Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận Toàn cầu hóa và những tác động đến nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.56 KB, 25 trang )

1. Khái niệm và bản chất của toàn cầu hóa kinh tế:
- Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế:
Về mặt kinh tế, có thể hiểu toàn cầu hóa (TCH) là quá trình lực lượng
sản xuất (LLSX) và quan hệ kinh tế vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm
vi từng khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu. Trong đó, hàng hóa, vốn, tiền
tệ, thông tin, lao động,... vận động thông thoáng; sự phân công lao động
mang tính quốc tế; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen
nhau hình thành mạng lưới quan hệ đa tuyến vận hành theo các "luật chơi
chung" được hình thành qua sự hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên
trong cộng đồng quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hóa, các nền kinh tế quan
hệ ngày càng mật thiết với nhau, tùy thuộc lẫn nhau.
- Bản chất của toàn cầu hóa kinh tế (TCH KT)
Cũng như bất kỳ hiện tượng chính trị, kinh tế, xã hội khác, toàn cầu
hóa kinh tế phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước, các lực lượng
tham gia quá trình đó. Từ sau khi Liên Xô tan rã, Chủ nghĩa xã hội
(CNXH) bị xóa bỏ ở các nước Đông Âu, tương quan lực lượng trên thế giới
thay đổi không có lợi cho các lực lượng cách mạng. Về kinh tế, các nước
công nghiệp phát triển nhất là Mỹ chi phối nền kinh tế thế giới từ sản xuất
tới vốn, công nghệ, xuất khẩu, dịch vụ, thông tin và giữ vai trò chủ chốt
trong nhiều tổ chức kinh tế. Từ đó, Mỹ và các nước công nghiệp phát triển
tìm mọi cách áp đặt quyền thống trị, "các luật chơi" có lợi cho chúng. Tính
chất đế quốc của quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra hiện nay và
ngày càng thể hiện rõ. Trong văn kiện Đại hội IX - Đảng ta đã nhấn mạnh:
TCH KT là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia. Xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư
bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích
5


cực, vừa có mặt tiêu cực; vừa có hợp tác vừa có đấu tranh...
2. Tính hai mặt của quá trình TCH KT:


TCH KT là xu thế khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới.
Tính tất yếu khách quan của TCH KT được thúc đẩy bởi các tiến bộ mạnh
mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là sự phát
triển như vũ bão của công nghệ thông tin. TCH KT có sức hấp dẫn vì nó
làm cho nền kinh tế của các quốc gia nếu khéo vận dụng trong chiến lược
hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của mình, được bổ sung những yếu tố
mới, hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả hơn, thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế trong nước. TCH KT đang ngày càng lôi cuốn nhiều
dân tộc, quốc gia có trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị - xã hội
khác nhau tham gia. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay và trong nhiều
năm tới TCH KT chưa phải là công thức tối ưu cho tất cả các quốc gia, dân
tộc. TCH KT chưa phải là môi trường tốt đẹp mà vào đó ai cũng thắng, ai
cũng có lợi như nhau và không ai phải trả giá. Xu thế TCH KT diễn ra
không trôi chảy, dễ dàng mà phải thông qua quá trình vừa hợp tác vừa đấu
tranh giữa hai nhóm nước: các nước phát triển và các nước đang phát triển,
trong sự thống nhất và mâu thuẫn giữa TCH và liên kết khu vực, giữa tự do
hóa và bảo hộ mậu dịch...
2.1. Những tác động tích cực của TCH KT:
- TCH KT thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của LLSX, đưa lại sự tăng
trưởng cao cho nền kinh tế thế giới. Trong đó, cơ cấu kinh tế thế giới có
bước chuyển dịch mạnh về chất: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo
và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và
tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội loài
người. Các nước có nền kinh tế chậm phát triển nhờ tham gia TCH KT họ
6


có điều kiện tiếp nhận các nguồn lực phát triển từ bên ngoài như vốn đầu tư
nước ngoài, công nghệ chuyển giao, kinh nghiệm tổ chức quản lý... khai
thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước như lao động, đất

đai, tài nguyên... thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế trong nước.
- TCH KT thực chất là mở rộng và phát triển thị trường toàn cầu. Sự
giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào quan thuế và phi quan thuế
bị dỡ bỏ, nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của
các nước. Nửa đầu thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán của thế giới tăng 2 lần,
đến nửa sau thế kỷ XX, do cắt giảm hàng rào quan thuế và phi quan thuế
nên kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 50 lần. Sự phát triển mạnh mẽ
thị trường toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hóa đã cho phép các nước
đang và chậm phát triển có thể tận dụng các nguồn lực của mình, nhất là
nguồn lực lao động dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một số ngành
công nghiệp chế tạo và dịch vụ.
- Dưới tác động của quá trình TCH, những thành tựu của khoa học công nghệ được chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi tạo điều
kiện cho các nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận
với những thành tựu mới của khoa học - công nghệ để phát triển.
- Cùng với quá trình TCH KT, nguồn vốn đầu tư quốc tế tăng mạnh
góp phần điều hòa dòng vốn theo lợi thế so sánh tạo điều kiện cho các nước
tiếp cận được nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài, hình thành hệ thống
phân công lao động quốc tế có lợi cho cả bên đầu tư và bên nhận đầu tư.
(Tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài năm 1997 gấp 800 lần năm 1914)
- TCH KT thúc đẩy sự cải cách sâu rộng các nền kinh tế quốc gia và
sự hợp tác khu vực để các chủ thể này có thể nâng cao vị thế cạnh tranh và
phát triển được trong nền KTTT thế giới.
7


