Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại việt nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.84 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA KINH TẾ VÀ KẾ TOÁN

ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH
Đề tài:

ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Sinh viên thực hiện:

Nguyễn Thị Thanh Hiền

Lớp:

KTĐT – 35A

Giáo viên hướng dẫn:

Đào Quyết Thắng

Bình Định, tháng 11/2015


MỤC LỤC


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
BIỂU ĐỒ:
Biểu đồ 2.1: Vốn đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở Việt Nam
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tại năm học 2012-2013


Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng lao động theo trình độ chuyên môn trong các ngành
nghề (tại thời điểm 1/7/2014)
BẢNG BIỂU:
Bảng 2.1: Tổng số cơ sở khám chữa bệnh ở Việt Nam 2010 – 2014
Bảng 2.2: Tỷ lệ lao động phân theo nhóm tuổi
Bảng 2.3: Cơ cấu lao động có việc làm cả nước theo nhóm ngành kinh tế
Bảng 2.4: Chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực thành thị và nông thôn
Bảng 2.5 : Số lượng và tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật
Bảng 2.6: Chỉ số phát triển con người ở Việt Nam



1

LỜI MỞ ĐẦU
Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của các quốc gia.
Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển của
các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn
nhân lực. Trong thế kỉ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên,
nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu phát triển kinh tế xã hội, hoàn thành công nghiệp hóa và hiện đại hóa chỉ trong vài ba thập kỷ.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là
trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay,
trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực
được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát
triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Việc phát triển nhân lực, một mặt cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển
tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kì nhất định, cần xây dựng
những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn,
hạn chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho

giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế.
Một câu hỏi đặt ra cho Việt Nam và các nước đang phát triển là: “Làm thế nào
để phát triển nguồn nhân lực và đầu tư bao nhiêu, đầu tư như thế nào cho nguồn
nhân lực là phù hợp?”.
Nhằm đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đó, sau đây em xin được trình bày đề tài
“Đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp” gồm
những nội dung cơ bản sau:
• Phần I: Các vấn đề lí luận chung.
• Phần II: Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam (giai đoạn
2010-2014).
• Phần III: Giải pháp đầu tư phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thanh Hiền


2

PHẦN I: CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
I.1 Lí luận chung về nhân lực
I.1.1 Một số khái niệm về nguồn nhân lực
Theo tổ chức lao động quốc tế thì: Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được
hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao
động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó,
nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường. Theo
nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả
năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham
gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy
động vào quá trình lao động.

Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi
quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai
mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo
quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất
lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của
người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy
định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động
cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm này,
có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó
là: Những người không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là
những người không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao động
quy định nhưng đang đi học…
I.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực ở đây thể hiện qua hai khía cạnh là quy mô nguồn nhân lực và
chất lượng nguồn nhân lực. Đây là cơ sở để đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư cho
nhân lực.
I.1.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá quy mô nguồn nhân lực
Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá quy mô nguồn nhân lực nhưng thường tập trung ở
các chỉ tiêu sau:
 Tỷ lệ nguồn nhân lực trong dân số.
 Tỷ lệ lực lượng lao động trong dân số.
 Tỷ lệ tham gia lao động của người lao động trong độ tuổi lao động.
 Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động có việc làm trong dân số.
I.1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu, trong đó có các
chỉ tiêu chủ yếu sau:
+ Nhóm chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khoẻ của nguồn nhân lực:
 Tuổi thọ bình quân.
 Chiều cao và cân nặng trung bình của người lao động.
 Chỉ tiêu phân loại sức khỏe.



3

 Chỉ tiêu dân số trong độ tuổi lao động không có khả năng lao động và suy giảm
sức khỏe.
 Một số chỉ tiêu cơ bản về y tế, bệnh tật: tỷ suất chết, tỷ suất dân số trong độ tuổi
bị nhiễm HIV/AIDS…
+ Chỉ tiêu trình độ văn hóa của nguồn nhân lực:
 Tỷ lệ người biết chữ.
 Tỷ lệ đi học chung.
 Tỷ lệ đi học ở các cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
+ Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kĩ thuật của nguồn nhân lực:
 Tỷ lệ cán bộ tổ chức.
 Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học.
 Tỷ lệ cán bộ trên đại học.
+ Chỉ số phát tiển con người HDI:
HDI là thước đo tổng hợp về sự phát triển con người trên ba phương diện sức
khỏe, trí thức và thu nhập. Ba chỉ tiêu thành phần phản ánh các khía cạnh sau:
 Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình.
 Kiến thức được đo bằng tỷ lệ người mù chữ (với quyền số 2/3) và tỷ lệ nhập học
các cấp giáo dục tiểu học, trung học và đại học (với quyền số 1/3).
 Mức sống đo bằng GDP thực tế đầu người.
Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà còn
nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng xã hội.
+ Một số chỉ tiêu khác:
Bên cạnh những chỉ tiêu có thể lượng hóa được như trên, người ta còn xem xét
đến các chỉ tiêu định tính thể hiện năng lực phẩm chất của người lao động, chỉ tiêu
này được thể hiện qua các mặt:
 Truyền thống dân tộc và bảo vệ tổ quốc.

 Truyền thống về văn hóa văn minh dân tộc.
 Phong tục tập quán, lối sống.
I.1.3 Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
hóa ở Việt Nam
I.1.3.1 Nguồn nhân lực là động lực của sự phát triển
Phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia phải dựa trên nhiều nguồn lực: nhân
lực, vật lực, tài lực,.. Song, yếu tố chính vẫn là nguồn lực con người, vì chỉ có
nguồn lực con người mới tạo ra sự phát triển. Những nguồn lực khác muốn phát
huy tác dụng phải thông qua nguồn lực con người. Nguồn lực con người chính là
động lực của mọi sự phát triển.
I.1.3.2 Nguồn nhân lực là đối tượng mà sự phát triển kinh tế xã hội phải hướng
vào phục vụ
Phát triển kinh tế - xã hội cũng chính là nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm
cho cuộc sống của con người ngày càng tốt hơn. Con người vừa là lực lượng tiêu
dùng của cải vật chất tinh thần của xã hội, nhưng cũng chính nhu cầu tiêu dùng của
con người lại tác động mạnh mẽ tới sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hóa
trên thị trường. Nhu cầu của con người là vô hạn và ngày càng phong phú, đa dạng.
Chính vì vậy, nó đã tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế và xã hội.


