Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Khái quát đặc điểm tự nhiên kinh tế văn hóa xã hội tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.62 KB, 15 trang )

Khái quát đặc điểm tự nhiên kinh tế văn hóa xã hội tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi, một tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung bộ, nằm ở vị trí 14 0
32’ - 150 25’ vĩ độ Bắc, 1080 06’-109 004’ độ kinh Đơng, ở vùng nhiệt đới gió mùa,
hàng năm có nhiệt độ trung bình 25,5 đến 26,5 0C. Nhiệt độ cao nhất có khi lên 40
0

C và thấp nhất là 120C; độ ẩm khơng khí từ 75% đến 85% và lượng mưa trung

bình hàng năm là 1.900mm, cao nhất lên tới 3.500mm nên chịu nhiều hậu quả nặng
nề của bão lụt, hạn hán.
Có vị trí địa lý quan trọng: phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp
tỉnh Bình Định, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum, phía Tây Nam giáp tỉnh Gia Lai, phía
Đơng giáp Biển đơng; lĩnh vực giao thơng Quảng Ngãi có nhiều thuận lợi cơ bản:
Quảng Ngãi gần như nằm giữa hai đầu của đất nước. Quốc lộ 1A, quốc lộ 24A nối
thông Quảng Ngãi với Tây Nguyên, Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan, đường sắt
xuyên Việt, đường thuỷ ra Bắc vào Nam thông suốt và có thể đi đến 12 cảng trong
và ngồi nước. Tỉnh Quảng Ngãi có tổng diện tích tự nhiên 5.135,2 km 2, lại đa
dạng về địa hình (núi, đồi thấp, đồng bằng và bãi cát ven biển). Đồng bằng hẹp và
dài, có nhiều sơng suối chia cắt thành nhiều mảng. Sơng ở Quảng Ngãi tương đối
ngắn, độ dốc cao, lịng sơng hẹp, nước chảy xiết. Có 4 con sơng lớn: Trà Bồng, Trà
Khúc, Sông Vệ, Trà Câu.
Vùng núi, đồi núi chiếm 4/5 diện tích đất đai với nhiều ngọn núi cao. Núi Cà
Đam (Trà Bồng) cao 1650m - một thời là căn cứ chống Pháp của đồng bào Cor.
Núi Cao Muôn (Ba Tơ) cao 1080m - là căn cứ của Đội du kích Ba Tơ từ trước
cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Núi Đá Vách (Minh Long- Sơn Hà)
cao 1126m - là căn cứ chống Pháp của đồng bào Hrê. Núi Xà Lị (Sơn Hà) cao
1200m. Diện tích rừng là 103.850 ha, trong đó rừng tự nhiên 93.852 ha. Tuy nhiên,
tỷ lệ rừng giàu thấp (12%), đại bộ phận là rừng trung bình và rừng nghèo (38,6%
và 35%) nên trữ lượng gỗ không lớn (khoảng 11,5 tỷ cây). Hàng năm rừng đã cung
cấp cho Quảng Ngãi trên 25.000m3 gỗ dùng cho xây dựng, mộc dân dụng và xuất