- TCH làm cho mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ
toàn cầu góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng
cao hiệu quả kinh doanh, sự giao lưu thuận tiện nhanh chóng...
- TCH KT mang lại lợi ích nhiều mặt cho các tầng lớp dân cư. Mọi
người có điều kiện tận hưởng các sản phẩm và dịch vụ mới, rẻ từ khắp nơi

trên thế giới. Đặc biệt những người lao động ở các nước nghèo có cơ hội
tiếp cận với thị trường lao động quốc tế, tham gia vào hệ thống phân công
lao động quốc tế.
- Về mặt chính trị, quá trình TCH KT làm gia tăng tính tùy thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia có lợi cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và
phát triển.
Tóm lại, dưới tác động của TCH KT, thế giới ngày nay trở thành một
thế giới thống nhất trong đa dạng. Các nền văn hóa giao thoa, con người
ngày càng có điều kiện hướng tới sự phát triển toàn diện. Cùng với TCH là
xu thế khu vực hóa. Xu thế khu vực hóa phản ánh sự khác biệt và mâu
thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia, khu vực trong một thế giới đa dạng,
trong đó sự hợp tác và liên kết quốc tế ngày càng tăng lên nhưng cuộc đấu
tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, khu vực cũng rất gay gắt và quyết liệt.
2.2. Những tác động tiêu cực của TCH KT:
Những tác động tiêu cực của quá trình TCH KT bắt nguồn từ nguyên
nhân cơ bản là các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ hiện còn chiếm
ưu thế trong nền kinh tế thế giới, thao túng quá trình TCH KT, lợi dụng quá
trình TCH KT để tăng cường bóc lột các nước nghèo thu lợi nhuận độc
quyền cao. Có thể nêu ra một số tác động tiêu cực sau đây của quá trình
TCH KT:

8


- TCH KT thông qua tự do hóa thương mại thường đem lại lợi ích
lớn hơn cho các nước công nghiệp phát triển vì sản phẩm của họ có chất
lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, do đó có sức cạnh tranh cao dễ chiếm
lĩnh thị trường. Mặc khác, tuy nói là tự do hóa thương mại song các nước
công nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (như
áp dụng hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, môi trường...).

Tuy có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát triển
thường không chuyển giao những thành tựu mới nhất mà thậm chí là
chuyển giao những công nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết giá trị vào các
nước chậm phát triển. Điều này tác động xấu đến sự phát triển kinh tế ở các
nước chậm phát triển và dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ở các
nước này.
- TCH KT tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị và an ninh quốc
gia. Nó tạo ra nguy cơ cho các nước chậm và đang phát triển bị lệ thuộc
vào kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị, gây nguy hại đến chủ
quyền dân tộc và an ninh quốc gia. Thông qua con đường trao đổi, hợp tác
kinh tế, đầu tư, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, các
thế lực đế quốc đứng đầu là Mỹ muốn áp đặt hệ tư tưởng tư sản vào các
nước khác, thực hiện "diễn biến hòa bình" thay đổi chế độ xã hội theo
hướng thân phương Tây. Đối với các nước XHCN, chúng tìm cách xóa bỏ
chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản...
Thông qua con đường kinh tế, Mỹ và các thế lực đế quốc tìm cách
gây sức ép với nhiều nước khác trong đó có các nước đi theo con đường
XHCN về những vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo..., dùng
mọi hình thức để can thiệp vào công việc nội bộ của nước đó.

9


- TCH KT làm trầm trọng thêm những bất công xã hội, làm sâu thêm
hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Những nước
được hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình TCH KT là những nước có nền
KTTT phát triển (Mỹ, EU, Nhật...), những nước chịu nhiều thiệt thòi nhất
trong quá trình TCH KT là những nước có nền kinh tế đang và chậm phát
triển, các yếu tố của KTTT chưa được hình thành đồng bộ.
Theo báo cáo của chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP),

toàn thế giới vẫn còn hơn 1,2 tỷ người nghèo. Hiện tại, dân chúng ở 85
quốc gia có mức sống thấp hơn so với cách đây 10 năm. Các nước công
nghiệp phát triển, với khoảng 1,2 tỷ người, chiếm 1/5 dân số thế giới hiện
đang chiếm tới 86% GDP toàn cầu, trong khi đó các nước nghèo chiếm 1/5
dân số thế giới nhưng chỉ tạo ra 1% GDP toàn cầu.
Năm 1985, thu nhập bình quân tính theo đầu người ở các nước giàu
chỉ gấp 76 lần so với các nước nghèo thì đến năm 1997, sự chênh lệch này
đã tăng: 288 lần.
Theo tổng kết của UNDP, từ khi diễn ra quá trình TCH đến nay, trên
thế giới có 10 nước giàu lên, 130 nước nghèo đi, trong đó 60 nước GDP
bình quân đầu người thấp hơn trước khi tham gia TCH. Tổng số nợ nước
ngoài của các nước kém phát triển lên tới gần 2000 tỷ USD. Trong đó, 250
tỷ thuộc 41 quốc gia kém phát triển nhất. Trong số những nước vay nợ để
phát triển, chưa đến 10% số nước có khả năng trả được nợ. Số còn lại biến
thành con nợ lưu cữu. Nợ nước ngoài quá lớn của nhiều nước hiện nay như
tảng đá đeo lên cổ họ đã kéo lùi sự tăng trưởng kinh tế ở những nước này.
- TCH KT có thể làm cho mọi hoạt động và đời sống con người trở
nên kém an toàn. Từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn
quốc gia và an toàn của hệ thống thương mại, hệ thống tài chính toàn cầu.
10


- Do tác động của TCH KT các dòng hàng hóa, dịch vụ, vốn, công
nghệ... dễ lưu thông trên bình diện toàn thế giới. Song cũng chính vì vậy
mà sự đổ vỡ và "khủng hoảng" ở một khâu hoặc ở một nước nào đó theo
hiệu ứng lan truyền có thể làm rung chuyển đến tất cả các quốc gia và khu
vực trên thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Châu Á năm 1997
là một ví dụ.
- TCH KT có thể giúp cho các nước công nghiệp phát triển lợi dụng
việc trả lương cao, các thiết bị nghiên cứu khoa học tốt, môi trường làm

việc thuận lợi để thu hút nhân tài từ các nước đang phát triển. Do vậy, nguy
cơ chảy máu chất xám là một hiểm họa thực sự của các nước đang phát
triển trong cơ lốc của TCH KT.
3. Một số quan điểm của Đảng ta trong quá trình thực hiện hội
nhập Kinh tế quốc tế (HNKTQT) :
Báo cáo chính trị - Đại hội IX (2001) và NQ 07 - Bộ Chính trị (tháng
11/2001) bàn về HNKTQT, nhấn mạnh: Nước ta chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi
ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo
vệ môi trường.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi HNKTQT là một nội dung quan trọng
trong đường lối phát triển kinh tế và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước. HNKTQT là một trong những định hướng quan trọng để tranh thủ
ngoại lực, khai thác nội lực, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, thực hiện mục tiêu dân giàu nước

