Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

XU HƯỚNG HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TP.HCM TỪ 2005 ĐẾN 2008 VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI BMI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.3 KB, 8 trang )

XU HƯỚNG HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TP.HCM TỪ
2005 ĐẾN 2008 VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI BMI
Tăng Kim Hồng*, Phan Nguyễn Thanh Bình*, Nguyễn Hoàng Hạnh Đoan Trang, Trần
Thị Minh Hạnh
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nhằm đánh giá sự thay đổi hoạt động thể lực (HĐTL) của trẻ vị thành niên
TPHCM trong vòng 3 năm và mối liên quan với BMI.
Phương pháp: HĐTL của 617 học sinh cấp II được đánh giá 3 lần, mỗi năm 1 lần bằng
máy đo giá tốc trong 7 ngày liên tiếp. Chiều cao và cân nặng cũng được khảo sát. Thời gian
dành cho hoạt động tĩnh, vừa, và nặng mỗi ngày cũng như BMI đã được tính toán. Mô hình
hồi qui cắt dọc với phương trình ước tính chung được sử dụng để đánh giá mối liên quan
giữa HĐTL và BMI.
Kết quả: Thời gian dành cho hoạt động vừa và nặng giảm từ 70 phút/ngày (2005) xuống
22 phút/ngày (2008) (p<0,01). Ngược lại, thời gian dành cho hoạt động tĩnh tăng một cách
có ý nghĩa (p<0,05). Trong vòng 3 năm, BMI của học sinh tăng đáng kể (p<0,001). Phân
tích hồi qui cắt dọc cho thấy mối liên quan nghịch chiều giữa thời gian dành cho HĐTL và
BMI (ß= –0,005, p<0,001) sau khi hiệu chỉnh cho yếu tố học vấn cha mẹ, kinh tế gia đình,
BMI của cha mẹ, giai đoạn dậy thì, tuổi và giới của trẻ.
Kết luận: Xu hướng giảm HĐTL liên quan một cách có ý nghĩa với việc tăng BMI, cho
thấy rằng các biện pháp can thiệp nhằm tăng HĐTL của trẻ em Việt Nam có thể góp phần
phòng ngừa thừa cân/béo phì của cộng đồng này.
Từ khóa: hoạt động thể lực, chỉ số khối cơ thể, trẻ vị thành niên.
SUMMARY
CHANGE IN PHYSICAL ACTIVTY AND ITS RELATIONSHIP WITH BMI IN
ADOLESCENTS
OF HO CHI MINH CITY FROM 2005 TO 2008
Tang Kim Hong, Phan Nguyen Thanh Binh, Nguyen Hoang Hanh Đoan Trang, Tran Thi
Minh Hanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 2 - 2010: 226 - 231
Objective: To evaluate trend in physical activity (PA) of adolescents in HCMC in a 3year period and examines its relationship with BMI.
Methods: 617 students from secondary high schools wore an Actigraph accelerometer
for 7 consecutive days for 3 times, one year apart. Weight and height were also assessed.


Daily times for sedentary, moderate, and vigorous activities as well as BMI were calculated.
Longitudinal regression model with generalized estimating equations (GEE) were used to
assess associations between PA and BMI.


Results: Daily time spent in moderate and vigorous PA declined from 70 min/day (2005)
to 22 min/day (2008) (p<0.01). Conversely, time spent in sedentary activities increased
significantly (p<0.05). Over the three year period, students’ BMI increased significantly
(p<0.001). Longitudinal regression analyses showed the negative association between time
spent in PA and BMI (ß= –0.005, p<0.001) after adjustment for parental education level,
family wealth index, parental BMI status, child’s pubertal status, gender and age.
Conclusion: Decreases in PA were significantly associated with increases in BMI,
suggesting that interventions to increase PA in Vietnamese children could contribute to
preventing overweight/obesity in this population.
Key words: Physical activity, BMI changes, adolescents

