên là
Bankers Trust Company.Tại đây, Jeff được giao trọng trách lập ra chương trình
quản lý tài khoản. Jeff đã chứng minh được mình là một lãnh đạo tốt, một chuyên
gia lập trình cừ khôi và chỉ sau 2 năm anh ta đã được đề bạt lên chức vụ VicePresident của công ty chuyên trách về IT. Chưa kịp hân hoan làm lễ nhậm chức thì
Jeff đã nhận được một lời mời khác với chức vụ thấp hơn tại một công ty có tên
tuổi hơn: DE Shaw & Co - một công ty bảo hiểm có trụ sở trên phố Uôn. Và tại
đây, sau hai năm, Jeff lại được đề bạt lên chức Vice-President
Năm 1994, sau khi đắn đo suy nghĩ, Jeff cảm thấy rằng ở tại công ty bảo hiểm
này anh đã không còn đất để dụng võ nưa. Chẳng có gì bất bình thường bởi các
chức vice president đối với một thanh niên 30 tuổi như Jeff thì có thể nói chỉ có
Jeff là người đàn ông trẻ tuổi duy nhất trong lịch sử hình thành công ty có được
một chức vụ cao như thế
Hình như kế hoạch "một bước trong hai năm" của Jeff đã trở nên lỗi thời. Jeff
trăn trở suy nghĩ. Chức vụ “vice president” trong một công ty bảo hiểm tên tuổi đối


với nhiều người là niềm mơ ước cháy bỏng. Nhưng Jeff thì không chỉ muốn dừng
lại ở đó.
Jeff có thú đọc và nghiên cứu các dự báo về kinh tế vĩ mô. Và một lần anh đọc


được ở đâu đó nói rằng tiềm năng lớn nhất đối với kinh doanh là hệ thống thương
mại điện tử, rằng thương mại điện tử trong vòng mấy năm nữa sẽ phát triển lên
mức mấy nghìn phần trăm/năm, rằng những ai sớm tìm cho mình một hướng đi
vào đó sẽ có cơ hội khi thời cơ đến
Jeff không phải là người quá lãng mạn để thả hồn vào những giấc mơ. Ông
đang nhẩm tính con số tiền bạc thu được và muốn nghe được tiếng sột soạt đâu đó
của đồng đô la. Nếu như hàng triệu triệu người cũng ngồi trước màn hình máy tính,
trước một thế giới rộng mở như thế, tại sao ta không nghĩ đến việc mời chào họ
mua một món hàng gì nhỉ?
Trong ba tháng trời liền, Jeff luôn nghĩ về dự định mở một siệu thị bán hàng
qua mạng. Câu hỏi đầu tiên mà anh nghĩ đến là "Bán mặt hàng gì bây giờ?", không
ngần ngại ông tự trả lời: “Bán gì mà chẳng được”. Đầu tiên ông lên một danh sách
các mặt hàng định kinh doanh gồm hai chục món để rồi sau đó gạch hết đi chỉ để
lại 5 thứ mà ông cho là cần thiết: chương trình máy tính, videocassettes, compactdist và sách. Cuối cùng sau khi đắn đo suy tính, Jeff đã chỉ để lại một thứ là sách.
Kiếm khách hàng và mời chào để nhiều người mua một món với giá 20$ còn đơn
giản hơn là chỉ có một khách hàng mua món hàng với giá 200$ - Jeff nhẩm tính.
Và Jeff đã không chần chừ trước quyết định của mình. Anh hăm hở bắt tay vào
việc. 30 tháng 6 năm 1994 là ngày làm việc cuối cùng của anh tại DE Shaw & Co.
Bỏ lại tất cả phía sau, anh cùng vợ và con chó yêu của mình tiến về phía tây
Seattle, bang Washington. Anh quyết định chọn nơi này để lập nghiệp bởi cơ chế
thuế thoáng hơn nơi khác, vả lại ở đây tập trung khá đông lực lượng lao động lành
nghề.


Dựa vào mô hình và Bezos đã gọi là “hệ thống tối thiểu hóa sự hối tiếc” (regret
minimization framework), một nỗ lực của ông ấy để đẩy lùi sự hối tiếc vì đã không
tham gia vào công cuộc đổ xô đi tìm vàng (gold rush). Công ty khởi đầu là một cửa
hàng sách online tên là “Cadabra.com”, cái tên này bị cấm ngay sau đó vì nghe
giống “cadaver” (xác chết).
Bezos đặt lại tên công ty là “Amazon” dựa theo tên con sông lớn nhất thế giới.