4

I.2 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
I.2.1 Quan điểm về đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chỉ dùng vốn hiện tại để
tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản mới, vì mục tiêu
phát triển.
Tài sản mới bao gồm tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị,...) và tài sản trí tuệ
(tri thức, chuyên môn nghiệp vụ,...)
Đầu tư phát tiển bao gồm:

 Đầu tư tài sản vật chất (tài sản thực).
 Đầu tư phát triển tài sản vô hình.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung của đầu tư phát
triển những tài sản vô hình. Nó cũng là việc chỉ dùng vốn hiện tại, tiến hành các
hoạt động làm tăng quy mô và chất lượng nguồn nhân lực, vì mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia.
I.2.2 Nội dung của đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan
trọng trong việc phát triển mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. Gia
nhập WTO không lâu, Việt Nam gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít thách
thức trên con đường phát triển. Trong đó có việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực
thế nào để đạt hiệu quả? Để trả lời cho câu hỏi đó, chúng ta sẽ nghiên cứu nội dung
của vấn đề này để từ đó tìm ra những giải pháp và hướng đi đúng đắn cho bài toán
nan giải này. Về cơ bản, đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung
sau:
 Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo ( chính quy, không chính quy, dài hạn,
ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ,…).
 Đầu tư cho đội ngũ lao động.
 Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe.
 Đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động, tả lương
đúng, đủ cho người lao động,…
I.2.2.1 Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo
Cùng với khoa học – công nghệ, vốn đầu tư, chất lượng nguồn nhân lực đóng
vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội. Kinh tế nước ta có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế
giới, thu hút được mạnh mẽ các nguồn đầu tư, đều thuộc phần lớn vào chất lượng
nguồn nhân lực và giáo dục đào tạo có vai trò quyết định đối với việc hình thành
quy mô và chất lượng nguồn nhân lực.
Chính vì vậy, đầu tư nguồn nhân lực cũng là đầu tư vào giáo dục đào tạo của
đất nước. Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo bao gồm:
 Đầu tư cho chương trình giảng dạy

Chương trình giảng dạy là những nội dung, kiến thức sẽ được đưa vào nhà
trường nhằm nâng cao tri thức cho mỗi người tham gia khóa học. Vì vậy, chương
trình giảng dạy ở các cấp cần được coi trọng đúng mức.
Ở nước ta, chương trình học ở các cấp phần lớn thể hiện trong sách giáo khoa.
Đây là loại sách cung cấp kiến thức chuẩn, phục vụ cho việc dạy và học. Sách giáo


5

khoa được phân loại theo đối tượng sử dụng hoặc chủ đề của sách. Kiến thức sách
giáo khoa là một kiến thức khoa học, chính xác theo một trình tự logic chặc chẽ,
được gia công kỹ lưỡng về mặc sư phạm, phf hợp với trình độ học sinh và thời gian
học tập.
Hệ thống sách giáo khoa ở nước ta còn nhiề hạn chế. Trên thế giới có nhiều bộ
sách giáo khoa khác nhau cùng biên soạn cho cùng một môn học, nhưng ở nước ta
chỉ tồn tại một bộ sách duy nhất cho một môn học. Nội dung mặc dù có sự nghiên
cứu kỹ lưỡng để phù hợp với trình độ cả học sinh nhưng chưa thật sự đáp ứng được
với nhu cầu giảng dạy.
Để cải thiện được tình hình nói trên Chính phủ đã đầu tư rất nhiều cho công
cuộc cải cách giáo dục. Đáng lưu ý nhất là vấn đề cải cách sách giáo khoa, cải cách
chương trình giảng dạy ở tất cả các cấp, bỏ lối học thụ động ở cấp đại học, thay vào
đó là đào tạo theo hình thức mới (hình thức tín chỉ), giúp sinh viên có thể chủ động
hơn trong cách dạy và học.
 Đầu tư về đội ngũ cán bộ giảng dạy và phương pháp giảng dạy
Đại hội Đảng cũng đã nhấn mạnh: “Coi đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Vấn đề là làm thế nào để có chất lượng giáo dục tốt đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Trước hết, phải có một đội ngũ giáo viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm và có
chuyên môn sư phạm cao. Họ là những người hương dẫn và truyền đạt kiến thức cơ
bản cho mỗi học viên tham gia khóa học. Nhà nước cần chú trọn hơn nữa trong việc
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ này, đặc biệt là đội ngũ giáo viên mới

ra trường.
Phương pháp giáo dục hay còn gọi là phương pháp giảng dạy là cách thức sử
dụng các nguồn lực trong giáo dục như: giáo viên, trường lớp, dụng cụ học tập, các
phương tiện vật chất để truyền đạt kiến thức cho người học.
Ở nước ta hiện nay đã hình thành và phát triển nhiều phương pháp giảng dạy
khác nhau như:
+ Phương pháp giáo dục truyền thống: giáo viên độc thoại, chủ động tryền đạt kỹ
năng còn người học tiếp thu kiến thức một cách thụ động, giáo viên đọc, học
sinh chép và hầu như chỉ học lượng kiến thức mà giáo viên cho ghi, hoàn toàn
không có sự sáng tạo.
+ Phương pháp giáo dục hiên đại: giáo viên là người thiết kế tổ chức còn bản thân
học sinh là người tự tìm hiểu kiến thức. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn còn
học viên phải tự học hỏi, tự tìm tòi qua sách báo và các phương tiện khác. Theo
phương pháp này thì học sinh chủ động hơn trong cách học, vì vậy tăng khả
năng sáng tạo, tìm tòi của học sinh sinh viên.
Tuy nhiên ở nước ta thì phương pháp giáo dục truyền thống vẫn phổ biến hơn
cả. Chúng ta đã đang và dần dần thay chuyển đổi sang phương pháp học mới nhưng
còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại không ít những bất cập. Phương pháp giảng dạy
kiểu mới có nhiều ưu điểm nhưng đòi hỏi sự hoàn thiện về cơ sở vật chất nên rất
cần sự đầu tư nhiều hơn nữa của chính phủ vào công tác này.
Đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy là hai yếu tố không nhỏ ảnh
hưởng đến chất lượng giáo dục. Đây là một trong những điều kiện quyết định để
nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Ý thức được điều


6

này, Nhà nước rất quan tâm đến việc bồi dưỡng, cập nhật và vận dụng các phương
pháp giảng dạy trong nhà trường cũng như nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của đội
ngũ giảng dạy.