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thừa cân/béo phì - nhất là thừa cân/béo phì ở trẻ em và trẻ vị thành niên đang ngày càng
là vấn đề đáng quan tâm ở các nước đang phát triển. Tình trạng độ thị hóa cùng với sự phát
triển về kinh tế đang dần dần đưa đến lối sống ít vận động và các thói quen trong ăn uống với
xu hướng tăng nhiều mỡ và đường. Trong số nhiều yếu tố nguy cơ đã được thừa nhận góp
phần vào việc gia tăng trọng lượng cơ thể ở trẻ vị thành niên, giảm hoạt động thể lực đóng
vai trò khá quan trọng(9,15,10).
Nhiều nhà nghiên cứu đã từng nhắc đến lợi ích trước mắt và lâu dài của hoạt động thể
lực . Những hiểu biết về ảnh hưởng của hoạt động thể lực lên sự phát triển cân nặng,
tầm vóc của trẻ em và trẻ vị thành niên là hết sức cần thiết, tuy nhiên, những nghiên cứu
trước nay về hoạt động thể lực ở trẻ vị thành niên hầu hết chỉ thực hiện tại các nước
phương Tây(8,20), chỉ có vài nghiên cứu ở vùng châu Á(23,22,12,4). Tại Việt Nam, việc kém
hoạt động thể lực đã được chứng minh có liên quan đến tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ em
mẫu giáo(17) và cả học sinh cấp II(19). Tuy nhiên những nghiên cứu này chỉ dừng lại ở thiết

kế nghiên cứu cắt ngang và đặc biệt, các nghiên cứu về ảnh hưởng của hoạt động thể lực
lên sự thay đổi chỉ số khối cơ thể (BMI) vẫn chưa được thực hiện. Bài báo này nhằm
đánh giá xu hướng hoạt động của trẻ vị thành niên TPHCM trong thời gian bốn năm
(2005-2008) và khảo sát mối liên quan giữa hoạt động thể lực với sự thay đổi BMI.
(1,21)

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu được thực hiện trên học sinh cấp II TPHCM từ năm 2005
đến năm 2008. Cở mẫu được tính dựa trên giả thiết có khoảng 25% học sinh có hoạt động
thể lực thiếu(19) và sự thay đổi BMI giữa hai nhóm hoạt động thể lực đủ và thiếu là 0,5, độ
lệch chuẩn là 1,5, mức ý nghĩa là 95% và độ mạnh của phép kiểm là 80%. Cở mẫu cần thiết
cho nghiên cứu này là 680 học sinh với ước tính có khoảng 15% học sinh bị mất theo dõi sau
4 năm. Các học sinh tham gia nghiên cứu thuộc các lớp được chọn một cách ngẫu nhiên từ
18 trường cấp II các quận nội thành TPHCM (mỗi trường một lớp). Học sinh được đánh giá
mỗi năm một lần trong vòng 3 năm. Số liệu thu thập bao gồm chiều cao, cân nặng, mức độ
dậy thì (sử dụng bảng câu hỏi tự đánh giá qua hình vẽ của Tanner (16)). Chiều cao học sinh


được đo bằng thước đo chiều cao đứng (Microtoise) với độ chính xác đến 0,1 cm. Cân nặng
học sinh được đo bằng cân điện tử (Tanita) với độ chính xác đến 0,1 kg. Hoạt động thể lực
được đo bằng máy gia tốc (accelerometer). Học sinh được yêu cầu đeo máy trong vòng 7
ngày (trừ lúc tắm, đi bơi và ngủ) để tính thời gian dành cho hoạt động tĩnh, hoạt động thể lực
nhẹ, vừa và nặng. Hoạt động tĩnh được khai thác bằng bảng câu hỏi phỏng vấn. Chiều cao,
cân nặng của cha mẹ và tình trạng kinh tế gia đình (sự sở hữu của 14 loại vật dụng trong nhà)
được thu thập qua bảng câu hỏi tự trả lời gởi đến phụ huynh. Tất cả đối tượng nghiên cứu và
phụ huynh đều được giải thích rõ ràng mục đích và nội dung nghiên cứu, và chỉ tham gia sau
khi đã ký tên vào bảng đồng ý.
Phân tích số liệu
Số liệu được nhập, làm sạch và xử lý bằng phần mềm Stata 10.0. Chỉ số khối cơ thể
(BMI) được tính dựa vào cân nặng và chiều cao. Với số liệu ghi nhận từ máy đo gia tốc,