khẩu. Ngồi ra rừng cịn cho quế, song mây, mn thú, mật ong, trầm hương, sa
nhân...
Quảng Ngãi có sơng, biển, bờ biển dài 130km chạy theo thềm lục địa nên có
điều kiện để phát triển ngành ni trồng thủy sản cả nước mặn và nước lợ. Nhờ có
khí hậu ấm, nước muối có độ mặn lý tưởng, có thể tiến hành nuôi cho năng suất
cao 2 vụ tôm/năm, nuôi bán thâm canh các loại tôm, cua, cá như: tôm sú, tôm bác,
cua xanh, cá mú...Tuy vậy, việc phát triển nuôi trồng thủy sản cũng có nhiều khó
khăn, do biên độ thủy triều thấp nên khó điều tiết được mức nước tự nhiên và bảo
vệ môi trường sống cho vật nuôi. Có nhiều cửa sơng, cồn bãi, hải đảo và thềm lục địa
rộng; có 5 cửa biển là Sa Cần, Sa Kỳ, Cổ Luỹ, Mỹ Á, Sa Huỳnh. Đặc biệt có vịnh
Dung Quất được Chính phủ quyết định xây dựng cảng biển nước sâu và khu kinh tế
trọng điểm của miền Trung. Tại đây sẽ xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 của Việt
Nam.
Đất đai và khí hậu thích hợp cho trồng cây lương thực, cây công nghiệp ngắn
ngày và dài ngày, nhất là cây mía, cây dâu. Nổi bật có vai trị quan trọng và hiệu
quả kinh tế cao đối với đời sống của khoảng 80% cư dân nông nghiệp là cây lúa và
cây mía. Chính cây mía đã làm cho Quảng Ngãi nổi tiếng là xứ sở của mía, đường.
Các đặc sản từ cây mía Quảng Ngãi như đường phổi, đường phèn, kẹo gương... đã
có mặt trên khắp mọi miền đất nước với sự mến mộ của người tiêu dùng. Cùng với
tiềm năng phát triển trồng trọt, với những triền núi thoai thoải cho phép Quảng
Ngãi phát triển chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm như trâu, bị, dê, heo, gà, vịt. Sự
đa dạng của sơng núi, biển khơi cùng góp phần tạo dựng cho Quảng Ngãi 12 cảnh
đẹp nổi tiếng như Thiên Ấn Niêm Hà, Thiên Bút Phê Vân, Cổ Luỹ Cơ Thơn,
Thạch Bích Tà Dương, Hà Nhai Vãn Độ, Long Đầu Hý Thuỷ, La Hà Thạch Trận,
Văn Phong Dạ Vũ, An Hải Sa Bàn, Liên Trì Dục Nguyệt, Thạch Cơ Điều Tấu, Vu
Sơn Lộc Trường.


Từ sự hình thành dân cư, phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội, các đơn vị hành

chính lần lượt ra đời và tiến tới định hình sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Cho
đến năm 2001, tỉnh Quảng Ngãi có 13 huyện thị (1 thị xã-thị xã Quảng Ngãi, 6
huyện đồng bằng, 5 huyện miền núi, 1 huyện đảo-Lý Sơn)
Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng năm 1975, theo Quyết định số147/
QĐ(18/10/1975) của UBND Cách mạng khu Trung Trung bộ, hai tỉnh Quảng Ngãi
và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình. Gần 15 năm xây dựng và trưởng
thành, theo Quyết định số 83 ngày 04/3/1989 của Ban Tổ chức Trung ương Đảng,
Nghị quyết của kỳ họp thứ 12 (khoá IV) của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghĩa
Bình và Quyết định của Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 5 ngày 30/6/1989, tỉnh
Nghĩa Bình được chia thành hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi theo địa giới cũ.
Quảng Ngãi là một trong những tỉnh đông dân của miền Trung. Dân số hiện
nay là 1.257.972 người (năm 2003), nữ giới chiếm 51,5%; mật độ dân số trung
bình 245 người/ km2, trong đó khoảng 500.000 người đang ở độ tuổi đi học. Nguồn
lao động dồi dào, lao động trong độ tuổi chiếm 49,6% dân số (681.412 người)
trong đó nữ chiếm 51,1%, thành thị chiếm 12,03%, nông thôn chiếm 87,97%. Đặc
điểm cơ bản là yêu lao động, trẻ khoẻ, cần cù và có văn hóa.
Quảng Ngãi là nơi sinh cơ, lập nghiệp của các dân tộc Kinh, H’rê, Cor,
Cadong và một số dân tộc khác từ lâu đời. Đồng bào Hrê, Cor, Cadong là cư dân
bản địa. Lớp người Kinh đầu tiên vốn là lưu dân: “dân mộ”, “tội đồ”, “tù binh”, tức
những người cùng cực của xã hội phong kiến. Những người mất tự do và khốn
cùng đó, cả Kinh lẫn Thượng, sớm cố kết lại, không tiếc mồ hôi và xương máu,
biến mảnh đất hoang vu của vùng “phiên trấn” thành những xóm làng đơng đúc,
trù phú. Trải qua bao thế kỷ chinh phục thiên nhiên, chống áp bức, bóc lột, chống
ngoại xâm, chính những điều kiện kinh tế - xã hội, hồn cảnh lịch sử đó đã tạo cho
cư dân Quảng Ngãi vừa có những phẩm chất cao quý của người Việt Nam như
đồn kết, cần cù, thơng minh, sáng tạo, nhân ái, kiên trung, bất khuất... vừa có sắc