 Đầu tư về cơ sở hạ tầng vật chất cho giáo dục
Cơ sở hạ tầng giáo dục là những điều kiện vật chất, phương tiên giảng dạy đáp
ứng nhu cầu giáo dục. Nhà nước đã đầu tư rất nhiều ngân sách cho việc xây dựng
nhà trường, đầu tư cho phương pháp giảng dạy mới như giảng dạy slide, trình chiếu
power-point,…
Theo luật giáo dục của Việt Nam năm 2005 thì hệ thống giáo dục quốc dân của
Việt Nam bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Các cấp học và
trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
+ Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo.
+ Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
+ Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
+ Giáo dục đại học và sau đại học, đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học,
trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Ngoài ra, bên cạnh hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam thì còn có các cơ
sở giáo dục khác đóng góp vào phát triển nguồn nhân lực. Các cơ sở giáo dục khác
bao gồm:
+ Nhóm trẻ, nhà trẻ.
+ Các lớp độc lập; lớp mẫu giáo, lớp xóa mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp
dành cho trẻ em vì hoàn cảnh khó khăn không được đi học ở nhà trường, lớp
dành cho trẻ em tàn tật, khuyết tật, lớp dạy nghề và lớp trung cấp chuyên nghiệp
được tổ chức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
+ Trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp; trung tâm dạy nghề; trung tâm
giáo dục thường xuyên; trun tâm học tập cộng đồng.
+ Viện nghiên cứu khoa học đợc giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp
với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ.
Đầu tư cho giáo dục tại Việt Nam tăng dần qua các năm. Ngân sách dành cho
giáo dục chiếm một phần lớn trong tổng đầu tư của quốc gia. Điều đáng chú ý là
ngân sách nhà nước dành cho phát triển hệ thống trường đào tạo nghề tăng lên rõ
rệt. Việt Nam ngày càng coi đào tạo nhề là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân
lực và lực lượng lao động xã hội. Điều này cũng phản ánh qua chiến lược công

nghiệp hóa – hiện đại hóa là phải đẩy mạnh giáo dục đào tạo, trong đó có đào tạo kỹ
thuật và dạy nghề.
I.2.2.2 Đầu tư cho công tác y tế, chăm sóc sức khỏe
Sức khỏe là vốn quý của con người. Để có thể sống, học tập và làm việc một
cách hiệu quả và năng suất thì con người cần phải có sức khỏe tốt. Có thể khẳng
định rằng đầu tư chăm sóc sức khỏe con người hay đầu tư vào lĩnh vực y tế cũng là
đầu tư phát triển.
Đặc biệt, đầu tư phát triển nguồn nhân lực thì không thể không đầu tư phát triển
y tế và chăm sóc sức khỏe người lao động. Dịch vụ y tế được coi là hàng hóa không
thể thẩm định được. Vì vậy, đầu tư vào lĩnh vực này cũng có nhiều điểm khác biệt
với các ngành khác.


7

Có ba loại dịch vụ y tế:
+ Dịch vụ y tế công cộng: là các dịch vụ mà lợi ích của nó không chỉ giới hạn ở
việc cung ứng trực tiếp các dịch vụ khám chữa bệnh cho người sử dụng mà còn
cung ứng gián tiếp cho cộng đồng như các dịch vụ phòng bệnh, giáo djc y tế.
+ Dịch vụ y tế cho các đối tượng cần được chăm sóc ưu tiên: là các dịch vj dành
cho các đối tượng đặc biệt như người nghèo, bà mẹ - trẻ em, người có công với
cách mạng,..
+ Dịch vụ y tế cá nhân: là các dịch vụ chỉ cung cấp cho người sử dụng dịch vụ.
Trên góc độ vĩ mô, đầu tư phát triển trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe bao
gồm:
 Đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng khám chữa bệnh ở các tuyến.
Bệnh viện là hệ thống không thể thiếu được trong nhu cầu khám chữa bệnh và
chăm sóc sức khỏe. Nhà nước trích một số tiền lớn nhằm xây dựng và nâng cấp hệ
thống bệnh viện một cách hợp lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của từng
địa phương, từng vùng lãnh thổ, thực hiện mục tiêu công bằng, chất lượng, hiệu quả

trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Mục tiêu chung là đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận một cách thuận lợi
với các dịch vụ chăm sóc chất lượng tại các bệnh viện. Đảm bảo tính hệ thống và
liên tục trong điều trị chuyên môn, từ cấp cơ sở đến cấp trung ương, phát triển cân
đối hợp lý giữa các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa theo hướng chuyên sâu.
Nâng cấp chất lượng dịch vụ, đầu tư vào các trang thiết bị mới, đáp ứng nhu cầu
khám chữa bệnh của người dân.
Theo vùng lãnh thổ hệ thống bệnh viện được phân bổ rộng rãi trên cả nước, bao
gồm các bệnh viện công lập, tư nhân. Nhà nước ngày càng khuyến khích việc hình
thành và phát triển các bệnh viện theo hướng đa dạng hóa các loại hình khám chữa
bệnh, khuyến khích thành lập các bệnh viện bán công, dân lập, tư nhân có vốn đầu
tư nước ngoài nhưng bệnh viện công lập vẫn giữ vai trò chủ đạo.
 Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế chăm sóc sức khỏe.
Trang thiết bị y tế là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả và
chất lượng của công tác y tế, do vậy cần được tăng cường cả về số lượng và chất
lượng của các thiết bị này; bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật tư, phương tiện
vận chuyển chuyên dụng cho các hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khỏe.
Việc đầu tư vào lĩnh vực này cần chú ý những nội dung sau: Trang thiết bị y tế
là những lĩnh vực chuyên dụng và rất đắt tiền đòi hỏi yêu cầu khắt khe về kỹ thuật,
vì vậy cần có kinh phí lớn thì mới có được sự đầu tư hiệu quả. Đầu tư phải trọng
tâm trọng điểm nhằm đạt được hiệu quả, khoa học và kinh tế; xây dựng kế hoạch
đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất trang thiết bị y tế trong nước có
ưu thế. Tạo môi trường hấp dẫn các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu khoa học
và công nghệ thuộc các ngành, các địa phương tham gia sản xuất trang thiết bị y tế;
khuyến khích dùng sản phẩm trong nước, giảm dần nhập khẩu. Có chính sách
khuyến khích ưu tiên đối với việc cử cán bộ đi đào tạo về nghiên cứu sản xuất trang
thiết bị trong nước.