thuê văn phòng vốn là một gara ô tô với giá rẻ, tuyển dụng 4 nhân viên trong đó có
vợ mình và đặt nhiệm vụ đúng 1 năm sau 30/6/1995 công ty sẽ bắt đầu công cuộc
kinh doanh sách qua mạng trên toàn lãnh thổ nước Mỹ.
Jeff đào tạo nhân viên theo hai hướng: một nửa nhân viên sẽ lo đàm phán với
các nhà xuất bản, các công ty bán buôn sách cũng như các chủ kho bãi, số còn lại
lo việc tìm nguồn tiêu thụ bằng các chương trình quảng cáo hoặc xây dựng phần
mềm tiêu thụ hàng trên mạng. Trước cả thời hạn đã định, trên mạng Internet đã
xuất hiện những quảng cáo đầu tiên về một loại hình kinh doanh mới - kinh doanh
sách qua mạng.
Và Jeff đã thành công ngay từ những ngày đầu tiên đó. Ban đầu cả chủ lẫn
nhân viên miệt mài đóng sách gửi qua đường bưu điện, nhưng sức không đủ, đơn
đặt hàng thì tới tấp, anh quyết định mở thêm các điểm giao hàng. Lợi nhuận thu
được thật như trong mơ! Chỉ trong vòng một năm đầu tiên kinh doanh, Jeff thu về
vài triệu Mỹ kim, và anh quyết định dùng số tiền này để phát triển mở rộng công
ty.
Năm 1994, công ty hợp nhất ở bang Washington, bắt đầu dịch vụ vào tháng 61995 và tái hợp nhất ở Delaware năm 1996. Cuốn sách đầu tiên Amazon.com bán
là cuốn “Các khái niệm lưu chất và những tương ứng sáng tạo: những mô hình cơ
chế cơ bản của ý nghĩ” của Douglas Hofstadter. Amazon.com phát hành cổ phiếu
lần đầu vào 15/5/1997, giao dịch trên sàn chứng khoán NASDAQ, giá IPO là 18


USD/1 cổ phiếu (1.5USD/1 cổ phiếu sau ba lần chia giá trị cổ phiếu trong những
năm cuối thập kỉ 90)
Kế hoạch kinh doanh ban đầu của Amazon rất lạ, công ty không kì vọng vào lợi
nhuận cho 4 đến 5 năm, chiến lược là hiệu quả. Amazon tăng trưởng ổn định trong
cuối những năm 1990 trong khi những công ty Internet khác tăng trưởng nhanh.
Các chiến lược:
1. Tập trung cung cấp những mặt hàng thiết yếu tiêu dùng hàng ngày
Trước đây, các mặt hàng mà Amazon cung cấp chủ yếu là liên quan đến các sản
phẩm như máy nghe nhạc, sách, thiết bị điện tử thì ngày nay nhu cầu mua sắm của

khách hàng đa dạng hơn Amazon đã chuyển sang các mặt hàng đáp ứng nhu cầu
hàng ngày của con người đa dạng hơn. Amazon đặt mục tiêu cung cấp hầu hết các
sản phẩm mà khách hàng có nhu cầu giống như biểu tượng logo cuẩ hang đã chứa
đựng đầy tham vọng muốn cung cấp tất cả những sản phẩm có trong bảng chữ cái.
Sau năm đầu tiên thành công ngoài dự tính Amazon mở rộng thêm các mặt hàng
như là bán thực phẩm, quần áo thời trang, đồ trang sức…Và người ta nói rằng đến
với Amazon sẽ có tất cả những thứ ban cần từ thượng vàng hạ cám. Con người
ngày càng chịu nhiều áp lực về thời gian hơn họ ít có thời gian đi mua sắm hơn.
Mặt khác công nghệ mua sắm mới làm cho họ thấy hứng thú hơn với phong cách
tiêu dùng mới. Do vậy chuyển trong tâm sang chiến lược bán các mặt hàng tiêu
dùng thiết yếu hàng ngày lại là một chiến lược khôn ngoan của Amazon.
2. Tập trung vào hình thức bán lẻ trực tiếp
Amazon và eBay là 2 “ông lớn” trong thi trường bán lẻ. Amazon có quan điểm
tiến chậm mà chắc. Trước đây, hai hãng có hai hướng đi khác nhau nên thường
tuyên bố họ bổ sung cho nhau chứ không cạnh tranh trực tiếp. eBay thiên về bán
đấu giá với hàng ngàn cửa hàng của người tiêu dùng lập ra, còn Amazon bán lẻ
trực tiếp.Nhưng nay, eBay chuyển trọng tâm sang bán hàng có giá cố định, còn


Amazon lại khuyến khích người tiêu dùng mở cửa hàng bán lẻ trên Amazon nên
rốt cuộc hai bên tiến lại gần nhau trong chiến lược phát triển
Jeff Bezos, khi trả lời phỏng vấn của tờ New York Times, cho rằng họ sẵn sàng
gieo hạt chờ năm bảy năm để hái quả. Trong khi eBay mở rộng ra hướng quảng
cáo rao vặt, thanh toán trực tuyến rồi điện thoại Internet, Amazon bỏ ra hàng trăm
triệu Đô la để xây dựng thương hiệu thành nơi bán lẻ đáng tin cậy - như sẵn sàng
trả tiền cho khách khi việc mua bán bị trục trặc.
3. Chính sách cung cấp những sản phẩm chất lượng cao
Khách hàng ngày càng khó tính hơn, yêu cầu của họ về sản phẩm chất lượng
cao và đáp ứng nhu cầu ngày ngày càng khắt khe. Họ ít quan tâm tới mức giá cả
của nó hơn (tuy nhiên là ở mức giá có thể chấp nhận được ) mà chủ yếu tập trung

