Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN BẰNG BẢNG TRẮC NGHIỆM ACT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.63 KB, 12 trang )

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN
BẰNG BẢNG TRẮC NGHIỆM ACT
Lê Văn Nhi*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hen phế quản (HPQ) là vấn đề sức khỏe trầm trọng trên toàn Thế Giới, mọi
lứa tuổi đều có thể mắc phải và có xu thế gia tăng. Khi không được kiểm soát, HPQ có thể
trở nên nặng làm giới hạn cuộc sống hàng ngày và đôi khi đưa đến tử vong. Trong thực
hành lâm sàng, thường đánh giá mức độ kiểm soát HPQ theo tiêu chuẩn GINA. Tuy nhiên,
cách đánh giá này khó được áp dụng rộng rãi do có tiêu chuẩn về đo chức năng hô hấp và
không phải mọi tuyến y tế cơ sở đều có thể thực hiện được đo chức năng hô hấp cho mọi
bệnh nhân HPQ. Sự ra đời của bảng trắc nghiệm kiểm soát HPQ (Asthma Control Test) đã
đáp ứng được tính đơn giản, rẻ tiền, tiện lợi, dễ hiểu, không cần đo chức năng hô hấp, cho
kết quả nhanh chóng, khá chính xác về mức độ kiểm soát HPQ và đã được chứng minh về
tính hiệu quả tại nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, giá trị của bảng câu hỏi để đánh giá
mức độ kiểm soát HPQ trong điều kiện thực tế Việt Nam chưa từng được xem xét.
Mục tiêu: Xác định giá trị bảng câu hỏi trắc nghiệm ACT và so sánh với tiêu chuẩn
GINA 2006 trong đánh giá mức độ kiểm soát hen phế quản.
Đối tượng và phương pháp: Thực hiện nghiên cứu cắt ngang với 124 bệnh nhân hen
phế quản đến khám và điều trị tại BV. Đại học Y Dược từ tháng 2/2006 – 2/2007.
Kết quả: Qua nghiên cứu cho thấy tỉ lệ kiểm soát được hen phế quản hoàn toàn theo tiêu
chuẩn GINA cao hơn so với tiêu chuẩn ACT (p=0,032), trong khi đó tỉ lệ kiểm soát được
HPQ một phần theo tiêu chuẩn ACT lại có tỉ lệ cao hơn so với tiêu chuẩn GINA (p=0,033).
Tỉ lệ không kiểm soát được HPQ ở 2 tiêu chuẩn là như nhau (p=0,34) và khi so sánh chung
nhóm bệnh nhân có mức độ kiểm soát HPQ hoàn toàn và kiểm soát HPQ một phần được
đánh giá theo GINA 2006 (88/124 – 70,97%) và theo bảng trắc nghiệm ACT (85/124 –
68,55%) thì sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,08).
Kết luận: Kiểm soát HPQ theo bảng câu hỏi trắc nghiệm ACT cho kết quả tương tự như
tiêu chuẩn GINA 2006. Bảng câu hỏi trắc nghiệm ACT có thể giúp bệnh nhân đánh giá được
mức độ kiểm soát HPQ ngay tại nhà do đặc điểm đơn giản, rẻ tiền, dễ thực hiện, khá chính
xác và không cần đo chức năng hô hấp và quan trọng hơn hết là tăng cường được sự hợp
tác giữa thầy thuốc và bệnh nhân, giúp tuân thủ điều trị tốt hơn.