11


mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh và ngày càng củng cố định
hướng XHCN
Nội dung chủ yếu của HNKTQT mà nước ta cần và có thể tham gia
từng bước là mở cửa thị trường về thương mại, đầu tư và dịch vụ. Hội nhập
kinh tế có cả hình thức đa phương và song phương, vừa tham gia vào các tổ
chức và diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực, vừa thiết lập quan hệ thương
mại, đầu tư, khoa học - kỹ thuật với từng nước. HNKTQT là quá trình vừa
hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng cơ hội
vừa đối phó thách thức. Đối với nước ta hiện nay, thách thức lớn nhất là
khả năng cạnh tranh yếu về kinh tế, là sự yếu kém về năng lực dự báo chiều

hướng phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện TCH, là trình độ non kém
của đội ngũ cán bộ và bộ máy công quyền... Do vậy, chúng ta phải tiến
hành hội nhập từng bước, dần dần mở rộng thị trường với một lộ trình hợp
lý. Lộ trình này được xác định trên cơ sở tính toán căn cứ vào các yêu cầu
và cam kết của ta khi gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, các
thỏa thuận đàm phán song phương, đa phương. Tuy nhiên, xác định lộ trình
HNKTQT không chỉ xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước cho
hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài thâm nhập mà còn phải tính toán
thời điểm nền kinh tế nước ta từng bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường
quốc tế, phát triển thị trường trong nước.
Để HNKTQT có hiệu quả, nước ta cần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh
tế một cách hợp lý theo hướng hiện đại nhằm phát huy lợi thế so sánh và
lợi thế cạnh tranh của đất nước. Trong chính sách điều chỉnh cơ cấu sản
xuất và cơ cấu đầu tư nước ta cần phát triển mạnh các ngành công nghiệp
chế biến và dịch vụ để nhanh chóng được hưởng thụ ưu đãi từ các tiến trình
tự do hóa thương mại trong khu vực và thế giới.
12


Cùng với việc hoàn thiện chiến lược tổng thể về HNKTQT, trước mắt,
cần đẩy nhanh tiến trình gia nhập APTA, hiệp định thương mại Việt - Mỹ,
tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO... Để làm được điều
này nước ta cần nhanh chóng xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng, tạo
môi trường đầu tư thông thoáng để khai thông và tiếp nhận các dòng vốn,
thương mại, dịch vụ và công nghệ quốc tế.

13


I. Tác động tích cực của toàn cầu hoá, khu vực hoá đối với các nước

đang phát triển
1. Phát huy được lợi thế so sánh để phát triển
Lợi thế so sánh luôn biến đổi phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi
nước. Nước nào có nền kinh tế càng kém phát triển thì lợi thế so sánh càng
suy giảm. Đa số các nước ĐPT chỉ có lợi thế so sánh bậc thấp như lao động
rẻ, tài nguyên, thị trường.... Đó là một thách thức lớn đối với các nước
ĐPT. Nhưng TCH, KVH cũng mang lại cho các nước ĐPT những cơ hội
lớn mới, nếu biết vận dụng sáng tạo để thực hiện được mô hình phát triển
rút ngắn. Chẳng hạn, bằng lợi thế vốn có về tài nguyên, lao động, thị
trường, các ngành công nghiệp nhẹ, du lịch, dịch vụ.... các nước ĐPT có
thể tham gia vào tầng thấp và trung bình của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
toàn cầu với cơ cấu kinh tế có các ngành sử dụng nhiều lao động, nhiều
nguyên liệu, cần ít vốn đầu tư, công nghệ trung bình tiên tiến tạo ra những
hàng hoá - dịch vụ không thể thiếu trong cơ cấu hàng hoá - dịch vụ trên thị
trường thế giới. Để làm được việc đó các nước ĐPT có cơ hội tiếp nhận
được các dòng vốn quốc tế, các dòng kỹ thuật - công nghệ mới và kỹ năng
quản lý hiện đại. Nhưng cơ hội đặt ra như nhau đối với các nước ĐPT,
song nước nào biết tận dụng nắm bắt được chúng thì phát triển. Điều đó
phụ thuộc vào nhân tố chủ quan, vào nội lực của mỗi nước.
Việc phát huy tối đa lợi thế so sánh trong quá trình TCH, KVH của các
nước ĐPT là nhằm tận dụng tự do hoá thương mại, thu hút đầu tư để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Tỷ trọng mậu dịch thế giới trong
tổng kim ngạch mậu dịch thế giới của các nước ĐPT ngày một tăng (1985:
23%, 1997: 30%). Các nước ĐPT cũng ngày càng đa dạng hoá, đa phương
14


hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế, tỷ trọng hàng công nghiệp trong cơ cấu
hàng xuất khẩu ngày càng tăng (1985: 47%, 1998: 70%) và các nước ĐPT
đang nắm giữ khoảng 25% lượng hàng công nghiệp xuất khẩu trên toàn thế