thái riêng (khẳng khái, hào hiệp, dám xả thân vì nghĩa lớn). Nhận xét về người
Quảng Ngãi, sách Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi: “Đất bạc, dân chăm, tính tằn

tiện, khơng xa hoa, người qn tử thích việc nghĩa, giữ khí tiết... Địa thế hẹp mà
khí mạch tốt, nên đời nào cũng có người làm đến quan to chức trọng, bước đường
thanh thản, trọn được danh vọng. Ở thôn q thì nhiều người sống lâu, học trị thì
tư chất thông minh, nhiều kiến thức, học nghiệp phần nhiều không chun nhưng
nếu biết có chí thì cũng nhiều người thành tựu”.
Từ bao đời nay, cùng với cả nước, người dân Quảng Ngãi vốn chân chất với
cuộc sống tự do, luôn kiên cường đứng lên chống lại ách áp bức bất công của chế
độ phong kiến trong nước cũng như ách thống trị tàn bạo của đế quốc xâm lược.
Tiếp thu tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc, những thanh niên yêu nước
ở Quảng Ngãi đã lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Mùa xuân năm
1930, tại làng Tân Hội, Đức Phổ, chi bộ Cộng sản đầu tiên của Đảng bộ Quảng
Ngãi được tuyên bố thành lập, các tổ chức cơ sở đảng lần lượt ra đời. Ngay từ khi
mới ra đời, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân làm nên phong trào 1930-1931, được
Trung ương đánh giá là mạnh nhất phía Nam Trung kỳ. Các phong trào đấu tranh
chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố đàn áp (1930-1935), đến các phong trào
đòi dân sinh dân chủ (1936-1939), giành được một số quyền lợi nhất định, góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của Đảng, của dân tộc. Trong cao trào
cách mạng 1939-1945, nhân dân Quảng Ngãi dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đã
làm nên cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (11/3/1945), thành lập đội du kích Ba Tơ - lực
lượng vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh, một trong những đơn vị đầu tiên của
quân đội ta ở miền Nam Trung bộ. Trong cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Tháng Tám năm 1945, Quảng Ngãi trở thành một trong những địa phương giành
chính quyền sớm nhất trong cả nước. Tuy nhiên, do dã tâm xâm lược của chủ
nghĩa đế quốc, nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân Quảng Ngãi nói riêng hưởng


khơng khí tự do, hịa bình khơng được bao lâu, lại phải tiếp tục đứng dậy cầm súng
chiến đấu để bảo vệ và giữ vững nền độc lập.
Trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Quảng
Ngãi luôn là trọng điểm đánh phá ác liệt của kẻ thù. Với khí thế của người làm chủ,

Đảng bộ đã động viên toàn dân ra sức xây dựng và bảo vệ vùng tự do hoàn chỉnh, đẩy
lùi các cuộc càn quét lấn chiếm của địch. Đồng thời, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
hậu phương chiến lược cho cuộc kháng chiến, chi viện đắc lực sức người, sức của cho
các tỉnh Liên khu V, Tây Nguyên, Nam bộ và góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối
với các nước Lào và Căm- pu- chia.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Ngãi ln là chiến
trường nóng bỏng của cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ. Với tinh thần
“Không có gì q hơn độc lập tự do”, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đã kiên cường
bám trụ, phát động và tập hợp quần chúng trên cả 3 vùng chiến lược, vận dụng
ngày càng thành công phương châm đấu tranh “2 chân 3 mũi giáp công”; do vậy,
đã vượt qua những năm tháng thử thách, gian khổ, hy sinh để đấu tranh giữ vững
phong trào cách mạng, từ đó xây dựng, mở rộng căn cứ cách mạng, làm nên cuộc
khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (8/1959), lật đổ chính quyền tay sai
phản động của đế quốc Mỹ, thành lập và củng cố chính quyền cách mạng ở một
vùng miền núi rộng lớn.
Từ Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước đã lan rộng khắp các vùng đồng bằng và đô thị. Quảng Ngãi đã góp phần
cùng tồn miền Nam đánh bại quốc sách “ấp chiến lược”, bẻ gãy xương sống của
chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, làm nên chiến thắng Ba Gia lịch sử cuối tháng
5/1965.
Năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, mở đầu chiến lược
“chiến tranh cục bộ”. Trước tình hình đó, Đảng bộ bình tĩnh, sáng suốt lãnh đạo
nhân dân nhanh chóng hình thành thế bao vây tiêu diệt địch, xây dựng “vành đai