ABSTRACT
VALIDATION OF THE ACT QUESTIONNAIRE IN THE ASSESSMENT OF ASTHMA BY
LEVEL OF CONTROL
Le Van Nhi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 2 - 2010: 232 - 238
Context: Asthma is a major serious health problem worldwide affecting all groups of
age and its prevalence is increasing. Without appropriate treatment, it can become severe
and sometimes fatal and decreasing the quality of life. In clinical practice, the GINA
recommend the classification of Asthma by level of control but its implementation is
complicated by the need of the functional respiratory exploration which cannot be available
in most of the health posts. The Asthma Control Test questionnaire was developed to help
medical doctor to classify with accuracy asthma by level of control without the use of
functional respiratory exploration. It is a simple, cheap, accurate and efficient tool to assess
this level of control. It has been validated in many different countries but not yet in VietNam.
Objectives: To validate the ACT questionnaire and to compare with the criteria from
GINA 2006 in the classification of Asthma by level of control.
Methods: This is a cross sectional study with 124 asthmatic patients diagnosed and
treated at the Medical and Pharmacy University Hospital of HCMC from Feb 2006 to Feb
2007.
Results: From the study, the results show that the percentage of the complete control of
asthma level according to the criteria from GINA 2006 is higher compare with those from
the ACT questionnaire (p=0,032) while the percentage of the partially complete control with
the ACT is higher than with those of GINA (p=0,033). The percentage of the level of no
control of asthma was similar in the 2 groups (p=0,34). However, there is no statistically
difference (p=0,08) in the group of control and complete control in the classification from
GINA 2006 (88/124 = 70,97%)and from ACT (85/124 = 68,55%).
Conclusion: The classification of asthma by level of control with ACT questionnaire is
comparable with the classification from GINA 2006. With the ACT questionnaire, the
asthmatic patients can assess their disease at home since it is a simple, cheap, accurate tool

for monitoring the disease without the need of functional respiratory exploration and
enhances the collaboration between the doctor and the patient and increasing its adherence
to treatment.
Key words:

ACT: Asthma Control Test, GINA: Global Initiative for Asthma.


MỞ ĐẦU
Bệnh hen phế quản là một trong những bệnh mạn tính rất thường gặp, ước tính có khoảng
300 triệu người trên thế giới mắc bệnh chiếm 4-14% dân số các nước. Theo WHO ước tính
đến năm 2025 dự kiến có thêm 100 triệu người mắc bệnh HPQ trong 2 thập niên tới (10,11). Tại
Việt Nam, tỉ lệ mắc bệnh HPQ đã tăng gấp đôi trong hơn 20 năm qua, từ 2.5% năm 1981 lên
5% như hiện nay(12). Mặc dù có những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, bệnh HPQ vẫn
còn là một trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu và là gánh nặng kinh tế cho các quốc
gia trên thế giới(6,8,9,11). Ước tính mỗi năm trên thế giới có khoảng 250.000 người chết vì bệnh
HPQ, chỉ tính riêng tại Mỹ có hơn 5000 người chết vì HPQ mỗi năm(1,2,8,11). Tại
Việt Nam ước tính có khoảng 3000 ca tử vong hàng năm do HPQ(12).
Trong những thập niên qua, sự hiểu biết ngày càng nhiều hơn về sinh lý bệnh của HPQ
và sự ra đời của nhiều loại thuốc giúp dự phòng những đợt cấp tính hiệu quả hơn đã hướng
các bác sỹ lâm sàng chuyển từ mục tiêu điều trị cơn kịch phát sang mục tiêu làm thế nào để
kiểm soát được bệnh HPQ(11). Các bác sĩ lâm sàng thường đánh giá mức độ kiểm soát HPQ
theo tiêu chuẩn GINA, tuy nhiên cách đánh giá này khó được áp dụng rộng rãi do có tiêu
chuẩn về chức năng hô hấp, trong khi đó không phải cơ sở y tế nào cũng sẵn có máy đo chức
năng hô hấp, bên cạnh đó cơ sở y tế có số lượng bệnh nhân quá đông, bác sĩ quá bận rộn nên
không thể cho đo chức năng hô hấp cho tất cả bệnh nhân và như vậy đánh giá mức độ kiểm
soát HPQ theo chủ quan của người bác sĩ sẽ không còn chính xác. Chính vì vậy mà sự ra đời
của bảng trắc nghiệm kiểm soát HPQ (Asthma Control Test) đã nhận được sự ủng hộ của
hầu hết các Hội hô hấp trên thế giới nhờ tính đơn giản, dễ hiểu và không cần đo chức năng
hô hấp, cho kết quả về mức độ kiểm soát HPQ nhanh chóng và hiệu quả. Giá trị bảng câu hỏi