vào chất lượng của nó. Nắm bắt được xu thế này Amazon tập trung cung cấp các
mặt hàng có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu, cam kết cung cấp cho khách hàng
những sản phẩm có chất lượng như đã giới thiệu trên website. Amazon đang tận
dụng lợi thế có sẵn của họ là cơ sở dữ liệu khách hàng từng giao dịch trên Amazon
để bán hàng trực tiếp đúng theo sở thích của từng người. Những ai từng mua hàng
qua Amazon đều biết chuyện sau đó hãng này thỉnh thoảng gửi thư mời chào các
sản phẩm tương tự hay sản phẩm họ từng tìm kiếm, tìm hiểu trên Amazon. Hãng
này còn gửi thư mời khách hàng nhận xét về sản phẩm đã mua. Điều này càng
khẳng định lòng tin của khách hàng vào sản phẩm của amazon. Dần dần Amazon
đã lôi kéo những khách hàng vốn trung thành với ebay (đối thủ truyền kiếp của
Amazon) về phía mình. Hơn nữa, Amazon đã dành được cả lợi thế trên cả những
khía cạnh mà trước đây được xem như là lợi thế của eBay.
4. Tốc độ cung ứng sản phẩm nhanh
Việc áp dụng thương mại điện tử đã làm cho việc giao dịch trên Amazon được
tiến hành một cách nhanh chóng và tiện lợi. Bezos đã nhận định rằng thương mại
điện tử chính là yếu tố sống còn của Amazon. Là công ty đầu tiên tiến hành việc


bán lẻ qua mạng Amazon đã biết tận dụng ưu thế của mình nhờ việc ứng dụng
thành tựu của công nghệ thông tin vào trong việc quản lí kho hàng, mạng lưới phân
phối rộng khắp đảm bảo sản phẩm đến với khách hàng với thời gian nhanh nhất có
thể. Thời gian cung ứng sản phẩm của Amazon đã giảm từ 5, 6 ngày xuống còn 1
đến 2 ngày. Nhờ vậy mà lợi nhuận của họ ngày càng tăng lên
5. Chiến lược khai thác e_marketing của Amazon
Trong quá trình xây dựng và phát triển thương hiệu của mỗi doanh nghiệp, bên
cạnh những phương tiện quảng cáo truyền thống như TV, báo, tạp chí, Internet
đóng vai trò quan trọng và là một phương tiện hiệu quả, tiết kiệm trong việc xây
dựng nhận thức của người tiêu dùng đối với một thương hiệu. Người làm
marketing có thể sử dụng tất cả những ứng dụng của trang web, nhằm quảng cáo,
tăng cường quan hệ với công chúng, xây dựng những cộng đồng trên mạng để tạo

những ấn tượng tốt cho thương hiệu.
Marketing điện tử khuyến khích người tiêu dùng tham gia tích cực vào phát
triển thương hiệu, đọc thông tin về sản phẩm, hướng dẫn cụ thể cách sử dụng. Hiệu
quả phát triển thương hiệu của những tập đoàn lớn như Fedex, Charles Schwab,
The New York Times, Nike, Levi Strauss, Harley Davidson đã chứng minh vai trò
của marketing điện tử trong chiến lược marketing thế kỷ 21.
- Marketing trực tiếp: Nhiều nhà marketing đặt ra những mục tiêu cụ thể hơn trong
chiến lược marketing trên mạng là sử dụng Internet thực hiện marketing trực tiếp.
Internet tiết kiệm tối thiểu chi phí và đem lại hiệu quả lớn hơn nhiều so với phương
pháp gửi quảng cáo bằng thư truyền thống: không tem, không phong bì, không tốn
giấy và các chi phí khác. Trên cơ sở dữ liệu về người tiêu dùng, nhà marketing có
thể gửi hàng triệu e-mail bằng một lần nhấn chuột, hoặc có thể sử dụng chương
trình tự động gửi e-mail cho từng nhóm khách hàng hoặc từng khách hàng những
nội dung phù hợp với đặc điểm nhóm này.