8


Bộ Y tế thành lập cơ sở nghiên cứu với sự tham gia của các cơ sở trực thuộc
nhằm nghiên cứu khả năng ứng dụng của các trang thiết bị y tế, các phương pháp
chần đoán điều trị mới trên thế giới để có thể áp dụng vào Việt Nam.
 Đầu tư cho đội ngũ cán bộ y tế.
Việc đầu tư cho cán bộ y tế là cần thiết vì các trang thiết bị chỉ là những phương
tiện hỗ trợ cho việc khám chữa và chẩn đoán bệnh tật cho người bệnh, còn lực
lượng chủ chốt trong ngành vẫn là đội ngủ cán bộ y tế.
Cần tiến hành đầu tư cho hệ thống giáo dục, đào tạo ngay từ trong nhà trường.
Việc đào tạo phải được kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, đầu tư trang bị các
công cụ phục vụ cho công tác học tập và giảng dạy. Liên quan đến tính mạng con
người nên chuyên môn của đội ngũ này có vai trò cực kỳ quan trọng.
Có những chính sách khuyến khích như cấp học bổng, tổ chức các chương trình
du học cho các sinh viên y khoa có thành tích học tập tốt, nhằm nâng cao chuyên
môn và kinh nghiệm.
Bên cạnh yếu tố chuyên môn nghiệp vụ thì phẩm chất người bác sĩ cũng là yếu
tố quan trọng không kém. “Lương y như từ mẫu”, đội ngũ cán bộ y tế phải là những
người hết lòng và tận tâm chăm sóc người bệnh. Để làm được điều này thì đội ngũ y
tế phải được chi tả và phụ cấp đúng với trình độ của họ, giúp học chi trả những chi
tiêu thiết yếu trong cuộc sống.
 Đầu tư cho công tác tuyên tuyền giáo dục phổ biến kiến thức sức khỏe.
Đây là công tác quan trọng nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về bệnh tật
cho người dân. Công tác này cần chú trọng ngay từ cấp cơ sở thông qua các chương
trình mục tiêu quốc gia về y tế; thông qua cán bộ y tế ở cấp cơ sở cũng như các
phương tiện truyền thông đại chúng người dân có thể cập nhật kịp thời những loại
bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao cũng như nguy hiểm cho toàn xã hội, từ đó có
những biện pháp phòng và chống kịp thời.
I.2.2.3 Đầu tư cải thiện môi trường làm việc cho người lao động
Môi trường lao động là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất của người lao
động. Đảm bảo điều kiện, môi trường làm việc an toàn, vệ sinh và hợp lý cho người

lao động sẽ giúp tránh được các tai nạn, rủi ro và bệnh nghề nghiệp, đảm bảo sức
khỏe về thể chất và tinh thần cho người lao động, do đó sẽ đem lại năng suất làm
việc cao hơn, lợi nhuận lớn hơn.
Môi tường làm việc tốt là môi trường mà người lao động cảm thấy hứng thú với
công việc của mình trong môi trường đó.
Đầu tư cải thiện môi trường làm việc cho người lao động bao gồm:
 Đầu tư cải thiện điều kiện lao động.
Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố tự nhiên, xã hội và kinh tế được biểu
hiện thông qua các công cụ và phương tiện lao động, đối tượng lao động, quá trình
công nghệ, môi trường lao động và sự sắp xếp bố trí chúng trong không gian và thời
gian xác định. Sự tác động qua lại giữa chúng trong mối quan hệ với người lao động
tại chỗ làm việc tạo nên một điều kiện nhất định cho con người lao động.
Trong phần này chúng ta sẽ đề cập tới ba vấn đề, đó là bảo hộ lao động, tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp.


9

Bảo hộ lao động: là tổng hợp tất cả các hoạt động trên mặt luật pháp, kinh tế, xã
hội,..nhằm mục đích cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp, đảm bảo an toàn sức khỏe cho người lao động.
Tai nạn lao động: là tai nạn xảy ra trong quá trình lao động do kết quả của sự
tác động từ bên ngoài của các yếu tố nguy hiểm gây chết người hoặc làm tổn
thương chức năng hoạt động của một bộ phận nào đó trên cơ thể.
Bệnh nghề nghiệp: là bệnh phát sinh do ảnh hưởng và tác động thường xuyên
kéo dài của các yếu tố có hại phát sinh trong sản xuất lên cơ thể người lao động.
Những người làm việc trong môi trường độc hại, ô nhiễm thường mắc phải bệnh
nghề nghiệp. Để hạn chế vấn đề này nhà nước và các doanh nghiệp cần tổ chức tốt
công tác bảo hộ cho người lao động và có những chính sách ưu đãi phù hợp đối với
những đối tượng này.

 Vấn đề trả lương đúng, đủ cho người lao động.
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh
nghiệp phải trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng lao động mà người
lao động cống hiến cho doanh nghiệp.
Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt. Chính vì vậy tiền lương không
phải là vấn đề thuần túy về kinh tế mà còn là vấn đề xã hội rất quan trọng liên quan
đến đời sống và trật tự xã hội. Trả tiền lương không đúng và đủ cho người lao động
có thể gây đình công, bất mãn trong thái độ làm việc của công nhân,.. Từ đó ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Ở nước ta, mức lương tối thiểu còn chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của
người lao động. Bên cạnh vấn đề trả lương đúng đủ cho người lao động, nhà nước
và các doanh nghiệp đang có những giải pháp nhất định để hoàn chỉnh vấn đề tiền
lương, tạo ra động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao động
của mình.
 Đầu tư nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người lao động.
Ngoài những điều kiện vật chất thì yếu tố tinh thần có ảnh hưởng không nhỏ
đến năng suất lao động. Nhận thức được điều này các doanh nghiệp luôn tìm cách
nâng cao đời sống tinh thần của công nhân viên bằng các hoạt động thể thao, giải
trí, văn nghệ,..
Những hoạt động này đã ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng lao động và năng
suất lao động trong mỗi doanh nghiệp.
I.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển nguồn nhân lực
I.2.3.1 Các chính sách của nhà nước cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Các chính sách của nhà nước có ảnh hưởng lớn tới các hoạt động đầu tư nói
chung và đầu tư cho nguồn nhân lực nói riêng, bao gồm các chính sách đầu tư cho
giáo dục, y tế, môi trường, điều kiện làm việc, chính sách thu hút vốn hiệu quả,…
Chính sách của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu
tư nhân lực.
Với mỗi giai đoạn khác nhau thì các chính sách của nhà nước cũng có những
nét khác biệt nhất định, gắn với chiến lược phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.