trong việc đánh giá kiểm soát HPQ đã được chứng minh trong một số nghiên cứu tại các
quốc gia khác nhau(3,4-8,10,11).
Tuy nhiên đây là bảng trắc nghiệm tự điền, phụ thuộc nhiều vào sự hiểu biết và nhận thức
của người bệnh do vậy cần phải được kiểm chứng. Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về
vấn đề này, chính vì vậy chúng tôi muốn tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định giá trị của
bảng câu hỏi trong đánh giá mức độ kiểm soát HPQ trong điều kiện thực tế Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang với tất cả bệnh nhân (>12 tuổi và <75 tuổi) được chẩn đoán xác
định HPQ tại Bệnh Viện Đại học Y dược TPHCM từ tháng 2/2006 – 2/2007.
Tiểu chuẩn nhận vào
Tất cả bệnh nhân >12 tuổi và <75 tuổi đến khám tại phòng khám Hô Hấp Bệnh Viện Đại
học Y dược TPHCM được chẩn đoán HPQ theo tiêu chuẩn GINA và những bệnh nhân đang
điều trị và theo dõi HPQ tại phòng khám Hô Hấp được đo chức năng hô hấp ngay tại thời
điểm tham gia nghiên cứu; Không có bệnh lý khác ảnh hưởng đến chức năng hô hấp (COPD,
lao phổi, suy tim); Đọc và hiểutiếng Việt;Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại ra


Chẩn đoán HPQ không rõ ràng; Không biết đọc hoặc không hiểu để trả lời bảng câu hỏi;
Không đồng ý tham gia nghiên cứu; Không có kết quả đo chức năng hô hấp; Không thu thập
đủ các dữ liệu được ghi trong bệnh án nghiên cứu.
Đánh giá mức độ kiểm soát HPQ theo GINA 2006
- HPQ được kiểm soát hoàn toàn: tất cả các tiêu chuẩn đều đạt
- HPQ được kiểm soát một phần: không đạt 1-2 tiêu chuẩn
- HPQ không được kiểm soát khi không đạt ≥ 3 tiêu chuẩn
Đánh giá mức độ kiểm soát HPQ theo ACT
- Bảng trắc nghiệm ACT gồm 5 câu hỏi, mỗi câu hỏi gồm 5 câu trả lời được đánh số theo
thứ tự từ 1-5, tương ứng với số điểm từ 1-5 điểm.
- Bệnh nhân tự trả lời bằng cách khoanh tròn vào con số phía trước câu trả lời và đó cũng
là số điểm cho câu trả lời đó. Sau đó cộng dồn số điểm từ năm câu trả lời sẽ có được con số

tạm gọi là điểm số kiểm soát HPQ của bệnh nhân
Đánh giá kiểm soát HPQ theo ACT
- Bệnh HPQ chưa được kiểm soát: ≤19 điểm
- Bệnh HPQ được kiểm soát một phần: 20-24 điểm
- HPQ được kiểm soát hoàn toàn: đạt 25 điểm
KẾT QUẢ
Qua nghiên cứu 124 bệnh nhân HPQ đến khám và điều trị tại Phòng Khám và Thăm dò
Chức năng Hô hấp Bệnh viện Đại học Y dược TPHCM trong thời gian từ 2/2006 – 2/2007,
chúng tôi ghi nhận được:
Bảng 1: Giới tính
Giới tính

N = 124

%

p

Nam

45

36,29

0,03

Nữ

79


63,71

Nhận xét: Trên 60% bệnh nhân HPQ trong nghiên cứu là nữ, tỉ lệ nam: nữ là 1:2. Có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ bệnh nhân nam và nữ (p = 0,03)
Bảng 2: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu
Tuổi

Nam

Nữ

p

X ± SD

42,49 ±
18,35

42,26 ±
15,6

0.85

Nhận xét: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 42,54. Không có sự khác biệt
về độ tuổi trung bình giữa nam- nữ (p=0,85)


Bảng 3 Trình độ văn hóa
Giới tính


Nam

Nữ

p

Trình độ văn hóa n = 45
(%)

n = 79
(%)

Biết đọc, biết viết 1 (2,22)

3 (3,8)

0,63

Cấp 1

3 (6,67)

13
0,11
(16,45)

Cấp 2

11 (24,44)


25
0,39
(31,64)

Cấp 3

16 (35,55)

25
0,65
(31,64)