- Bán hàng trên mạng: Người tiêu dùng có thể tìm thấy mọi thứ mình cần trên
mạng từ chocolate đến ô-tô. Amazon.com từng có doanh số bán sách 32 triệu USD
trong năm đầu khai trương cửa hàng trên mạng.
- Hỗ trợ tiêu dùng: Hỗ trợ tiêu dùng và khách hàng là một trong những ưu điểm
quan trọng của marketing điện tử mà nhiều công ty không chú ý đến. Hiện nay, hỗ
trợ tiêu dùng mới chỉ dừng lại ở dạng sơ khai dưới hình thức các câu hỏi khách
hàng thường hỏi (FAQs-Frequent Asked Questions). Những hình thức khác doanh
nghiệp có thể áp dụng là trả lời thắc mắc của khách hàng, email trả lời tự động,
thông tin cập nhật, diễn đàn người tiêu dùng, tán chuyện trên mạng…
- Điều tra thị trường: Internet mang lại hiệu quả cao trong nghiên cứu thị trường,
thông qua xây dựng hệ thống dữ liệu khách hàng cập nhật và đầy đủ. Điều tra thị
trường qua mạng tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp và thời gian cho khách hàng.
Đồng thời, độ tin cậy của điều tra cũng có thể được kiểm tra chặt chẽ bằng cách kết
hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau.

- Theo dõi hành vi người tiêu dùng: Máy chủ cho phép doanh nghiệp theo dõi từng
động thái của khách hàng mỗi khi khách hàng xâm nhập vào mạng của công ty:
thời gian trên mạng, mở những trang web nào, chọn và mua những sản phẩm gì, đã
mở trang web có sản phẩm đó bao nhiêu lần, quan tâm tới nhóm sản phẩm nào, ưa
thích màu gì, thường chọn cỡ sản phẩm nào… Thông tin này cho phép người làm
marketing giới thiệu sản phẩm phù hợp hoàn toàn với nhu cầu của từng cá nhân
khách hàng. .
6. Chiến lược hậu cần
- Hệ thống kho hàng
Khi nói đến hệ thống kho tàng người ta thường nghĩ ngay đến các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh truyền thống.Thế nhưng Amazon đã tạo ra một
điểm khác biệt bằng việc xây dựng một hệ thống kho hàng hoàn hảo cho một
doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức thương mại điện tử. Việc Amazon
quyết định tự xây dựng hệ thống lưu kho bãi là một quyết định không mấy dễ


dàng. Với giá trị khoảng 50 triệu USD cho mỗi nhà kho, việc xây dựng và vận
hành hệ thống nhà kho quả là tốn kém.
Để có thể kinh doanh thành công, Amazon phải phát hành 2 tỷ USD trái phiếu
công ty. Bề ngoài có vẻ như Bezos không phải đang xây dựng một công ty dot.com
đích thực vì hãng lại có hệ thống nhà kho hữu hình như công ty bán lẻ thông
thường. Nhiều nhà đầu tư bắt đầu phê phán mô hình kinh doanh của Amazon là
không khác gì các công ty bán lẻ truyền thống, chỉ khác mỗi chỗ là có một trang
web ấn tượng hơn mà thôi.
Tuy nhiên, nếu ai đó đến thăm quan 6 nhà kho của Amazon ngày nay, người ta
có thể dễ dàng nhận ra các nhà đầu tư đã sai lầm khi phê bình mô hình này của
Bezos. Các kho hàng của Amazon không hề giống với các kho hàng truyền thống
mà được tin học hoá cao độ. Các nhà kho của Amazon sử dụng công nghệ cao đến
nỗi chúng đòi hỏi rất nhiều dòng mã hoá để vận hành và phức tạp không kém trang
web của Amazon. Máy tính bắt đầu quy trình bằng cách gửi tín hiệu thông qua

mạng không dây tới cho công nhân để họ biết cần phải lấy thứ gì xuống khỏi giá;
sau đó họ đóng gói mọi thứ theo trình tự để gửi đi. Trong quá trình gửi hàng, máy
tính tạo ra vô số dòng dữ liệu từ những sản phẩm bị đóng gói sai tới thời gian chờ
đợi và các nhà quản lý có nhiệm vụ phải theo dõi sát sao hệ thống dữ liệu này.
Bezos thường đi thăm mỗi nhà kho một tuần liền vào quý cuối năm. Đối với các
nhân viên thì thời gian này quả là vất vả khi ông chủ tới thăm họ. Bezos đặt ra
hàng loạt câu hỏi về hệ thống giải thuật để xử lý đơn hàng, tốc độ xử lý năng suất,
và không bao giờ vừa lòng khi chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Tất cả những điều trên đây lý giải một luận điểm quan trọng Bezos kiên trì theo
đuổi từ khi ông khởi sự Amazon mà đến bây giờ mọi người mới tin: "Trong một
thế giới hữu hình, mọi người đều nghĩ địa điểm là quan trọng nhất. Đối với chúng
tôi, 3 thứ quan trọng nhất là: công nghệ, công nghệ và công nghệ." Amazon chi