giới.
2. Tăng nguồn vốn đầu tư
Kinh tế TCH, KVH biểu hiện nổi bật ở dòng luân chuyển vốn toàn cầu.
Điều đó tạo cơ hội cho các nước ĐPT có thể thu hút được nguồn vốn bên
ngoài cho phát triển trong nước, nếu nước đó có cơ chế thu hút thích hợp.
Thiết lập một cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư nội địa hợp lý là cơ sở để
định hướng thu hút đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm
các ưu đãi từ những điều kiện và môi trường đầu tư bên trong để thúc đẩy
chương trình đầu tư của họ. Các nước đang phát triển đã thu hút và sử dụng
một lượng khá lớn vốn nước ngoài cùng với nguồn vốn đó, vốn trong nước
cũng được huy động. Theo Báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD, năm
1996 các nước ĐPT tiếp nhận 129 tỷ USD FDI, đến năm 1999 FDI vào các
nước ĐPT tăng lên 198 tỷ USD, trong đó 97 tỷ USD vào Mỹ Latinh
(Braxin chiếm 31 tỷ), 91 tỷ USD vào Châu Á (riêng Trung Quốc chiếm 40
tỷ).
TCH, KVH đã tạo ra sự biến đổi và gia tăng cả về lượng và chất dòng luân
chuyển vốn vào các nước đang phát triển, nhất là trong khi các nước ĐPT
đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn đầu tư cho phát triển. Chẳng hạn,
lượng vốn đầu tư vào các nước ĐPT tăng khá nhanh: 1980: 30 tỷ USD;
1990: 60 tỷ USD; 1996: gần 200 tỷ USD; năm 1997 các nước ĐPT thu hút
tới 37% lượng vốn FDI toàn thế giới. Trong dòng vốn đầu tư vào các nước
ĐPT thì dòng vốn tư nhân ngày càng lớn.
15


3. Nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ
Trước xu thế TCH, KVH, các nước ĐPT tuỳ theo vị thế, điều kiện lịch sử
cụ thể và trình độ phát triển của mình đều có cách thức riêng phát triển theo
con đường rút ngắn. Hai trong số nhiều con đường phát triển là: Thứ
nhất, du nhập kỹ thuật - công nghệ trung gian từ các nước phát triển để xây

dựng những ngành công nghiệp của mình như là một bộ phận hợp thành
trong tầng công nghiệp hiện đại. Tuỳ thuộc vào khả năng vốn, trí tuệ... mà
các nước ĐPT lựa chọn một hoặc cùng lúc cả hai con đường phát triển nói
trên. TCH, KVH cho phép các nước ĐPT có điều kiện tiếp nhận các dòng
kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các nước phát triển để nâng cao
trình độ kỹ thuật - công nghệ của mình. Nhưng điều đó còn phụ thuộc vào
khả năng của từng nước biết tìm ra chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn
thích hợp.
Trong quá trình TCH, KVH các nước ĐPT có điều kiện tiếp cận và thu hút
những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, qua đó mà nâng
dần trình độ công nghệ sản xuất của các nước ĐPT. Do vậy, mà ngày càng
nâng cao được trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế các
nước ĐPT. TCH, KVH được đánh giá như một công cụ đặc hiệu để nâng
cao trình độ kỹ thuật - công nghệ ở các nước ĐPT. Bởi lẽ, trong quá trình
tham gia vào liên doanh, liên kết sản xuất quốc tế, hợp đồng hợp tác kinh
doanh, các dự án FDI... các nước ĐPT có điều kiện tiếp cận những công
nghệ, kiến thức và kỹ năng hết sức phong phú, đa dang của các nước đang
phát triển.

16


4. Thay đổi được cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
TCH, KVH đòi hỏi nền kinh tế của các quốc gia, trong đó có các nước ĐPT
phải tổ chức lại với cơ cấu hợp lý. Kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ
nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Nhưng ở các nước phát
triển những ngành có hàm lượng chất xám, hàm lượng công nghệ cao, hàm
lượng vốn lớn... đang chiếm ưu thế, còn ở những nước ĐPT chỉ có thể đảm
nhận những ngành có hàm lượng cao về lao động, nguyên liệu và hàm
lượng thấp về công nghệ, vốn. Tuy nhiên, nếu nước ĐPT nào chủ động,

biết tranh thủ cơ hội, tìm ra được con đường phát triển rút ngắn thích hợp,
thì có thể vẫn sớm có được nền kinh tế tri thức. Điều đó đòi hỏi một sự nỗ
lực rất lớn. Quá trình TCH, KVH sẽ dẫn đến tốc độ biến đổi cao và nhanh
chóng của nền kinh tế toàn cầu, điều đó buộc nền kinh tế mỗi nước, muốn
phát triển, không còn con đường nào khác là phải hoà nhập vào quỹ đạo
vận động chung của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế nào bắt kịp dòng vận
động chung thì phát triển, không thì dễ bị tổn thương và bất định. Mỗi nước
ĐPT cần phải tìm cho mình một phương thức để chuyển dịch cơ cấu kinh
tế thích hợp để có thể phát triển rút ngắn. Hầu hết các nền kinh tế của các
nước ĐPT đều tiến tới mô hình kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế dựa
vào xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến. Đây là một mô hình
kinh tế được chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhưng nền kinh tế thị
trường mở, hội nhập quốc tế đòi hỏi chính phủ các nước phải có quan niệm
đúng và xử lý khéo quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ ở mức cần thiết; đồng
thời phải nắm bắt được các thông lệ và thể chế kinh tế bên trong, giải quyết
đúng đắn việc kết hợp các nguồn lực bên ngoài thành nội lực bên trong để
phát triển. Nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế muốn phát triển ổn
định, đòi hỏi cơ cấu kinh tế bên trong phải đủ mạnh, cơ cấu xuất khẩu đa
17


dạng, thể chế kinh tế linh hoạt và có năng lực thích ứng để đương đầu với
những thay đổi của các điều kiện phát triển toàn cầu. Điều đó buộc các
nước ĐPT phải tìm ra con đường công nghiệp hoá rút ngắn thích hợp.
Nhiều nước chọn mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, dựa vào
tăng trưởng các sản phẩm công nghiệp chế tạo. Phát triển công nghiệp chế
tạo sẽ giúp nền kinh tế các nước ĐPT nhanh chóng chuyển được nền kinh
tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bước chuyển tới nền
kinh tế tri thức. Sự dịch chuyển này đến đâu phụ thuộc vào trình độ thích
ứng về tiếp nhận công nghệ, khả năng về vốn, khai thác thị trường. Dù