Đại học và trên
13
14 (31,11)
0,57
đại học
(16,45)
Nhận xét: 50% bệnh nhân HPQ có trình độ văn hóa từ cấp 3 trở lên, trình độ văn hóa
giữa nam và nữ khác nhau không có ý nghĩa thông kê(p > 0,05)
Bảng 4 Nghề nghiệp
Nghề nghiệp

N

%

Công nhân

21


16,93

Lao động trí óc

21

16,93

Già, mất sức lao
động

19

15,32

Nội trợ

18

14,51

Buôn bán

13

10,48

Học sinh, sinh viên


12

9,67

Nông dân

9

7,25

Giáo viên

2

1,66

Nghề nghiệp khác

9

7,25

Nhận xét: mọi tầng lớp đều có thể mắc bệnh HPQ.


Bảng 5 Tần suất các yếu tố khởi phát
Yếu tố khởi phát

N


%

Thời tiết

61

62,88

Bụi

52

53,36

Khói thuốc

50

51,54

Gắng sức

47

48,45

Mùi lạ

35


36,08

Cúm

30

30,09

Thức ăn

18

18,55

Cảm xúc

17

17,52

Hóa chất

11

11,34

Lông thú

10


10,31

Rượu bia

7

7,21

Nhận xét: Một bệnh nhân HPQ thường cùng lúc có nhiều YTKP cơn HPQ. Thời tiết,
bụi, khói thuốc là những YTKP cơn HPQ thường gặp.
Bảng 6 Tỉ lệ bậc HPQ
Bậc 1

Bậc 2

Bậc 3

Bậc 4

N = 124

28

23

41

32

%


(22,59%)

(18,55%)

33,06

25,81

Nhận xét: >50% các đối tượng nghiên cứu bậc HPQ là bậc hen 3 và hen bậc 4.
Bảng 7 So sánh trung bình và độ lệnh chuẩn FEV1 theo bậc HPQ
Bậc hen

Bậc 1

Bậc 2

Bậc 3

Bậc 4

p

95,44

87,04

76,6

67,3


<0,01

± 9,73

± 4,99

± 7,83

± 8,88

FEV1
X ± SD

Nhận xét: Trung bình và độ lệch chuẩn của FEV1 giữa các bậc HPQ khác nhau có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05).


Bảng 8: So sánh trung bình và độ lệch chuẩn PEF theo bậc HPQ
Bậc HPQ
PEF
X ± SD

Bậc 1

Bậc 2

Bậc 3

Bậc 4


97,86

85,68

78,15

64,06

± 12,36

± 8,51

± 11,32

± 10,61

p
<0,001

Nhận xét: Trung bình và độ lệch chuẩn của PEF giữa các bậc HPQ khác nhau có ý nghĩa
thống kê (p <0,001)
Bảng 9 FEV1 và mức độ kiểm soát HPQ theo ACT
FEV1

FEV1
< 60%

60% - 80%


>80%

Ks HPQ

n=9

n = 29

n = 86

theo ACT

(%)

(%)

(%)

1 (11,11)

1

14 (16,28)

0,2

58 (67,44)

<0,001


14 (16,28)

<0,001

Ks hoàn toàn
n = 16
Ks một phần

(3,45)
2 (22,22)

n = 69
Không kiểm soát
n = 39

p

9
(31,03)

6 (66,67)

19
(65,51)

Nhận xét: Giá trị FEV1 ở nhóm bệnh nhân kiểm soát được HPQ một phần theo tiêu
chuẩn ACT có khuynh hướng tăng dần (p<0,001), trong khi đó FEV 1 ở nhóm bệnh nhân
không kiểm soát được HPQ theo ACT lại có khuynh hướng giảm dần (p<0,001).



Bảng 10 PEF và mức độ kiểm soát HPQ theo ACT
PEF

PEF
< 60%

60% - 80%

>80%

n = 13

n = 33

n = 78

(%)

(%)

(%)

Ks hoàn toàn

1

4

n = 29


(7,69)

(12,12%)

Ks HPQ theo ACT

Ks một phần
n = 59
Không kiểm soát
n = 36

3 (23,08)
9 (69,23)

10
(30,30)

p

24 (30,77)

0,02

46 (58,97)

0,02

19

8


(57,58)

(10,26)