Trong điều kiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nước ta hiện nay thì chính sách đầu
tư cho nguồn lao động chất lượng cao cũng không phải là điều kiện khó hiểu. Để


10

huy động hiệu quả nguồn vốn đầu tư, nhà nước đã có những chính sách và giải pháp
hợp lý đồng bộ như việc đa dạng hóa các hình thức và phương tiện huy động vốn,
tạo môi trường chính trị ổn định nhằm thu hút vốn có hiệu quả, nâng cao hiệu quả
đầu tư.
I.2.3.2 Các yếu tố khác
Hệ thống giáo dục nước ngoài là yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta. Chúng ta đã liên doanh – liên kết, hợp tác – đào
tạo với nhiều quốc gia có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, và đã thu về những
thành tựu rất đáng tự hào.
Bên cạnh đó yếu tố vốn nước ngoài (chủ yếu do viện trợ chính thức ODA và
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) cũng góp phần không nhỏ trong đầu tư phát triển
nhân lực. Với xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì yếu tố quốc tế là một trong những
nhân tố có tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực.


11

PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở
VIỆT NAM (giai đoạn 2010 – 2014)
I.3 Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay (giai đoạn
2010 – 2014)
Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong thời
kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là nguồn
lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 đã được Đại hội Đảng XI thông qua ngày
16/2/2011. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam vẫn còn thấp và cần
phải được cải thiện càng sớm càng tốt.
Theo kết quả điều ta dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu
người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là
nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành,
nghề. Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 62 triệu người (chiếm hơn 70%
dân số); nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân
lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người (chiếm
khoảng 2,15% dân số); nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người,
trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người… Sự xuất hiện của giới
doanh nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong nguồn nhân lực, nếu biết
khai thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội.
I.3.1 Đầu tư phát triển giáo dục đào tạo
Hiện nay, ở Việt Nam đang hình thành hai loại hình nhân lực: nhân lực phổ
thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông,
trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của
Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng
cao. Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo
trên tổng số 8,4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và
ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật
thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ sở cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua
các tỷ lệ: Đại học và trên đại học là 1; trung học học chuyên nghiệp là 1,3; công
nhân kỹ thuật là 0,92. Trong khi trên thế, tỷ lệ này là 1-4-10. Theo đánh giá của
Ngân hàng thế giới(WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề,
công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn
so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt
Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB),
trong khi Hàn Quốc là 6,91 điểm; Ấn Độ là 5,76 điểm; Malaysia là 5,59 điểm; Thái

Lan là 4,94 điểm,..


12

Biểu đồ 2.1: Vốn đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở Việt Nam
Đơn vị: tỷ đồng

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Qua biểu đồ trên có thể thấy được vốn đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo
qua các năm có sự biến động thất thường. Từ năm 2010 đến 2012 vốn đầu tư tăng
7835 tỷ đồng, từ 23580 tỷ đồng (2010) lên 31415 tỷ đồng (2012). Nhưng sang năm
2013 vốn đầu tư lại giảm 4270 tỷ đồng xuống còn 27145 tỷ đồng, và tăng trở lại
trong năm 2014 là 29053 tỷ đồng.
Cơ sở vật chất – kĩ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng thêm và có
bước hiện đại hóa. Tuy nhiên, cơ chế tài chính và cơ sở vật chất giáo dục còn lạc
hậu. Đến năm 2014, số phòng học mới được đáp ứng được 65,5% yêu cầu, còn
48850 phòng học chưa được đầu tư. Nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất cho trường
học tại các địa phương cần số vốn khoảng 234000 tỷ đồng.
Dạy nghề tiếp tục được phát triển về quy mô, chất lượng đào tạo được nâng cao.
Hệ thống dạy nghề chuyển mạnh đào tạo từ hướng cung sang hướng cầu. Bước đầu
đã có sự gắn kết giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp. Tuy nhiên, chưa gắn với quy
hoạch phát triển nghề, xã hội hóa dạy nghề được triển khai chưa tốt, chất lượng đào
tạo nghề nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp và của thị
trường lao động. Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp và cơ sở dạy nghề còn lỏng
lẻo.
Số lượng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh. Tuy nhiên quản lý
giáo dục và đào tạo còn yếu kém, ôm đồm, sự vụ. Quản lý nhà nước về giáo dục đại
học, giáo dục nghề nghiệp bị chia cắt, chồng chéo, phân tán. Nhiều cơ sở giáo dục
đại học, nghề nghiệp mới được nâng cấp không đáp ứng được điều kiện đảm bảo

chất lượng giáo dục. Công tác quản lý chất lượng còn hạn chế, nặng về hình thức.
Công tác đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục chưa được đồng bộ, chưa đảm
bảo độ tin cậy.


13

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tại năm học 2012-2013
(Đơn vị: %)

(Nguồn: Bộ giáo dục đào tạo)
Qua biểu đồ trên ta thấy được tỷ lệ nhà giáo đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn
được nâng cao. Tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn ở cấp tiểu học đạt 99,63%, ở cấp
trung học cơ sở là 99,22% và trung học phổ thông là 99,6%. Tỷ lệ giáo viên trên
chuẩn ở cấp tiểu học là 61,3%, trung học cơ sở là 46,2% và trung học phổ thông là
6,93%.
Ngoài ra, tình trạng thừa – thiếu giáo viên, phân bố không đều giữa các địa
phương, các môn học vẫn còn diễn ra. Năng lực nghề nghiệp của giáo viên chưa
đáp ứng đủ nhu cầu phát triển xã hội.
I.3.2 Đầu tư phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe và xóa đói giảm nghèo
Đầu tư cho Y tế không chỉ mang lại lợi ích cho số đông mà còn có tác dụng rất
tốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung, điều này được thể hiện ở vai trò của
sức khỏe nguồn nhân lực trong vấn đề quản lý vĩ mô.
Đầu tư cho Y tế còn mang tính chất lâu dài để đảm bảo sức khỏe của xã hội.
Hiện nay ngành Y vẫn còn đang gặp nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị,
máy móc, nguồn nhân lực, khoa học cơ bản và đào tạo, trong đó đầu tư cho nguồn
nhân lực là một vấn đề nổi cộm. Trên thực tế hiện nay với guồng quay và sức ép
công việc, những Bác sĩ có năng lực thực sự, có danh tiếng và uy tín hiện đang phải
cáng đáng quá nhiều việc một lúc, khiến cho họ không thể chuyên tâm trong công
tác đào tạo, từ đó sinh viên Y khoa ra trường có một tỷ lệ không nhỏ chưa biết hành

nghề và có những quyết định điều trị sai lầm .