tiêu nhiều tiền vào phát triển các phần mềm tin học. Nhờ việc chuyển sang sử dụng
hệ điều hành miễn phí Linux, hãng giảm được chi phí công nghệ tới 20%. Amazon
còn vượt lên các nhà bán lẻ truyền thống khác bằng cách mở rộng hợp tác với các
đối thủ cạnh tranh
- Tốc độ cung ứng.
Amazon rất chú trọng việc cải thiện hoạt động chăm sóc khách hàng. Thời gian
giao hàng của Amazon đã giảm từ 5-6 ngày xuống còn 1-2 ngày. Điều này đã giúp
Amazon vượt lên đối thủ eBay. Trong quý 4/2008, lợi nhuận của Amazon đã tăng
1/3 so với eBay. Ban đầu việc cung ứng là rất nhỏ và tập trung tai một số điểm đến
khi lượng đặt hàng tăng lên Bezos đã quyết định mở thêm các điểm giao hàng
nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
7. Chiến lược phát triển
a. Định hướng chiến lược:
- Đa dạng hóa đồng tâm: từ việc kinh doanh sách Amazon đã tham gia kinh doanh
nhiều sản phẩm mới như: quần áo, điện tử,đồ chơi cho trẻ em,đồ trang sức,
thựcphẩm…

- Đa dạng hóa tổ hợp: nhảy sang lĩnh vực kinh doanh trực tuyến Bên cạnh cửa
hàng trực tuyến, amazon.com đã mở rộng hoạt động ra rất nhiều hướng khác nhau
như: cửa hàng chuyên dụng, ví dụ như cửa hàng kỹ thuật, đồ chơi. Amazon.com
cũng mở rộng dịch vụ biên tập trong nhiều lĩnh vực khác nhau thông qua mạng
lưới các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực. Amazon.com cũng mở rộng danh mục
sản phẩm thêm hàng triệu đầu sách đã qua sử dụng và không còn xuất bản nữa.
Amazon.com cũng mở rộng sang các sản phẩm ngoài sách bản, như liên kết với
Sony Corp. Amazon.com liên tục bổ sung các tính năng khiến quá trình mua sắm
trên mạng hấp dẫn hơn đối với khách hàng. Mục “Gift Ideas” đưa ra các ý tưởng
về quà tặng mới mẻ, hấp dẫn theo từng thời điểm trong năm. Mục “Community”
cung cấp thông tin về sản phẩm và những ý kiến chi xẻ của khách hàng với nhau.
Mục “E-card” cho phép khách hàng chọn lựa và gửi những bưu thiếp điện tử miễn


phí cho bạn bè, người thân của mình. Amazon.com đã và đang liên tục bổ sung
thêm những dịch vụ rất hấp dẫn như trên cho khách hàng của mình.
Amazon.com cũng mở rộng sang dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp như sàn giao dịch
và đấu giá điện tử. Amazon Auctions cho phép các cá nhân và doanh nghiệp nhỏ
tham gia đấu giá trực tuyến trên khắp thế giới. Dịch vụ zShops cho các doanh
nghiệp thuê gian hàng trên Amazon.com với mức phí hợp lý hàng tháng, cho phép
các doanh nghiệp nhỏ hiện diện trên mạng và có thể sử dụng hệ thống thực hiện
đơn hàng hàng đầu của Amazon.com. Khách hàng có thể mua sắm trên
amazon.com từ PCs, cell phones, PDAs, Pocket PCs và dịch vụ điện thoại 121 của
AT&T.
Hệ thống CRM của Amazon.com hoạt động hiệu quả thông qua các hoat động
one-to-one marketing. Từ năm 2002, khi khách hàng vào trang web của amazon từ
lần thứ 2 trở đi, một file cookie được sử dụng để xác định khách hàng và hiển thị
dòng chào hỏi “Welcome back, Tommy”, và đưa ra những gợi ý mua sắm dựa trên
các hoạt động mua sắm trước đó của khách hàng. Amazon cũng phân tích quá
trình mua sắm của các khách hàng thường xuyên và gửi những email gợi ý về các

sản phẩm mới cho khách hàng. Thống kê ý kiến, đánh giá của khách hàng đối với
các sản phẩm cho phép khách hàng đưa ra các lựa chọn chính xác và nâng cao
lòng tin của khách hàng trong quá trình mua sắm tại Amazon.con hơn hẳn so với
mua sắm truyền thống. Tất cả những nỗ lực này của Amazon.com nhằm tạo cho
khách hàng sự thoải mái và yên tâm hơn khi mua hàng đồng thời khuyến khích
khách hàng quay lại mua sắm tiếp. Bên cạnh công cụ tìm kiếm được xây dựng
tinh tế và hiệu quả, Amazon.com còn có hệ thống kho hàng khổng lồ giúp đem lại
năng

lực

cạnh

tranh

hơn

hẳn

so

với

các

đối

thủ

cạnh


tranh.

Từ năm 1997, Amazon.com triển khai hoạt động liên kết với các công ty khác,
đến năm 2002 Amazon.com đã có hơn 500.000 đối tác hợp tác giới thiệu khách
hàng cho Amazon.com với mức hoa hồng 3-5% trên các giao dịch được thực hiện.