bước chuyển dịch ở trình độ nào, nền kinh tế ở các nước ĐPT đều chú
trọng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ; đồng thời
tập trung nỗ lực phát triển các ngành có khả năng cạnh tranh. Chính vì vậy,
cơ cấu kinh tế của nhiều nước ĐPT đã có nhiều biến đổi theo hướng tích
cực: giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng thay đổi, chất lượng hàng
hoá xuất khẩu được nâng lên theo hướng đạt các tiêu chuẩn quốc tế, tỷ
trọng sản phẩm qua chế biến đã tăng từ 5,65% (năm 1980) lên 77,7% (năm
1994).
TCH, KVH đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho các quốc gia cơ cấu
lại nền kinh tế của mình. Nền kinh tế toàn cầu đang biến đổi nhanh chóng,
thì nền kinh tế của các nước ĐPT, nếu muốn phát triển, không còn con
đường nào khác là phải nhanh chóng hoà nhập vào quỹ đạo vận động
chung của nền kinh tế thế giới. Các nước phải bắt kịp các động thái của
dòng vận động tiền vốn, kỹ thuật - công nghệ, hàng hoá - dịch vụ khổng lồ
của thế giới. Tính bất định và mức độ dễ bị tổn thương với tính cách là hệ
18


quả của những động thái này đang ngày càng gia tăng, nhất là đối với nền
kinh tế các nước ĐPT.
5. Mở rộng kinh tế đối ngoại
TCH, KVH làm cho quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu
hướng tất yếu và diễn ra hết sức mạnh mẽ do sự phát triển cao của lực
lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ.
TCH, KVH đang diễn ra với tốc độ cao, càng đòi hỏi mạnh mẽ việc mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nền kinh tế, đặc biệt là đối với các
nước ĐPT. Và chỉ bằng cách đó mới có thể khai thác có hiệu quả nguồn lực
quốc tế. Đồng thời, TCH, KVH, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế
càng đẩy mạnh thì càng tạo ra những cơ hội và thách thức mới mà chỉ có sự

phối hợp quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại thì mới có thể tranh thủ được
những cơ hội, vượt qua được những thách thức. Thực tế lịch sử cũng đã
khẳng định rằng: ngày nay không một quốc gia nào có thể phát triển được
nếu không thiết lập quan hệ kinh tế với các nước khác, và do vậy không
một quốc gia nào, kể cả các nước ĐPT, lại không thực hiện việc mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong hoàn cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, quá
trình TCH, KVH được thúc đẩy mạnh mẽ, các quan hệ kinh tế đối ngoại trở
thành một nhân tố không thể thiếu để thực hiện tái sản xuất mở rộng ở mỗi
nước, nhất là những nước ĐPT.
6. Cơ sở hạ tầng được tăng cường
Quá trình TCH, KVH đã tạo ra cơ hội để nhiều nước ĐPT phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, về bưu chính viễn thông, về điện,
nước... ở các nước ĐPT, mức thu nhập tính theo đầu người rất thấp, do đó
19


tích luỹ cũng vô cùng thấp vì phần lớn thu nhập dùng vào sinh hoạt. Trong
khi đó các nước ĐPT lại rất cần những lượng vốn lớn để xây dựng kết cấu
hạ tầng và xây dựng những công trình thiết yếu nhằm phát triển kinh tế.
Bởi vậy, xuất hiện khoảng cách lớn giữa nhu cầu đầu tư và tích luỹ vốn.
Cho nên các nước ĐPT muốn tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng thì phải
biết tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ có
thông qua các quan hệ kinh tế đối ngoại mới có thể cải tạo, đổi mới và nâng
cao trình độ công nghệ của các cơ sở sản xuất hiện có; cải tiến, hiện đại hoá
công nghệ truyền thống; xây dựng những hướng công nghệ hiện đại... Nhờ
đó mà xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế.
7. Học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
Các nước có nền kinh tế phát triển thường có phương thức, cách thức quản
lý nền kinh tế tiên tiến với những công cụ quản lý hiện đại. Thông qua các

quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế các nước ĐPT học tập những kinh nghiệm
quản lý tiên tiến hiện đại của các nước phát triển. Học tập trực tiếp qua các
dự án đầu tư, qua các Xí nghiệp, Công ty liên doanh...., qua việc đàm phán
ký kết các hợp đồng kinh tế...

II. Tác động tiêu cực của toàn cầu hoá, khu vực hoá đối với các nước
đang phát triển
1. Tăng trưởng kinh tế không bền vững do phụ thuộc vào xuất khẩu
Nền kinh tế các nước ĐPT đang cơ cấu lại theo chiến lược kinh tế thị
trường mở, hội nhập quốc tế. Nhưng trong quá trình đó, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của nhiều nước ĐPT phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu. Mà xuất
20


khẩu lại phụ thuộc vào sự ổn định của thị trường thế giới, vào giá cả quốc
tế, vào lợi ích của các nước nhập khẩu, vào độ mở cửa thị trường của các
nước phát triển... do vậy, mà chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, khó lường
trước.
Những thập niên gần dây, ở nhiều nước ĐPT, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và
thu nhập đầu người bị giảm. Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế hàng năm của Châu Phi là 5%, nhưng hiện nay đã giảm
xuống 2,6%. Trong hơn 10 năm qua, thu nhập đầu người của hơn 100 nước
ĐPT giảm đi, hơn 60 quốc gia bình quân đầu người về tiêu dùng giảm đi
mỗi năm 1%.
2. Lợi thế của các nước đang phát triển đang bị yếu dần
Nền kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tri thức. Do vậy mà những yếu tố được coi là lợi thế của các
nước ĐPT như tài nguyên, lực lượng lao động dồi dào, chi phí lao động
thấp... sẽ yếu dần đi, còn ưu thế về kỹ thuật - công nghệ cao, về sản phẩm
sở hữu trí tuệ, về vốn lớn... lại đang là ưu thế mạnh của các nước phát triển.