14

Với một sức khỏe tốt ngay từ khi mới hình thành, được chăm sóc bởi chế độ
dinh dưỡng và môi trường hợp lý sẽ tạo ra những con người khỏe mạnh cả về thể
chất và tâm thần. Đó chính là nguồn nhân lực vô cùng quý giá cho mỗi đất nước mà
cho dù có hàng ngàn tỷ USD cũng không thể so sánh bằng. Với mỗi quốc gia, nhân
lực là sức mạnh nội tại to lớn nhất, giúp cho quốc gia đó có phồn thịnh hay không,
có vươn mình lên với thế giới hay không, điều này đã được chứng minh rất tốt tại
đất nước Nhật Bản.
Bảng 2.1: Tổng số cơ sở khám chữa bệnh ở Việt Nam 2010 - 2014

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy số lượng cơ sở khám chữa bệnh tăng liên
tục qua các năm trong giai đoan 2010 – 2014. Trong đó chiếm số lượng lớn nhất là
các trạm y tế xã, phường chiếm đến hơn 80% tổng số cơ sở khám chữa bệnh, và
thấp nhất là các bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng chỉ chiếm 0,1%. Tỷ lệ
các bệnh viện cũng như phòng khám đa khoa tuy qua các năm đều tăng nhưng số
lượng còn ít không đáp ứng đủ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân.
I.3.3 Thực trạng đầu tư cho điều kiện làm việc, tiền lương của người lao động
I.3.3.1 Thực trạng đầu tư cho điều kiện làm việc của người lao động
Theo công bố của Tổng cục thống kê, đến hết tháng 12 năm 2014, cả nước có
hơn 400 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động và là con số cao nhất kể từ năm 2011.
Tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp là hơn 11,8 triệu người.
Tại Việt Nam, trong năm 2014 đã xảy ra 6709 vụ tai nạn lao động, làm chết 630
người. Dù môi trường và điều kiện làm việc của công nhân còn kém nhưng các
doanh nghiệp ít đầu tư khắc phục.
Tuy việc phải đảm bảo điều kiện làm việc được Nhà nước đưa thành quy định

bắt buộc đối với các cơ sở sản xuất, nhưng do trình độ phát triển khoa học, công
nghệ nước ta còn thấp, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp còn hạn chế, nên
đầu tư cho cải thiện điều kiện lao động chưa được nhiều, chưa cơ bản, còn chắp vá.
Điều kiện làm việc của công nhân nước ta còn kém, nhất là ở khu vực doanh
nghiệp ngoài nhà nước. Tình trạng công nhân phải lao động thủ công, nặng nhọc,
làm việc với các máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu chiếm tỷ lệ cao, công nhân phải làm
việc trong môi trường độc hại, nóng, bụi, tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn cho


15

phép và không đảm bảo an toàn vẫn diễn ra rất phổ biến ở các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế. Hiện nay, có tới gần 40% các doanh nghiệp có điều kiện
làm việc ở mức bình thường và kém, khoảng 23,5% doanh nghiệp có môi trường vệ
sinh lao động ở mức trung bình và kém. Việc trang bị các phương tiện bảo hộ lao
động chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, còn khoảng 22,1% công
nhân không được trang bị đầu đủ, hoặc không được trang bị phương tiện bảo hộ lao
động. Thực trạng trên đã tác động xấu đến sức khỏe công nhân, số công nhân mắc
bệnh nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao, khoảng 17,5% và đang có xu hướng tăng. Đặc
biệt, tai nạn lao động nặng, chết người những năm qua là khá lớn và đang có xu
hướng tăng nhanh.
Thực trạng điều kiện làm việc của người lao động nước ta còn thấp là do các
nguyên nhân sau:
- Về phía nhà nước:
 Sự nhận thức tầm quan trọng của vấn đề vệ sinh lao động chưa được các cấp
chính quyền địa phương quan tâm đúng mức. Họ cho rằng vấn đề này nếu được
thực hiện nghiêm túc sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Họ đâu có biết những
hậu quả của tình trạng điều kiện lao động không tốt không chỉ ảnh hưởng đến
sức khỏe của người lao động mà còn làm cho môi trường kinh doanh của địa
phương xấu đi, sức cạnh tranh của sản phẩm yếu đi.

 Tình trạng buông lỏng quản lý những quy định này ở các địa phương dẫn đến
việc các cơ sở sản xuất không biết hoặc cố tình không thực hiện vệ sinh lao
động.
 Công tác chỉ đạo, hướng dẫn thông tin, tuyên tuyền, huấn luyện về pháp luật vệ
sinh lao động còn nhiều hạn chế.
 Việc xử lý các vi phạm chưa được thực hiện một cách nghiêm minh và kịp thời.
- Về phía doanh nghiệp:
 Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều kiện sản xuất kinh doanh còn gặp
nhiều khó khăn, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp cho nên kinh phí triển
khai thực hiện công tác vệ sinh lao động quá ít dẫn đến chất lượng hiệu quả chưa
cao.
 Do chạy theo lợi nhuận và một phần khả năng kinh tế còn hạn chế nên một số
đơn vị vẫn còn tồn tại những thiết bị quá cũ, mặt bằng sản xuất tồi tàn, xuống
cấp mang nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe và gây bệnh nghề nghiệp cho
người lao động.
- Về phía người lao động:
 Do khó khăn về kinh tế nên họ sẵn sàng làm việc trong bất cứ môi trường làm
việc nào miễn là có thu nhập, họ sẵn sàng chấp nhận trả giá.
 Nhận thức của người lao động về sự nguy hiểm và những ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe của môi trường làm việc tồi còn nhiều hạn chế, mặc khác, sự thiếu
thông tin do các doanh nghiệp, các cơ quan chức năng không thông báo.
I.3.3.2 Thực trạng đầu tư cho tiền lương của người lao động
Trả lương cho người lao động được tính như một khoản chi phí của doanh
nghiệp, tuy nhiên nếu nhìn dưới góc độ có tầm nhìn của nhà đầu tư thì đó chính là
cách họ đầu tư rất có hiệu quả. Mức lương hấp dẫn trở thành một trong những tiêu