sau khi được tải về máy tính, dữ liệu được kiểm tra để loại bỏ những trường hợp học sinh
đeo máy ít hơn 10 giờ mỗi ngày và ít hơn 4 ngày/tuần. Dữ liệu trong máy đo gia tốc được
biểu diễn ở dạng “số lần đếm được” (count) trong 1 phút và được quy đổi ra MET dựa
vào công thức của Freedson (7). Kinh tế gia đình được đánh giá dựa vào chỉ số tài sản
(Wealth Index) - được tính dựa vào phương pháp phân tích thành phần chủ yếu (principal
component analysis) và có cân nhắc đến tỷ trọng của từng thành phần khi tính toán (6).
Tất cả phân tích được thực hiện chung cho toàn bộ mẫu khảo sát và riêng cho từng giới.
Chúng tôi so sánh các đặc điểm ở giai đoạn đầu (baseline) của những đối tượng còn lại trong
nghiên cứu và những đối tượng ra khỏi cuộc nghiên cứu để đánh giá những sai lệch có thể có
trong phân tích. Do biến số thời gian dành cho hoạt động thể lực (vừa và nặng) và hoạt động
tĩnh phân phối không bình thường nên được chuyển sang dạng log để đưa về phân phối bình
thường. Sự khác biệt về hoạt động thể lực (log của trung bình thời gian hoạt động vừa và
nặng) giữa hai giới được so sánh bằng phép kiểm t. Chúng tôi sử dụng mô hình hồi qui tuyến
tính với phương trình ước tính tổng quát (generalised estimation equations – GEEs) để khảo
sát mối liên quan dọc (longitudinal relationship) giữa thay đổi BMI (khác biệt giữa BMI năm
cuối và BMI năm đầu) và hoạt động thể lực trong nhiều năm.
KẾT QUẢ
Có 617 học sinh hoàn thành nghiên cứu trên tổng số 693 học sinh được mời tham gia. Tỷ
lệ mất đối tượng theo dõi là 10,97%. Trong nghiên cứu này, tỉ lệ học sinh nam và nữ xấp xỉ
bằng nhau. Trung bình tuổi của các đối tượng nghiên cứu là 13,4 (± 0.8) năm. Sử dụng số
liệu của điều tra ban đầu (năm 2005), chúng tôi so sánh đặc điểm của những trẻ còn lại và
không còn lại trong nghiên cứu đến năm 2008. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý
nghĩa về BMI (theo tuổi và giới), lượng năng lượng hấp thu, thời gian dành cho hoạt động
vừa và nặng và thời gian xem TV, chơi game hàng ngày giữa 2 nhóm này (số liệu không
trình bày ở đây). Trong vòng ba năm, trung bình BMI của các đối tượng nghiên cứu tăng
một cách có ý nghĩa từ 19,1 lên đến 20,5 (p<0.001) và BMI của trẻ nam luôn cao hơn trẻ nữ
(p<0.001).


Xét về hoạt động thể lực, thời gian dành cho hoạt động vừa và nặng của học sinh giảm

dần từ năm 2005 đến 2008, trong đó, trung vị thời gian dành cho hoạt động nặng giảm từ 13
phút/ngày (năm thứ nhất) xuống còn 10 phút/ngày (năm thứ ba); trung vị thời gian dành cho
hoạt động vừa giảm từ 57 phút/ngày (năm thứ nhất) xuống còn 12 phút/ngày (năm thứ ba)
(p<0,01). Xu hướng giảm này xảy ra ở tất cả mọi lứa tuổi. Khi xét riêng hoạt động thể lực
của mỗi giới thì trong từng năm, nam luôn có thời gian dành cho hoạt dộng vừa và nặng
nhiều hơn nữ (p<0.01) (trong năm thứ nhất, thứ hai và thứ ba trung vị thời gian hoạt động
vừa và nặng của nam lần lượt là 85 phút/ngày, 64 phút/ngày và 17 phút/ngày trong khi nữ là
47 phút/ngày, 35 phút/ngày và 7 phút/ngày) (Hình 1).