Ba dòng luân chuyển toàn cầu là kỹ thuật - công nghệ, thông tin và vốn
đang trở thành động lực thúc đẩy TCH, KVH. Trong quá trình đó, lợi thế
so sánh của các nước cũng biến đổi căn bản: trên phạm vi toàn cầu lợi thế
đang nghiêng về các nước phát triển vì ở đó dang có ưu thế về trí tuệ, hàm
lượng công nghệ cao và vốn lớn. Các nước ĐPT đang bị giảm dần ưu thế
do lợi thế về lao động rẻ, tài nguyên phong phú... đang bị suy yếu. Và các
nước càng kém phát triển thì càng phải chịu nhiều thua thiệt và rủi ro do sự
suy giảm về lợi thế so sánh gây ra. Đó là thách thức cho các nước đi sau.
TCH, KVH trong khi làm tăng vai trò của các ngành công nghiệp, dịch vụ,
21


nhất là những ngành có công nghệ cao, lao động kỹ năng... thì sẽ giảm tầm
quan trọng của các hàng hoá sơ chế và lao động không kỹ năng. Cuộc cách
mạng công nghệ sinh học, tin học, điện tử... làm giảm tầm quan trọng của
các mặt hàng công nghệ thô. Do đó, các nước ĐPT, trước đây được coi là
giàu có, được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên, thì ngày nay đang trở thành
những nước nghèo. Sự tiến bộ về khoa học - công nghệ không chỉ làm thay
đổi cơ cấu, mà còn làm thay đổi về lợi thế so sánh giữa các nước phát triển
và đang phát triển. Các ngành công nghiệp hiện đại sử dụng ngày càng ít tài
nguyên thiên nhiên, do đó, tài nguyên thiên nhiên không còn là lợi thế lớn,
không còn là yếu tố cạnh tranh quan trọng. Trong nền kinh tế hiện đại, chỉ
có công nghệ tri thức, kỹ năng tinh xảo được coi là các nguồn lực có lợi thế
so sánh cao. như vậy, các nước ĐPT, các nhà xuất khẩu hàng hoá sơ chế và
lao động không kỹ năng ngày càng bị rơi vào tình thế bất lợi. Hơn nữa,
TCH buộc các nước ĐPT hoạt động theo nguyên tắc của thị trường toàn
cầu, làm hạn chế tính hiệu quả của chính sách phát triển quốc gia của họ.
Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, tầm quan trọng của nguyên liệu thô và
lao động kỹ năng thấp đang giảm dần, trong khi lao động kỹ năng và tri
thức ngày càng trở nên quan trọng. Lợi thế đang ngày càng nghiêng dần về

phía các nước phát triển.
3. Nợ nần của các nước đang phát triển tăng lên
Sau một thời gian tham gia TCH, KVH nợ nần của nhiều nước ĐPT ngày
càng thêm chồng chất. Khoản nợ quá lớn (trên 2200 tỷ USD) là gánh nặng
đè lên nền kinh tế của các nước ĐPT, nó là lực cản kéo lùi tốc độ tăng
trưởng kinh tế của các nước này. Theo báo cáo của WB về tình hình tài
chính toàn cầu năm 1999, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GNP của Braxin là
24%, Mêhicô là 38%, Inđônêxia là 65%, Philippin là 51%... Những khoản
22


nợ quá lớn đang làm cho nền kinh tế một số nước ĐPT ngày càng phụ
thuộc vào nền kinh tế các nước chủ nợ, mà chủ yếu là các nước tư bản phát
triển. Có những nước khoản vay mới không đủ dể trả lời những khoản vay
cũ. Điều đó càng làm cho nền kinh tế một số nước ĐPT lâm vào bế tắc,
không có đường ra, dẫn đến vỡ nợ, phá sản. TCH như cỗ xe khổng lồ
nghiền nát nền kinh tế một số nước bị vỡ nợ.
4. Sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém
TCH, KVH đã làm cho vấn đề cạnh tranh toàn cầu trở nên ngày càng quyết
liệt. Xuất phát điểm và sức mạnh của mỗi quốc gia khác nhau, nên cơ hội
và rủi ro của các nước là không ngang nhau. Nền kinh tế của các nước ĐPT
dễ bị thua thiệt nhiều hơn trong cuộc cạnh tranh không ngang sức này.
Càng phải phá bỏ hàng rào bảo hộ thì thách thức đối với các nước ĐPT
càng lớn. Chính sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ, vốn, kỹ năng tổ chức
nền kinh tế của các nước ĐPT sẽ làm cho chênh lệch về trình độ phát triển
giữa các nước ĐPT với các nước phát triển sẽ ngày càng cách xa hơn. Từ
đó cho thấy rằng: việc áp dụng nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng cho các
nước có trình độ kinh tế khác xa nhau thực chất là một sự bất bình đẳng.
Trên một sân chơi ngang bằng, cạnh tranh ‘’bình đẳng’’ những nền kinh tế
lớn mạnh, những công ty có sức mạnh nhất định sẽ chiến thắng những nền

kinh tế còn kém phát triển, những công ty còn nhỏ yếu. Tính chất bất bình
đẳng trong cạnh tranh quốc tế hiện nay đang đem lại những thua thiệt cho
các nước ĐPT.

5. Mở rộng lãnh thổ, tăng thêm dân số.
23


Trước khi CHXH ở Liên Xô và Đông Âu (cũ) tan rã, các nước ĐPT trên
thế giới là 163/191 quốc gia và khu vực. Hiện nay con số này là 180/210.
Bởi lẽ các nước Liên Xô và Đông Âu là 9 nước, nay đã chia tách thành 28
nước. Điều đó làm cho dân số ở các nước ĐPT hiện nay tăng thêm khoảng
hơn 400 triệu, đất đai tăng thêm hơn 25 triệu km2.
6. Phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát
triển tăng lên
Quá trình TCH, KVH là quá trình làm tăng thêm sự phân hoá giàu nghèo
giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển. Hiện nay các nước phát
triển đang nắm giữ 3/4 sức sản xuất của toàn thế giới, 3/4 phân ngạch mậu
dịch quốc tế, là nơi đầu tư và thu hút chủ yếu các luồng vốn FDI (năm 1999
trong 827 tỷ USD tổng vốn FDI của thế giới, các nước phát triển chiếm 609
tỷ USD, riêng EU gần 300 tỷ USD, Mỹ gần 200 tỷ USD). Các Công ty
xuyên quốc gia lớn nhất thế giới cũng chủ yếu nằm ở các nước phát triển.
Các nước này cũng nắm giữ hầu hết các công nghệ hiện đại nhất, các phát
minh, sáng chế, bí quyết và các sản phẩm chất xám khác. Đây cũng là nơi
liên tục thu hút được "chất xám" của toàn thế giới. Ngoài ra các thiết chế
kinh tế, tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế như WTO. IMF, WB... đều
nằm dưới sự chi phối của các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ. Với những
sức mạnh kinh tế to lớn như vậy, các nước phát triển đang chi phối nền
kinh tế toàn cầu. Còn các nước ĐPT thì nền kinh tế chưa đủ sức để chống
đỡ được vòng xoáy của cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới. Do vậy mà