Từ năm 2000, Amazon.com cũng triển khai hoạt động hợp tác với nhiều đối tác
khác như Carsdirect.com, Health and Beauty với Drugstore.com, Toys”R”Us,
Amazon.com cũng ký hợp đồng với tập đoàn Borders Group Inc., cho phép khách
hàng mua hàng trên amazon.com đến lấy hàng tại các cửa hàng của Borders.
Ngược lại, Amazon.com cũng trở thành cửa hàng trên web của các tập đoàn bàn lẻ
toàn cầu như Target và Circuit City. Amazon cũng có trang công cụ search của
riêng mình tại địa chỉ a9.com
Khi bong bóng dotcom nổ, nhiều công ty điện tử làm ăn thất bát, Amazon
vẫn đứng vững .Vào 1999, tạp chí Time xếp Bezos là “Nhân vật của năm” ghi nhận
thành công của công ty trong việc quảng bá mua hàng trực tuyến. Lợi nhuận đầu
tiên trong quý IV 2001: 5 triệu USD, chỉ 1 cent/cổ phiếu, doanh thu hơn 1 tỷ USD
nhưng một cách tượng trưng lợi nhuận thì vẫn quan trọng
Công ty duy trì có lợi nhuận, 2003 thu nhập sau thuế là 35.3 triệu USD, 588.50
triệu $ (2004), 359 triệu $ (2005), 190 triệu $ (2006) (bao gồm đã tính cả 662 triệu
$ chi cho R & D). Mặc dù vậy lợi nhuận lũy kế vẫn là âm. 9/2007 thâm hụt lũy kế
ở mức 1.58 tỷ $. Doanh thu tăng nhờ vào đa dạng hóa sản phẩm.
Vào 21/11/2005, Amazon tham gia chỉ số S&P 500, thay thế cho AT&T sau khi
AT&T sát nhập với SBC communications. Vào 31/12/2008, Amazon được vào chỉ
số S&P100, thay cho Merrill Lynch sau khi nó được Ngân hàng trung ương Mỹ
tiếp quản.Hiện nay Amazon thu được hàng trăm triệu Mỹ kim lợi nhuận mỗi quý.
Và kế hoạch ngày nào Jeff lập ra: cứ hai năm một lần sẽ phải có một thay đổi
nào đó trên đường công danh của mình đối với Jeff giờ đây cũng không là ngoại lệ.

Jeff quyết định trao quyền thống soái của mình cho Joseph Gall - người đã từng
đầu quân cho Black & Decker - một đại gia trong lĩnh lĩnh vực vật liệu xây dựng
tại Mỹ để về nghỉ hưu ở tuổi 35.


Từ năm 2000, phù hiệu của Amazon là một mũi tên chỉ từ A đến Z, thể hiện sự
hài lòng của khách hàng và mục tiêu của công ty là có mọi loại sản phẩm trong
bảng chữ cái.
Hiện tại, trụ sở toàn cầu của công ty đặt tại đồi Beacon – Seattle. Công ty có
các văn phòng rải khắp các khu vực khác của Seattle rộng lớn bao gồm Union
Station và trung tâm Columbia. Amazon vừa công bố kế hoạch chuyển trụ sở chính
về Nam hồ Union lân cận Seattle, bắt đầu vào giữa 2010, hoàn tất vào 2011. Sự di
chuyển này sẽ tập hợp tất cả nhân viên tại Seattle vào khuôn viên tòa nhà 11 tầng
mới.
Trên toàn thế giới, Amazon có trên 900000 thành viên trong chương trình
những cộng tác viên của nó. Cộng tác viên có thể truy cập danh mục tài liệu của
Amazon một cách trực tiếp trên website của họ bằng việc sử dụng web của
Amazon (AWS). Một sản phẩm mới cho các cộng tác viên – astore – cho phép các
cộng tác viên đặt một tập hợp con những sản phẩm của Amazon vào bên trong
hoặc liên kết chúng với những website khác. Amazon công bố có hơn 1.3 triệu
nhân viên bán hàng qua web của Amazon trên toàn thế giới vào năm 2007. Bán
hàng trên Amazon đã trở thành phổ biến khi Amazon mở rộng danh mục sách đa
dạng hơn và xây dựng các chức năng khác nhau hỗ trợ bán sách.
Tên miền amazon.com thu hút ít nhất 615 triệu lượt người ghé thăm hàng năm
theo nghiên cứu của Compete.com. Con số này gấp hai lần của Walmart.com.
Amazon cho phép người sử dụng đăng tải bài bình luận trên trang web của mỗi sản
phẩm. Cũng là một phần của bình luận sản phẩm, người sử dụng phải xếp hạng sản
phẩm dựa vào thang xếp loại từ một đến năm sao. “Search Inside the Book” là một
tính năng cho phép khách hàng tìm kiếm những từ khóa trong đoạn văn hoàn chỉnh
của nhiều cuốn sách trong Catalog. Tính năng này bắt đầu với 120000 đề mục (tức