Ngược lại, trung vị thời gian dành cho hoạt động tĩnh của các học sinh trong mẫu khảo
sát cũng tăng dần qua các năm từ 449 phút/ngày (năm thứ nhất) lên 680 phút/ngày (năm thứ
ba) (p<0,05), trong đó thời gian dành cho hoạt động tĩnh của nữ luôn luôn cao hơn nam
(Hình 2).


Bảng 1 trình bày kết quả phân tích hồi qui tuyến tính với phương trình ước tính tổng
quát (generalised estimation equations – GEEs) của hoạt động thể lực vừa đến nặng ở trẻ
vị thành niên với thay đổi BMI. Sau khi kiểm soát cho các yếu tố gây nhiễu khác, hoạt
động thể lực có liên quan nghịch với thay đổi BMI, với hệ số hồi qui (ß) là –0.43, (KTC
95% = -0,62, -0,25). Trong khi giai đoạn hậu dậy thì làm giảm nguy cơ tăng BMI thì các
yếu tố như: tuổi lớn hơn, nam giới, tình trạng thừa cân của cha và/hoặc mẹ, trình độ học
vấn của cha mẹ, và kinh tế gia đình góp phần làm tăng BMI ở trẻ vị thành niên. Thói
quen dùng trái cây/rau củ cũng làm giảm sự tăng BMI, tuy nhiên, mối liên quan này
không có ý nghĩa về mặt thống kê trong phân tích đa biến.
Bảng: Hệ số hồi qui tuyến tính, giá trị p và khoảng tin cậy 95% của mô hình hồi qui tuyến
tính đa biến nhằm tiên đoán sự thay đổi BMI sau 3 năm
Beta

95% CI


Hoạt động thể lực (phút/ngày)

-0,005

(-0,008, -0,002)

13 tuổi

0,291

(0,124, 0,457)

14 tuổi

0,457

(0,286, 0,628)

≥ 15 tuổi

0,595

(0,410, 0,783)

Nam

1,037

(0,513, 1,561)


Dậy thì

0,024

(-0,309, 0,358)

Hậu dậy thì

-0,606

(-1,054, -0,158)

Mẹ thừa cân

2,150

(1,153, 3,147)

Cha thừa cân

1,658

(0,892, 2,423)

Cha và mẹ đều thừa cân

1,979

(0,172, 3,786)


Mẹ có trình độ học vấn cao

1,151

(0,179, 2,123)

Cha có trình độ học vấn cao

0,175

(-0,594, 0,943)

Cha và mẹ đều không có trình độ
học vấn cao

1,013

(0,415, 1,611)

Trung bình (Tam phân vị thứ hai)

1,041

(0,426, 1,656)

Giàu nhất (Tam phân vị thứ ba)

1,479

(0,849, 2,109)


Thường xuyên ăn trái cây

-0,164

(-0,920, 0,592)

Thường xuyên ăn rau quả

-0,942

(-1,731, -0,152)

Thường xuyên ăn trái cây và rau
quả

-0,581

(-1,172, 0,009)