các nước ĐPT ngày càng bị nghèo đi so với tốc độ giàu nhanh của các
nước phát triển. Năm 1998, 24 quốc gia phát triển chiếm khoảng 17% dân
số thế giới thì chiếm tới 79% giá trị tổng sản lượng kinh tế quốc dân toàn
thế giới; còn các nước ĐPT chiếm 83% dân số thế giới thì chỉ chiếm 21%
24


giá trị tổng sản lượng kinh tế quốc dân toàn thế giới; 20% số dân thế giới
sống ở những nước thu nhập cao tiêu dùng 86% số hàng hoá của toàn thế
giới. 20% số dân nghèo nhất thế giới năm 1998 chỉ chiếm 1,1% thu nhập
toàn thế giới, tỷ lệ đó năm 1991 là 1,4%, năm 1996 là 2,3%. Hiện nay, tài
sản của 10 tỷ phú hàng đầu thế giới đã đạt 133 tỷ USD tương đương với 1,5
lần thu nhập quốc dân của tất cả các nước ĐPT.
7. Môi trường sinh thái ngày càng xấu đi
Việc chuyển dịch những ngành đòi hỏi nhiều hàm lượng lao động, tài
nguyên... nhiều những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường sang
các nước ĐPT; việc các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào các nước ĐPT
ngày càng trở nên xấu đi nhanh chóng. Hơn nữa, trong quá trình TCH sự
phát triển của các nước phát triển không chỉ dựa vào tài nguyên giá rẻ, sức
lao động rẻ, thị trường giá rẻ, hàng hoá và dịch vụ rẻ; mà còn dựa vào đầu
độc môi trường sinh thái ở các nước ĐPT. 2/3 rừng của thế giới đang bị
phá huỷ và đang mất đi với tốc độ mỗi năm 16 triệu ha. Lượng gỗ dùng cho
sản xuất giấy (gần như toàn bộ lấy từ các nước ĐPT) thập kỷ 90 gấp đôi
thập kỷ 50, mà tiêu dùng chế phẩm giấy của Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu
chiếm 2/3 thế giới. Toàn thế giới mỗi năm có 2,7 triệu người chết vì không
khí bị ô nhiễm, thì 90% số người đó là ở các nước ĐPT. Ngoài ra, mỗi năm
còn có khoảng 25 triệu người bị trúng độc vì thuốc trừ sâu, 5 triệu người bị
chết vì nhiễm bệnh do nước bị nhiễm bẩn...
III. Đối sách của các nước đang phát triển


1. Chủ động hội nhập từng bước vững chắc
25


TCH, KVH là xu thế khách quan do sự phát triển cao của lực lượng sản
xuất xã hội, trước hết là những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ quy định. TCH, KVH không chỉ là thách thức nghiêm trọng, mà
còn là cơ hội cho các nước ĐPT. Do vậy, các nước ĐPT tất yếu phải tham
gia quá trình TCH, KVH. Nhưng vấn đề là biết chủ động hội nhập từng
bước vững chắc.
Quá trình TCH, KVH đòi hỏi nền kinh tế các nước ĐPT phải theo mô hình
kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế. Nhưng thực hiện mở cửa nền kinh
tế, hội nhập kinh tế quốc tế phải thực sự chủ động, thận trọng và từng bước
vững chắc. Thực hiện tự do hoá nền kinh tế một cách quá nhanh sẽ dẫn đến
hậu quả to lớn. Các nước ĐPT cần thấy rằng nội lực trong nước là nhân tố
tiên quyết quyết định, còn ngoại lực là nhân tố hết sức quan trọng không
thể thiếu. Một nền kinh tế, nhất là ở các nước ĐPT, không thể phát triển
bền vững nếu chỉ dựa vào vốn bên ngoài, phục vụ thị trường nước ngoài.
Điều quan trọng nhất đối với các nước ĐPT là phải phát huy cao độ nội lực
của mình, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài với cơ cấu hợp lý, đúng mục
đích. Mở rộng thị trường xuất khẩu là vô cùng quan trọng, nhưng đồng thời
phải chú ý đúng mức đến thị trường trong nước. Thị trường trong nước là
cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội.
2. Biết lợi dụng những yếu tố thuận lợi
TCH, KVH là thách thức nghiêm trọng, đồng thời cũng là cơ hội cho các
nước ĐPT. Các nước ĐPT cần tích cực chủ động tham dự, đề ra đối sách
tương ứng, khéo tranh thủ cái lợi, tránh cái hại, chẳng hạn như thu hút đầu
tư nước ngoài để bù đắp những thiếu hụt về vốn trong nước. Nhập trang bị
26