33 triệu trang văn bản) vào 23/10/2003. Hiện giờ có khoảng 250000 cuốn sách


nằm trong chương trình này. Amazon đã hợp tác với khoảng 130 nhà xuất bản để
cho phép người sử dụng thực hiện thao thác tìm kiếm này. Để tránh sự vi phạm bản
quyền, Amazon.com không hỗ trợ những văn bản có thể đọc được bằng máy tính
hoặc những bức tranh từ các trang đó, không cho phép việc in ấn và đặt ra các giới
hạn về số trang của một cuốn sách mà một người sử dụng đơn lẻ có thể truy cập.
Một tác giả có thể xem sách của anh ta có được đọc trực tuyến hay không bằng
cách gõ một vài chữ cái. Thêm vào đó, khách hàng có thể mua một số sách trực
tuyến qua chương trình “Amazon upgrade”, mặc dù sự lựa chọn hiện nay còn khá
là giới hạn. Theo như thông tin từ diễn đàn của Amazon.com, Amazon có được
40% doanh số bán hàng từ các chi nhánh mà họ gọi là cộng tác viên, và bên thứ ba
- người mà liệt kê và bán những sản phẩm trên web Amazon. Các cộng tác viên
nhận được tiền hoa hồng từ việc giới thiệu khách hàng bằng cách đặt đường link
của Amazon hoặc những sản phẩm đặc biệt của Amazon vào website của họ. Nếu
có được doanh thu từ việc này, cộng tác viên sẽ được nhận hoa hồng từ Amazon.
8. Cách thức thực hiện hội nhập
a. Đa dạng hóa theo chiều ngang: từ việc chỉ là một cửa hàng bán lẻ trên mạng
amazon đã khuyến khích người tiêu dung mở cửa hàng bán lẻ trên trang của
mình.
b. Thôn tính các công ty khác:
- Tháng 4/1998, Amazon mua “cơ sở dữ liệu phim Internet” (IMDb).
- Tháng 8/1998, Amazon đã mua lại Cambridge, Massachusetts – based Planet All
bằng 800000 cổ phiếu của Amazon. Planet All điều hành một hệ thống dữ liệu về
sổ địa chỉ, lịch năm, và dịch vụ nhắc nhở. Trong cùng thương vụ này, Amazon
cũng mua được thung lũng mặt trời – Junglee.com.
- Tháng 6/1999, Amazon mua Alexa Internet, Accept.com và Exchange.com với giá
khoảng 645 triệu đô.
- Năm 2003, mua đối thủ bán lẻ đĩa nhạc “CD now”

- Năm 2004, mua Toyo.com, một website thương mại điện tử của Trung Quốc. Tập
trung vào lĩnh vực tham khảo và xây dựng những công nghệ tiến bộ……


II. Các dòng sản phẩm
Amazon đã mở các nhánh bán lẻ đĩa nhạc, băng Video và đĩa DVD, phần
mềm, điện tử tiêu dùng, đồ nhà bếp, dụng cụ, thiết bị làm cỏ, làm vườn, đồ chơi trò
chơi, đồ trẻ em, quần áo, đồ thể thao, thực phẩm, trang sức, đồng hồ, thiết bị chăm
sóc cá nhân và y tế, sản phẩm làm đẹp, nhạc cụ, vải vóc, rau quả, nguyên liệu công
nghiệp và khoa học…
Công ty đã vận hành sàn đấu giá A.com, dịch vụ đấu giá vào 3/1999. Tuy
nhiên nó đã thất bại trong việc bào mòn sự phát triển hàng mạnh của kẻ di tiên
phong trong ngành: eBay. Sàn đấu giá Amazon tiếp sau đó là kinh doanh thị trường
giá cố định gọi là zShop vào 9/1999 và liên doanh Sotheby’s/Amazon gọi là
Sotheby.amazon.com vào tháng 11.
Amazon không còn nhắc đến sàn đấu giá hay zshop trong những trang chính
và trang trợ giúp người bán bây giờ cũng chỉ nhắc đến Marketplace. Đường link cũ
đến zshop bây giờ nối trực tiếp với trang chủ còn link cũ đến sàn đấu giá đưa
người dùng đến một trang về lịch sử các giao dịch. Danh sách sản phẩm mới không
còn nữa cho những dịch vụ này.
Mặc dù zshop đã không tồn tại lâu được như mong muốn nhưng nó vẫn đặt
nền tảng cho thành công lớn của dịch vụ thị trường Amazon tung ra năm 2001, để
khách hàng bán sách cũ, CD, DVD, những sản phẩm khác cũng như sản phẩm mới.
Bây giờ đối thủ chính của Amazon Marketplace là dịch vụ Haff.com của eBay.
Đầu tháng 8/2005, Amazon bắt đầu bán sản phẩm dưới nhãn hiệu riêng:
“Pinzon”. Những ứng dụng thương hiệu mở đầu gợi ra cho công ty ý tưởng tập
trung vào dệt may, dụng cụ nhà bếp và những khóa gia đình khác. Vào tháng 32007, công ty áp dụng mở rộng thương hiệu,để bao quát và đa dạng danh mục hàng
hóa. Để đăng ký thiết kế mới có từ PINZON viết cách điệu và chữ O ở vị trí kim
đồng hồ chỉ một giờ. Danh mục các sản phẩm đăng ký dưới thương hiệu đã phát