Tuổi lúc bắt đầu tham
gia nghiên cứu
Giới tính
Giai đoạn dậy thì

Tình trạng BMI của cha
mẹ

Trình độ học vấn cha
mẹ


Kinh tế gia đình*

Dùng trái cây/rau
quả**


* Tam phân vị thứ 1 tương ứng nghèo nhất và tam phân vị thứ 3 tương ứng giàu nhất
** Thường xuyên = dùng gần như mỗi ngày
BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu này chúng ta có đủ bằng chứng để thấy rằng trẻ vị thành niên TPHCM
đang có xu hướng vận động thể lực ngày càng giảm trong khi thời gian dành cho hoạt động
tĩnh ngày càng tăng. Trước đây đã từng có nghiên cứu về tình trạng hoạt động thể lực ở trẻ vị
thành niên TPHCM vào năm 2004 với kết quả là khoảng 25% trẻ em đang thiếu vận động
thể lực(19). Tuy nhiên, đó chỉ là nghiên cứu cắt ngang khảo sát vào một thời điểm. Nghiên cứu
này là nghiên cứu đoàn hệ đầu tiên thực hiện trên học sinh cấp II TPHCM nhằm khảo sát xu
hướng vận động, thói quen ăn uống và ảnh hưởng của những yếu tố này lên sự thay đổi BMI.
Kết quả từ nghiên cứu hiện tại hoàn toàn thống nhất với nhiều bằng chứng cho thấy rằng đối
với trẻ em và trẻ vị thành niên tình trạng có và thiếu hoạt động thể lực (đặc biệt là thường
xuyên xem TV) liên quan chặt chẽ với tình trạng béo phì của cơ thể(3,11,2). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, ngoài yếu tố có thể thay đổi được (hoạt động thể lực, thói quen dùng trái
cây/rau quả), những yếu tố không thể thay đổi được (tuổi, giới, có cha/mẹ thừa cân/béo phì,
trình độ học vấn của cha me, kinh tế gia đình) đều có liên quan với sự thay đổi BMI sau 3
năm, trong đó tiền sử gia đình (có cha/mẹ thừa cân/béo phì) là yếu tố hằng định nhất trong
các nghiên cứu gần đây(5,14,13). Mối liên quan giữa tiền sử gia đình (có cha/mẹ thừa cân/béo
phì) và BMI có thể phần nào liên quan đến di truyền nhưng cũng có thể là do ảnh hưởng của
gia đình lên thái độ, thói quen liên quan đến ăn uống và vận động. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy có sự phối hợp của các biến số về thói quen ăn uống và vận động là
những yếu tố nguy cơ độc lập cho sự thay đổi BMI. Dựa trên bằng chứng tìm thấy (thói quen
ăn trái cây/rau củ và vận động thể lực là yếu tố làm giảm nguy cơ tăng BMI), các nghiên cứu

can thiệp về vấn đề thừa cân/béo phì ở trẻ em trong tương lai cần chú trọng đến việc cải thiện
thói quen và hành vi này.
Điểm mạnh của nghiên cứu này là thiết kế nghiên cứu cắt dọc, cho phép chúng tôi khảo
sát sự thay đổi của BMI trong ba năm và đánh giá khách quan ảnh hưởng của các biến số có
thể thay đổi được và không thể thay đổi được trong sự gia tăng BMI ở trẻ vi thành niên. Tuy
vậy, nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế nhất định. Trước hết, thời gian khảo sát ba năm có
thể còn tương đối ngắn để thấy ảnh hưởng của thói quen vận động và ăn uống lên tình trạng
thừa cân/béo phì, là mục đích sau cùng của việc can thiệp. Thứ hai, để tiên đoán cho sự thay
đổi BMI, biến số sử dụng nên là năng lượng hấp thu và năng lượng tiêu hao hơn là thời gian
dành cho hoạt động thể lực và thói quen trong ăn uống – là những biến số được sử dụng
trong nghiên cứu này.


KẾT LUẬN
Để đạt đến thành công trong việc can thiệp thừa cân/béo phì ở trẻ em, chúng ta cần cố
gắng thay đổi nhiều yếu tố (hoạt động thể lực, thói quen ăn uống, ảnh hưởng của gia đình)
mỗi yếu tố một ít, hơn là cố gắng cải thiện một yếu tố đơn lẻ thật nhiều. Nhiều chương trình
can thiệp cần được tiến hành đồng thời nhằm phòng ngừa sự gia tăng tình trạng thừa cân/béo
phì hàng năm ở trẻ em và trẻ vị thành niên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Andersen, L. B., M. Harro, et al. (2006). "Physical activity and clustered
cardiovascular risk in children: a cross-sectional study (The European Youth Heart
Study)." Lancet 368(9532): 299-304.

2.

Berkey, C. S., H. R. Rockett, et al. (2000). "Activity, dietary intake, and weight
changes in a longitudinal study of preadolescent and adolescent boys and girls."

Pediatrics 105(4): E56.

3.