kỹ thuật, công nghệ hiện đại, quy trình quản lý tiên tiến, thực hiện bước
nhảy vọt về hiện đại hoá kỹ thuật - công nghệ, quản lý, phát huy ưu thế
tương đối, khai thác thị trường quốc tế...
Trong quá trình TCH đang bị chi phối, áp đặt bởi các nước tư bản phát
triển, nhưng với số lượng trên 100 nước trong tổng số 145 nước của WTO,
vị thế của các nước ĐPT không thể bị coi nhẹ. Các nước tư bản phát triển
không thể không tính đến những phản ứng của các nước ĐPT và cũng
không thể áp đặt các nước ĐPT hoàn toàn tuân theo ý muốn và lợi ích của
các nước phát triển. Thị trường của các nước ĐPT về lâu dài vẫn có tính
hấp dẫn. Nếu sức mua của thị trường các nước này được nâng lên thì đây sẽ
là một dung lượng thị trường lớn mà các nước phát triển không thể bỏ qua.
Bởi vậy các nước phát triển nhiều khi phải tham gia giải quyết các vấn đề ở
nhiều nước ĐPT. Các nước ĐPT cần lợi dụng điều này để làm lợi cho
mình.
Ngay trong quá trình TCH, về nguyên tắc các nước phát triển nhất trí với
nhau và có cùng quan điểm, nhưng xét về lợi ích trên từng vấn đề, từng lĩnh
vực thì lại có nhiều mâu thuẫn khó giải quyết. Vì vậy, các nước ĐPT phải
biết lợi dụng điều này để làm lợi cho mình.
3. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh
TCH, KVH là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh. TCH ngày nay chủ yếu
do các nước TBCN phát triển dẫn dắt và thúc đẩy. Họ đề ra và định đoạt lề
lối và quy tắc quốc tế áp dụng trong quan hệ quốc tế hiện nay. Trong đó có
khá nhiều điều khoản bất hợp lý, không công bằng, kỳ thị và gây tổn hại
cho các nước ĐPT. Chẳng hạn, nông sản là sản phẩm chủ yếu do các nước
ĐPT xuất khẩu, nhưng các nước phát triển lại đặt ra mức thuế rất cao. Mức
27


thuế quan trung bình mà các nước phát triển áp đặt đối với hàng hoá của

các nước ĐPT rất nặng so với mức thuế giữa họ với nhau. Họ còn quy định
đưa quá trình sản xuất vào cái gọi là ‘’tiêu chuẩn thương mại công bằng’’
quốc tế, cho rằng hàng hoá của các nước ĐPT sản xuất sử dụng lao động rẻ
mạt trong điều kiện sản xuất thô sơ không phải là sản xuất tiêu chuẩn và vì
vậy họ cự tuyệt nhập khẩu. Đó là một điều cực kỳ phi lý và áp đặt. Do đó,
các nước ĐPT để mưu lợi ích cho mình, vừa phải đấu tranh kiên quyết có
lý, vừa phải có tình trên vũ đài quốc tế như tại Liên Hiệp Quốc, WTO... để
bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nước ĐPT trong quan hệ quốc tế với
các nước phát triển. Các nước ĐPT cần khéo triển khai đấu tranh trong thời
gian và trường hợp thích hợp để phá bỏ trật tự kinh tế thế giới cũ hiện tồn
tại nhiều điều bất hợp lý, tích cực tham gia xây dựng quy tắc giao lưu và
hợp lý, tích cực kêu gọi sửa đổi các quy tắc không công bằng, không hợp
lý, từng bước xây dựng trật tự thế giới mới công bằng, hợp lý, thật sự phù
hợp lợi ích của các nước ĐPT. Chỉ có dám và giỏi đấu tranh thì các nước
đang phát triển mới có thể không bị TCH TBCN đè bẹp, mà còn có thể giữ
được tính độc lập của quốc gia dân tộc mình, đồng thời còn ngày càng phát
triển mạnh lên. Các nước ĐPT nếu đoàn kết, có tiếng nói chung, trên cơ sở
nhận biết được lợi ích chung lâu dài, thì sẽ dành được thắng lợi ở nhiều
mặt. Khi tiếng nói chung đó càng mạnh mẽ, thể hiện sự đồng tâm, hiệp lực
sẽ làm cho bản thân bên trong các nước phát triển cũng như các tổ chức
kinh tế quốc tế sẽ có những biểu hiện và thái độ khác đi, đối xử với các
nước ĐPT khác đi.

4. Liên kết để có tiếng nói chung
28


TCH TBCN sẽ dẫn đến sự thống trị của các nước TBCN phát triển đối với
toàn thế giới, do đó các nước ĐPT phải biết liên kết lại mang tính toàn cầu
để chống lại sự thống trị đó. Các nước ĐPT hiện nay đều đang đứng trước

nhiệm vụ chung là chống lại chủ nghĩa bá quyền, duy trì hoà bình thế giới,
phát triển nền kinh tế quốc dân. Đứng trước TCH TBCN, các nước ĐPT
đang phải đối đầu với nhiều khó khăn và vấn đề chung. Các nước ĐPT có
ưu thế về số lượng quốc gia, dân số, diện tích, đường giao thông chiến
lược, tài nguyên... và có truyền thống đoàn kết hợp tác, chi viện lẫn nhau.
Các tổ chức như ‘’Phong trào không liên kết’’, ‘’nhóm 77 nước’’... đã,
đang và tiến hành đấu tranh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế ... Chỉ cần
các nước ĐPT nhận rõ hơn nữa sự tồn tại và lợi ích chung căn bản, kiên trì
cùng tôn trọng chủ quyền các nước, không can thiệp vào công việc nội bộ,
bình đẳng cùng có lợi, cùng nhau hợp tác, liên kết tìm tiếng nói chung thì
nhất định giải quyết thoả đáng các vấn đề do lịch sử để lại, từng bước liên
kết với nhau, đoàn kết đấu tranh thì nhất định nâng cao được hơn nữa vị thế
của các nước ĐPT, nhất định đẩy mạnh được việc xây dựng trật tự mới về
chính trị, kinh tế thế giới công bằng, hợp lý. Nếu các nước tư bản phát triển
cứ tiếp tục không tôn trọng những quy tắc chung đã đề ra, thì các nước
ĐPT, nhất định đẩy mạnh được việc xây dựng trật tự mới về chính trị, kinh
tế thế giới công bằng, hợp lý. Nếu các nước tư bản phát triển cứ tiếp tục
không tôn trọng những quy tắc chung đã đề ra, thì các nước ĐPT đương
nhiên phải hợp sức lại để có lập trường phản bác chung.

29


×