triển ra bao gồm cả những loại như: sơn, thảm, giấy dán tường, làm tóc,
vải,footware, dụng cụ làm đẹp, trang sức.
Vào 16/5/2007, Amazon công bố dự định triển khai cửa hàng âm nhạc trực
tuyến. Cửa hàng bắt đầu tại Mỹ vào 25/9/2007, kinh doanh việc tải nhạc MP3
không quản lý quyền kỹ thuật số (DRM). Điều này rất đáng lưu ý bởi vì nó là dịch
vụ bán online dầu tiên, nhạc DRM miễn phí từ cả bốn công ty thu âm.
Vào tháng 8/2007, Amazon công bố Amazon Fresh- dịch vụ thực phẩm bán
các loại thực phẩm tươi sống và ăn sẵn. Đơn hàng của khách có thể được phân phát
hoặc gửi hàng đến tận nhà vào sáng sớm.
Ban đầu sự giao hàng bị hạn chế đến người dân ở Mercer Island, bang
Washington rồi sau đó mở rộng đến một số ZIP codes ở Seattle proper. AmazonFresh vận hành ở một số địa điểm được chọn ở vùng phụ cận của Bellevue và
Kirkland từ hè năm 2007 đến đầu năm 2008.
Năm 2008 Amazon mở rộng thêm lĩnh vực sản xuất phim và gần đây đang
đầu tư cho phim “The stolen Child” hợp tác với hãng 20th Century Fox.
III. Kết quả kinh doanh của amazon
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái kéo dài, nhiều doanh nghiệp lâm vào
hoàn cảnh khó khăn nhưng Amazon vẫn tăng trưởng vững vàng trong quý đầu năm
2012.Theo kết quả điều tra của Susan Kella, cộng tác viên của tạp chí Forbes,
doanh số bán hàng qua mạng của Amazon đạt được 13,2 tỉ USD trong quý đầu năm
nay, lớn hơn cả doanh số 10 tỉ USD trong một năm trước đây, tăng 34% so với
doanh số bán hàng của Kindle Fire được giới thiệu trong mùa thu.
Năm 2013 Amazon đầu tư vào hệ thống vận chuyển, dịch vụ điện toán đám
mây và các dòng máy tính bảng, máy đọc sách Kindle. Amazon đang hy sinh lợi
nhuận ngắn hạn để tăng trưởng. Kết quả kinh doanh của Amazon đã khiến các nhà
đầu tư lạc quan, cổ phiếu Amazon đã tăng 8,4% trong phiên giao dịch thỏa thuận.
Tổng cộng cả năm, cổ phiếu này đã tăng 32%. Hệ số giá cổ phiếu trên lợi nhuận


ước tính cả năm (P/E) của Amazon là 125, cao gấp nhiều lần eBay (19). Bezos

đang đầu tư mạnh vào việc xây các kho hàng gần nơi khách hàng ở. Đây là chiến
lược giúp hãng giảm chi phí vận chuyển. "Điểm bất lợi với Amazon là chi phí vận
chuyển của họ quá lớn. Việc đó rất khó cải thiện khi họ tăng quy mô kinh doanh,
do chi phí lựa chọn, đóng gói và gửi đi các đơn hàng luôn biến động". Sức mạnh
lớn nhất của Amazon.com là nhà cung cấp bán lẻ đầu tiên bán sách trên mạng
Internet với dịch vụ hết sức ấn tượng, bao gồm cả dịch vụ mới như “1-Click”
shopping với lượng đầu sách khổng lồ. Amazon luôn biết cách cải tiến dịch vụ,
theo thống kê đến 23/10/2003,Amazon.com có trên 120.000 cuốn sách có mặt
trong catalogue tìm kiếm nội dung toàn phần,
Theo báo cáo mới nhất của Công ty nghiên cứu thương mại điện tử Internet
Retailer, doanh thu thương mại của Amazon năm 2013 đứng đầu bảng xếp hạng tại
Mỹ với 67,9 tỷ USD, nhiều hơn 49,6 tỷ USD so với nhà bán lẻ trực tuyến lớn thứ
hai Apple (doanh thu 18,3 tỷ USD). Các tập đoàn bán lẻ truyền thống như Staples
hay Walmart rơi xuống vị trí thứ ba và thứ tư. Netflix xếp thứ 7 trong top 10 với
4,4 tỷ USD doanh thu, trong khi đó, Dell đứng ở vị trí cuối cùng của top 10 với
doanh thu 3,6 tỷ USD. Tổng doanh thu Amazon.com trong quý I/2014 đã đạt 19,7
tỷ USD và Amazon lập kỷ lục bán hàng cuối năm 2013 với 246 vật phẩm/giây.
Ngày 27/12 Amazon đã có hơn 1 triệu người trở thành thành viên dịch vụ Prime
trong tuần thứ 3 của tháng 12/2013.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×