16

chí hàng đầu thu hút nguồn nhân lực (bên cạnh đó có điều kiện làm việc là yếu tố

quyết định tiếp theo).
Theo công bố năm 2011, mức tăng lương của các công ty nước ngoài là 12,7%,
năm 2012 tụt xuống còn 12,3% thì năm 2013 chỉ còn ở mức 11,1%. Khối các công
ty trong nước còn sụt giảm mạnh hơn, nếu năm 2011 là 15,2% thì năm 2012 là
13,4% và năm 2013 chỉ còn là 11,3%. Trong năm 2014, tỷ lệ tăng lương vẫn ở mức
thấp, 11,1% cho cả khối doanh nghiệp trong nước lẫn nước ngoài do kinh tế vẫn
chưa thoát khỏi khó khăn.
Phân tích về vấn đề tăng lương trong bối cảnh khó khăn này, đại diện một số
doanh nghiệp cho biết, do chi phí giá cả đều tăng, không thể không tăng lương để
giữ chân người lao động, ổn định nhân sự, nhưng cũng vì sự trường tồn của doanh
nghiệp, mức tăng cũng không thể cao như năm trước.
Tiền lương của người lao động tại khu vực ngoài quốc doanh chủ yếu do sự
thỏa thuận giữa hai bên dựa theo các quy định của pháp luật lao động. Tuy nhiên,
trình độ nhận thức của người lao động còn rất yếu, mặt khác do áp lực nhu cầu công
việc nên phần lớn người lao động không thể tự thỏa thuận, hoặc ký bừa không cần
thỏa thuận. Do đó, vai trò của Công đoàn cơ sở hết sức quan trọng. Công đoàn cơ
sở phải là “trợ thủ” vững chắc trong việc dàn xếp, thương lượng với chủ doanh
nghiệp tránh để các mâu thuẫn xảy ra.
Quy định mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với doanh nghiệp năm 2014
như sau:
• Mức 2.700.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn
thuộc vùng I.
• Mức 2.400.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn
thuộc vùng II.
• Mức 2.100.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn
thuộc vùng III.
• Mức 1.900.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên các địa
bàn thuộc vùng IV.
Tăng lương cũng chính là tăng đầu tư cho nguồn nhân lực. Tăng lương chính là
một trong các biện pháp tăng đầu tư cho nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu hội nhập

kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, tăng lương cũng chính là việc đầu tư cho con người.
Đầu tư cho con người chính là một trong những hình thức đầu tư phát triển mang lại
hiệu quả cao nhất, vì đây là việc đầu tư để nâng cao nguồn nhân lực.
I.4 Kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực Việt
Nam (giai đoạn 2010 – 2014)
I.4.1 Quy mô nguồn nhân lực Việt Nam
I.4.1.1 Tỷ lệ lực lượng lao động trong dân số
Năm 2014, dân số Việt Nam ước tính có khoảng 90,5 triệu người. Trong 5 năm
qua, dân số Việt Nam đã tăng thêm trên 4,6 triệu người. Tính trung bình, mỗi năm
Việt Nam tăng trên 929 nghìn người. Tỷ suất dân số trung bình giai đoạn 20102014 đạt 1,06% /năm. Theo thống kê mới nhất, lực lượng lao động cả nước ước tính


17

tới thời điểm năm 2014 là 53,748 triệu người, tăng 502,4 nghìn người so với năm
2013, trong đó lao động nam chiếm 51,28%, lao động nữ chiếm 48,72%.
Dự báo dân số Việt Nam tiếp tục tăng bình quân mỗi năm gần 1%, cơ cấu dân
số tiếp tục chuyển dịch tích cực. Dân số từ 15 tuổi trở lên tăng bình quân mỗi năm
0,98%. Lực lượng lao động tăng bình quân mỗi năm 1,41%. Lao động có việc làm
dự báo tăng bình quân mỗi năm 1,35%. Đây là nguồn lao động thay thế rất lớn cho
lượng lao động già. Tuy nhiên, chính sự gia tăng đó tạo nên sức ép lớn đối với cầu
lao động, do sức ép về việc làm gia tăng. Hệ quả là việc làm không ổn định hoặc
thiếu việc làm, thu nhập thấp và tạo nên tình trạng bất bình đẳng trong quan hệ xã
hội.
I.4.1.2 Tỷ lệ lực lượng lao động chia theo độ tuổi
Bảng 2.2: Tỷ lệ lao động phân theo nhóm tuổi
Đơn vị: %

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Qua bảng số liệu tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh

tế đã qua đào tạo phân theo nhóm tuổi giai đoạn 2010-2014 cho thấy lực lượng lao
động ở các nhóm tuổi có xu hướng tăng dần qua các năm. Lực lượng lao động ở
nhóm tuổi 25-29 luôn chiếm tỷ trọng cao, cao nhất là năm 2014 chiếm 30,1%.
Chiếm tỷ trọng thấp nhất là nhóm lực lượng lao động 15-19 tuổi, tuy nhiên vẫn tăng
nhẹ qua các năm, đặc biệt là năm 2013 chiếm 2,2% tăng thêm 0,9% so với năm
2010 và giảm nhẹ ở năm 2014.
I.4.2 Cơ cấu lao động
I.4.2.1 Cơ cấu lao động theo ngành nghề
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã có tiến bộ, song còn khó
khăn và chậm chạp. Đến nay đại bộ phận lực lượng lao động vẫn tập trung trong
ngành nông- lâm- ngư nghiệp. Tỷ trọng lao động trong nông- lâm- ngư nghiệp
chiếm tới 46,7% năm 2013 và 46,3% năm 2014; số liệu tương ưng các năm trong
ngành công nghiệp và xây dựng là 21,2% và 21,4%; trong ngành dịch vụ là 32,1%
và 32,3% trong tổng số lao động có việc làm cả nước.