<0,001

Nhận xét: Giá trị PEF ở nhóm bệnh nhân không kiểm soát được HPQ theo tiêu chuẩn
ACT có khuynh hướng giảm dần (p<0,001).
Bảng 11: Tỉ lệ kiểm soát HPQ theo tiêu chuẩn GINA
KS HPQ theo GINA 2006 N =
124

KS hoàn toàn

KS một phần

Không được KS

29 (23,39%)

59 (47,58%)

36 (29,03%)

Nhận xét: > 75% bệnh nhân HPQ chưa được kiểm soát hoàn toàn.
Bảng 12 Tỉ lệ kiểm soát HPQ theo ACT
KS hoàn toàn

KS một phần


Không KSđược

(25 điểm)

(20-24 điểm)

(≤19 điểm)

N = 124

16

69

39

%

22,91%

55,65%

31,45%

Nhận xét: có hơn 85% bệnh nhân chưa kiểm soát HPQ hoàn toàn.


Bảng 13: So sánh tỉ lệ (%) mức độ kiểm soát HPQ theo bảng trắc nghiệm kiểm soát HPQ
(ACT) và theo tiêu chuẩn GINA 2006

Tiêu chuẩn đánh giá

GINA 2006

ACT

n = 124

n = 124

(%)

(%)

Ks hoàn toàn

29 (23,38)

16 (12,91)

0,032

Ks một phần

59 (47,59)

69 (55,64)

0,033


Không kiểm soát

36 (29,03)

39 (31,45)

0,34

Mức độ kiểm soát

p

Nhận xét: tỉ lệ kiểm soát được HPQ hoàn toàn theo tiêu chuẩn GINA cao hơn so với tiêu
chuẩn ACT (p = 0,032), trong khi đó tỉ lệ kiểm soát được HPQ một phần theo tiêu chuẩn
ACT lại có tỉ lệ cao hơn so với tiêu chuẩn GINA (p = 0,033). Tỉ lệ không kiểm soát được
HPQ ở 2 tiêu chuẩn là như nhau (p = 0,34).
BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu 124 bệnh nhân, có trên 60% bệnh nhân HPQ trong nghiên cứu là nữ, tỉ lệ
nam: nữ là 1:2 (bảng 1). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ bệnh nhân nam và nữ
(p<0,05). Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 42,54 ± 16,64 (bảng 2), không
có sự khác biệt có ý nghĩa về tuổi giữa nam và nữ trong nghiên cứu này.
Không có sự khác biệt giữa nam và nữ về trình độ văn hóa của đối tượng nghiên cứu
(bảng 3). Mọi tầng lớp đều có thể mắc bệnh HPQ. Trong đó nhóm bệnh nhân già, mất sức
lao động, nội trợ chiếm khoảng 30%, lao động trí óc chiếm 21%, công nhân chiếm 21%,
trong khi đó nông dân chỉ chiếm khoảng 7% (bảng 4). Trong đó hơn 70% bệnh nhân sống tại
TPHCM, phần lớn sống tại các quận nội thành. Có khoảng 15% đối tượng nghiên cứu hút
thuốc lá, trong đó 80% là nam. Tỉ lệ nam hút thuốc lá là 35,55%.
Trên 70% bệnh nhân có yếu tố khởi phát cơn HPQ, không có mối liên quan giữa yếu tố
khởi phát và giới tính (p>0,05). Trong nghiên cứu chúng tôi ghi nhận sự thay đổi thời tiết là
yếu tố thường gặp nhất, chiếm tỉ lệ gần 63%.

Trên 70% bệnh nhân có yếu nguy cơ HPQ (bảng 5), yếu tố khởi phát giữa nam và nữ
khác nhau không có ý nghĩa thống kê tính (p>0,05). Có 60% bệnh nhân HPQ có người thân
mắc bệnh HPQ, điều này cũng phù hợp với y văn là HPQ có liên quan đến di truyền. Các dữ
liệu hiện nay cho thấy có nhiều gien liên quan đến bệnh học của HPQ. Đối với những bệnh
nhân có người nhà mắc bệnh HPQ, nên đi khám khám sớm để xác định chẩn đoán khi có
triệu chứng gợi ý HPQ.
Chúng tôi ghi nhận >50% các đối tượng nghiên cứu có bậc hen là 3 và 4, hen bậc 4
chiếm 26% đối tượng nghiên cứu (bảng 6). Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa giới
tính và bậc hen (p>0,05).