Berkowitz, R. I., W. S. Agras, et al. (1985). "Physical activity and adiposity: a
longitudinal study from birth to childhood." J Pediatr 106(5): 734-8.

4.

Collins, A. E., B. Pakiz, et al. (2008). "Factors associated with obesity in
Indonesian adolescents." International Journal of Pediatric Obesity 3(1): 58-64.

5.

Eck, L. H., R. C. Klesges, et al. (1992). "Children at familial risk for obesity: an
examination of dietary intake, physical activity and weight status." Int J Obes Relat
Metab Disord 16(2): 71-8.

6.

Filmer, D. and L. H. Pritchett (2001). "Estimating wealth effects without
expenditure data--or tears: an application to educational enrollments in states of India."
Demography 38(1): 115-32.

7.

Freedson, P. S., E. Melanson, et al. (1998). "Calibration of the Computer Science
and Applications, Inc. accelerometer." Med Sci Sports Exerc 30(5): 777-81.

8.


Gordon-Larsen, P., R. G. McMurray, et al. (2000). "Determinants of adolescent
physical activity and inactivity patterns." Pediatrics 105(6): E83.

9.

Gortmaker, S. L., K. Peterson, et al. (1999). "Reducing obesity via a school-based
interdisciplinary intervention among youth: Planet Health." Arch Pediatr Adolesc
Med 153(4): 409-18.

10.

Kimm, S. Y., N. W. Glynn, et al. (2005). "Relation between the changes in physical
activity and body-mass index during adolescence: a multicentre longitudinal study."
Lancet 366(9482): 301-7.

11.

Klesges, R. C., L. M. Klesges, et al. (1995). "A longitudinal analysis of accelerated
weight gain in preschool children." Pediatrics 95(1): 126-30.

12.

Li, M., M. J. Dibley, et al. (2006). "Factors associated with adolescents' physical
inactivity in Xi'an City, China." Med Sci Sports Exerc 38(12): 2075-85.


13.

Li, M., M. J. Dibley, et al. (2008). "Factors associated with adolescents' overweight

and obesity at community, school and household levels in Xi'an City, China: results of
hierarchical analysis." Eur J Clin Nutr 62(5): 635-43.

14.

Mo-suwan, L., P. Tongkumchum, et al. (2000). "Determinants of overweight
tracking from childhood to adolescence: a 5 y follow-up study of Hat Yai
schoolchildren." Int J Obes Relat Metab Disord 24(12): 1642-7.

15.

Steinbeck, K. S. (2001). "The importance of physical activity in the prevention of
overweight and obesity in childhood: a review and an opinion." Obes Rev 2(2): 117-30.

16.

Tanner, J. M. (1962). Growth at adolescence; with a general consideration of the
effects of hereditary and environmental factors upon growth and maturation from birth
to maturity. Oxford, Blackwell.

17.

Thi Thu Dieu, H., M. J. Dibley, et al. (2007). "Prevalence of overweight and
obesity in preschool children and associated socio-demographic factors in Ho Chi Minh
City, Vietnam

18.

doi:10.1080/17477160601103922." International Journal of Pediatric Obesity 2(1):
40-50.


19.

Trang, N. H., T. K. Hong, et al. (2009). "Factors associated with physical inactivity
in adolescents in Ho Chi Minh City, Vietnam." Med Sci Sports Exerc 41(7): 1374-83.

20.

Trost, S. G., L. M. Kerr, et al. (2001). "Physical activity and determinants of
physical activity in obese and non-obese children." Int J Obes Relat Metab Disord 25(6):
822-9.

21.

WHO (2007). CDC/WHO Collaborative Center Workshop on Global Advocacy for
National Physical Activity Plans. "Move for Health" publications. San Diego: 90.

22.

Wu, S. Y., N. Pender, et al. (2003). "Gender differences in the psychosocial and
cognitive correlates of physical activity among Taiwanese adolescents: a structural
equation modeling approach." Int J Behav Med 10(2): 93-105.

23.

Wu, T. Y. and N. Pender (2002). "Determinants of physical activity among
Taiwanese adolescents: an application of the health promotion model." Res Nurs
Health 25(1): 25-36.




×