18

Bảng 2.3: Cơ cấu lao động có việc làm cả nước theo nhóm ngành kinh tế
Đơn vị: %

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của nước ta đang chuyển đổi mạnh theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng lao động nông- lâm- ngư nghiệp
năm 2014 là 46,3% và có xu hướng giảm trong 5 năm qua. Còn ngành công nghiệpxây dựng và dịch vụ lại có xu hướng gia tăng về lực lượng lao động nhưng không
nhiều.
Tuy nhiên, sự đóng góp của các ngành kinh tế và tốc độ tăng GDP trong những
năm gần đây có chuyển biến theo chiều hướng tích cực song vẫn có sự chênh lệch
lớn, trong đó khu vực nông- lâm- ngư nghiệp có số lượng lao động nhiều nhất
nhưng tỷ lệ đóng góp lại thấp nhất.

I.4.2.2 Cơ cấu lao động theo vùng thành thị - nông thôn
Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hóa, đi kèm theo đó là đô thị hóa
nhằm thu hút vốn đầu tư, thu hút các dự án. Do đó xu hướng thay đổi lao động
thành thị và nông thôn diễn ra rõ nét.
Bảng 2.4: Chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực thành thị và nông thôn

(Nguồn: Niên giám thống kê 2014)
Nhìn chung qua bảng chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực thành thị và nông
thôn giai đoạn 2010 – 2014 ta thấy số lượng lao động nông thôn luôn chiếm tỷ lệ
cao hơn rất nhiều so với số lượng lao động thành thị. Ở cả hai khu vực thành thị và
nông thôn, số lượng lao động tăng đều qua các năm, tuy nhiên không đáng kể.


19

I.4.3 Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng lao động của nguồn nhân lực tuy đã có những bước chuyển biến
đáng kể do có sự cải cách và tăng cường đầu tư trong công tác giáo dục, đào tạo,
dạy nghề, song nhìn chung còn thấp, chưa thể đáp ứng tốt và kịp thời những yêu
cầu của công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập. Về chất lượng nguồn nhân lực,
nếu lấy thang điểm 10 thì Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11 trên 12 nước
Châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới. Những hạn chế của nguồn nhân
lực là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế (năm 2011 Việt Nam xếp thứ 65/141 nền kinh tế được xếp hạng), nhưng đến
năm 2014 đã tụt xuống vị trí thứ 70/148. Số lượng việc làm tạo thêm ở Việt Nam
khá cao nhưng chất lượng việc làm thấp.
Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể
được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số
liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học cao đẳng là 2058922 người, số
tốt nghiệp là 405900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là

421705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự
phân bố theo vùng, miền, địa phương,.. chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với
nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn nhân lực của Nhà nước và xã hội.
Về trình độ chuyên môn kĩ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần
tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối
với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học
trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm
2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9%).
Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,
miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng
của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với
nhu cầu xã hội để phát triển các ngành nghề kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là
để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong
chuỗi giá trị đó. Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có
trình độ chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém
về khả năng thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tran công
nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ
là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi
trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hóa thế giới luôn là
điểm yếu của lao động Việt Nam.
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức
văn hóa công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể của người lao động
chưa cao. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới.
Mặc khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm
hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonexia.



20

Theo đánh giá của tổ chức lao động Quốc tế ILO, nguồn lao động trẻ và dồi dào
đã mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội, nhưng trình độ kỹ năng và chuyên môn thấp
của người lao động lại cản trở Việt Nam nắm bắt những cơ hội về việc làm tốt.
Trầm trọng hơn nữa là sự chênh lệch giữa kỹ năng của hệ thống giáo dục và đào tạo
trang bị cho người lao động và nhu cầu thực tế của doanh nghiệp trong hiện tại và
tương lai.
Bảng 2.5 : Số lượng và tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật

(Nguồn: TCTK (2010, 2014), Điều tra LĐ – VL hàng quý)
Theo báo cáo về Vấn đề thất nghiệp và Việc làm 2014 đến hết quý 2/2014, vẫn
còn trên 43760 nghìn người chiếm 81,75% lực lượng lao động, chưa được đào tạo.
Số lao động qua đào tạo (chỉ tính số có bằng cấp chuyên môn kỹ thuật) chiếm
khiêm tốn, khoảng 18,25% tổng số lao động và tăng rất chậm (năm 2010 là 14,7%).


21

Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng lao động theo trình độ chuyên môn trong các ngành
nghề (tại thời điểm 1/7/2014)

Đến 1/7/2014, có trên 22 triệu người không có chuyên môn kỹ thuật hoặc có
chuyên môn kỹ thuật nhưng không có chứng chỉ bằng cấp (trên biểu đồ là phần màu
xanh lá cây đậm), đang làm những nghề đòi hỏi có chuyên môn kỹ thuật (đặc biệt là
các nghề lao động có kỹ thuật trong nông nghiệp, thợ thủ công có kỹ thuật, thợ có
kỹ thuật lắp ráp và vận hành máy móc,…).
Trái lại, có tới 0,75 triệu người có trình độ đại học và trên đại học (trên biểu đồ
là phần màu ghi sáng) đang làm các nghề yêu cầu chuyên môn thấp hơn (đặc biệt là

các ngành nghề nhân viên dịch vụ cá nhân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và bán hàng
có kỹ thuật; nhân viên – chuyên môn sơ cấp; kỹ thuật làm việc tại văn phòng, bàn
giấy và chuyên môn kỹ thuật bậc trung).
I.4.4 Công tác đầu tư chăm sóc sức khỏe nguồn nhân lực
Dù đã có nhiều sự quan tâm hơn, nhưng nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp của
người lao động vẫn còn khá cao. Bênh cạnh nổ lực của các cơ quan chức năng và
đơn vị sử dụng lao động, bản thân người lao động phải tự bảo vệ sức khỏe trước
mối nguy bệnh nghề nghiệp.
Các báo cáo tại các hội thảo nếu rõ danh mục quy định các bệnh nghề nghiệp
hiện nay có tới 6 bệnh bụi phổi, phế quản và các bệnh liên quan tới phổi. Tính đến
năm 2010, cả nước có 26928 người mắc bệnh nghề nghiệp. Một số bệnh nghề
nghiệp có tỷ lệ cao là: bụi phổi – silic chiếm 75,1%, bệnh đường hô hấp chiếm 32%,
bệnh điếc do tiếng ồn 15,6%. Tỷ lệ người nghỉ ốm ở người lao động thống kê dược
là 24,7%.


×