Khảo sát sự phù hợp giữa FEV1, PEF và mức độ kiểm sóat hen phế quản theo tiêu chuẩn
GINA và ACT cho thấy: trung bình và độ lệch chuẩn của FEV1 và PEF giữa các bậc hen phế
quản khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05) (bảng 7) và (bảng 8).
Khi khảo sát FEV1 và mức độ kiểm sốt hen phế quản theo ACT cho thấy giá trị FEV1 ở
nhóm bệnh nhân kiểm soát được hen phế quản một phần theo tiêu chuẩn ACT có khuynh
hướng tăng dần (p<0,001), trong khi đó FEV1 ở nhóm bệnh nhân không kiểm soát được hen
phế quản theo ACT lại có khuynh hướng giảm dần (p<0,001). Ngoài ra, giá trị PEF ở nhóm
bệnh nhân không kiểm soát được hen phế quản theo tiêu chuẩn ACT có khuynh hướng giảm
dần (p<0,001) (bảng 9) và (bảng 10).
Qua đánh giá mức độ kiểm soát HPQ theo GINA 2006 chúng tôi ghi nhận tỉ lệ HPQ
kiểm soát hoàn toàn là 23,39%, HPQ kiểm soát không hoàn toàn là 47,58% và HPQ không
kiểm soát được là 29,03% (bảng 11).
Qua đánh giá mức độ kiểm soát HPQ của 124 bệnh nhân bằng bảng trắc nghiệm kiểm
soát HPQ, chúng tôi ghi nhận tỉ lệ kiểm soát HPQ hoàn toàn là 12,9% (25 điểm), kiểm soát
HPQ một phần là 55,65% (20-24 điểm), HPQ không kiểm soát được là 31,45% (<19 điểm)
(bảng 12). Qua khảo sát mức độ kiểm soát HPQ tại một số nước Châu Á bằng bảng trắc
nghiệm kiểm soát HPQ ghi nhận tỉ lệ bệnh nhân có điểm ACT>20 tức là HPQ kiểm soát một
phần là 17%. Tỉ lệ này thay đổi theo từng quốc gia, như 10% tại Philippine, 31% ở Hàn
Quốc, 28% ở Malaysia, 24% ở Malaysia, 23% ở Đài Loan. Khoảng 2% bệnh nhân HPQ

trong nghiên cứu tại Hàn Quốc đạt điểm số ACT là 25, tức là HPQ kiểm soát hoàn toàn (3,48,10,11)
. Tỉ lệ kiểm soát HPQ hoàn toàn và HPQ kiểm soát một phần trong nghiên cứu của
chúng tôi (những bệnh đang được theo dõi và điều trị theo phác đồ GINA) cao hơn so với
kết quả khảo sát trong cộng đồng (bao gồm những bệnh nhân được điều trị và không điều trị)
tại các nước nghiên cứu(13).
Tỉ lệ kiểm soát được HPQ hoàn toàn theo tiêu chuẩn GINA cao hơn so với tiêu chuẩn
ACT (p = 0,032) bảng 13, trong khi đó tỉ lệ kiểm soát được HPQ một phần theo tiêu chuẩn
ACT lại có tỉ lệ cao hơn so với tiêu chuẩn GINA (p = 0,033). Tỉ lệ không kiểm soát được
HPQ ở 2 tiêu chuẩn là như nhau (p = 0,34). Tuy nhiên, nếu so sánh nhóm bệnh nhân có mức
độ kiểm soát HPQ hoàn toàn và kiểm soát HPQ một phần được đánh giá theo GINA 2006
(70,97%) và theo bảng trắc nghiệm ACT (68,55%) (bảng 12) thì sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê (p=0,08). Từ đó có thể nhận xét rằng tỉ lệ kiểm soát HPQ hoàn toàn và kiểm
soát HPQ một phần khi đánh giá theo tiêu chuẩn GINA và ACT là như nhau (bảng 13).
Tuy nhiên với những cơ sở y tế có nguồn nhân lực hạn chế, số lượng bệnh nhân đông và
kinh tế bệnh nhân không cho phép, bệnh nhân sẽ không được đo chức năng hô hấp thường
xuyên. Tiêu chuẩn về chức năng hô hấp làm cho cách đánh giá theo GINA 2006 khó sử dụng
rộng rãi. Trong khi ACT gồm 5 câu hỏi đơn giản, dễ hiểu, có thể áp dụng ở mọi nơi. Cách
cho điểm cũng đơn giản và không cần thông số đo chức năng hô hấp. Và đã có nhiều nghiên
cứu cho thấy đánh giá theo ACT và GINA có mối liên quan với nhau (2-8,10,11,13). Tuy nhiên hạn
chế của ACT là thông tin sử dụng thuốc giãn phế quản, nếu bệnh nhân không sử dụng thuốc
giãn phế quản dạng hít mặc dù có chỉ định thì khi trả lời câu hỏi số 4 trong bảng trắc nghiệm


(Trong 4 tuần qua, bạn có thường dùng bình xịt hoặc thuốc phun khi dung như salmeterol để
cắt cơn không?) sẽ cho kết quả không chính xác.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ kiểm soát HPQ theo ACT tương tự như GINA 2006, và khi khảo sát sự phù hợp
giữa FEV1 và PEF với mức độ kiểm soát HPQ theo ACT và GINA 2006 cũng cho kết quả
tương tự nhau. Do đó có thể sử dụng ACT để đánh giá được mức độ kiểm soát HPQ, bảng
trắc nghiệm ACT đơn giản, dễ thực hiện mà không cần dựa vào đặc điểm đo chức năng hô

hấp (FEV1 và/hoặc PEF) như GINA 2006.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Asthma in America (2006): A landmark survey. GlaxoSmithKline, 1988.

2.

Chih Hao Chao, Shiang-Ling King, Chen-Yu Wang, Ming-Cheng Chan,
Benjamin Kuo, Jeng-Yuan Hsu (2008), “Assessment of asthma control test and GINA
criteria”, TEPS; (232), pp. 81-88

3.

Elizabeth F. Juniper (2004), “Measuring Health-Related Quality of Life in Adults
During an Acute Asthma Exacerbation”, Chest; (125), pp. 93-97.

4.

Huang S.L., Shiao G., Chou P. (1999), “Association between body mass index and
allergy in teenage girls in Taiwan”. Clin. Exp. Allergy; (29), pp. 323-9.

5.

Lababidi H., Hijaoui A., Zarzour M. (2008), “Validation of the Arabic version of
the asthma control test”, Annuals of Thoracic Medicine, pp. 44-47:2

6.

Laercio M. Valanca, Guilherme Benevento, Antonio V. Vasconselos, Thomas E.

Osterne, Jesian C. Aguiar (2006), “Asthma control test (ACT) compared with
spirometry in the assessment of patients with asthma”, Chest 2006.

7.

Lê Thị Tuyết Lan (2005), “Hô Hấp Ký”, Nhà xuất bản Y học, TP Hồ Chí Minh.

8.

Masoli M., Fabian D., Holt S., et al (2004). “Global Initiative for Asthma (GINA)
Program: the global burden of asthma: executive summary of the GINA dissemination
Committee report”, Allergy; (59), pp. 469-478

9.

Mannimo D.M., Homa D.M., Pertowski C.A., Nixon L.L., Johnson C.A., et al
(1995), “Surveillance of asthma in The United States, 1960-1995”. MMWR; 47(SS-1),
pp. 1-14

10.

Nathan R.A., Sorkness C.A., Kosinski M. et al (2004), “Development of the
asthma control test: a survey for assessing asthma control”, J. Allery
Clin. Immunol, (113): pp. 59-65

11.

National Heart, Lung And Blood Institute / World Health Organization (2006),
“Global Stratery For Asthma Management and Prevention”, NHLBI/WHO Workshop
Report, NIH Publication.


12.

Trần Quỵ (2006), “Báo cáo tổng kết dự án phòng chống hen phế quản tại một số
tỉnh phía Bắc từ 2004-2006”, công trình nghiên cứu khoa học BV Bạch Mai.


13.

Trần Văn Sóng (2008). Giá trị bảng câu hỏi trắc nghiệm ACT và GINA 2006 trong
đánh giá mức độ kiểm soát hen – Luận văn Thạc sĩ Y học.



×