diệt Mỹ” và đã làm nên chiến thắng Vạn Tường (8/1965). Trận Vạn Tường đã đi
vào lịch sử như một minh chứng cụ thể chứng tỏ nhân dân miền Nam có khả năng
đánh bại hồn tồn giặc Mỹ xâm lược, dù chúng có ưu thế về số lượng hỏa lực và
cơ động. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, quân dân
Quảng Ngãi cùng toàn miền Nam đồng loạt tiến công vào các đô thị, thị trấn, chi

khu, quận lỵ, gây cho Mỹ- ngụy nhiều tổn thất nặng nề, góp phần cùng cả nước
đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào đàm phán ở
Paris.
Trước những mưu đồ xảo quyệt, thâm độc của Mỹ- ngụy khi chúng thực hiện
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Đảng bộ và nhân dân Quảng Ngãi đã kiên
trì bám trụ, chịu đựng gian khổ, hy sinh, vừa chiến đấu, vừa củng cố và phát triển
lực lượng cách mạng, từng bước giành lại thế chủ động trên chiến trường, mở cuộc
tiến công chiến lược năm 1972 góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris (27/01/1973), cơng nhận độc lập, chủ
quyền và tồn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta.
Gần 2 năm sau ngày Hiệp định Paris ký kết, Đảng bộ và nhân dân Quảng Ngãi
khẩn trương chuẩn bị thực hiện mọi mặt, tạo và tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quan
trọng vào các thời điểm quyết định để cùng cả nước làm nên một chiến công vĩ đại
của thế kỷ XX. Ngày 24/3/1975, không những kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh
gian khổ và hào hùng 30 năm (1945-1975) của Đảng bộ và nhân dân Quảng Ngãi
dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà cịn cắm mốc son chói lọi
nhất trong lịch sử gần 600 năm (1402-1975) xây dựng và bảo vệ vùng đất tươi đẹp và
quật khởi này.
Có bề dày lịch sử với nền văn hóa Sa Huỳnh, tỉnh Quảng Ngãi được xem là
trung tâm của một vùng văn hóa nhiều tầng, nhiều lớp đan xen, với những nét tiêu
biểu cho bản sắc của một vùng dân cư rộng lớn. Cảnh quan Quảng Ngãi là một


tặng vật của thiên nhiên. Những vùng nước non kỳ thú, các bãi biển quanh năm
sóng vỗ: Sa Huỳnh (Đức Phổ), Mỹ Khê (Sơn Tịnh)... đã và đang vẫy gọi khách du
lịch gần xa. Một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Quảng Ngãi
là truyền thống thượng võ. Luyện võ trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, cha
truyền con nối. Cùng với sự định hình cư dân nông nghiệp với nghề trồng lúa
nước, nghề biển là q trình hội tụ, phát triển của văn hóa dân gian đa dạng và
phong phú: ca dao, tục ngữ, truyện cười, ca lý, hát kết, hò vè... nồng đượm tình

người, ấm áp cảnh sắc và phong vị xứ mía đường; những hội dân gian như đua
ngựa, bơi thuyền, múa lân, đâm trâu...bừng bừng khí thế thượng võ.
Nổi bật trong truyền thống văn hóa của người Quảng Ngãi là lịng say mê học
tập và sáng tạo, rèn luyện đức tài và nâng cao tinh thần, thể lực theo mục tiêu yêu
nước, hiếu học, kính thầy, mến bạn. Truyền thống hiếu học là một đặc tính chung
của người Việt Nam nhưng biểu hiện rõ nhất thường ở vùng đất nghèo. Đầu thế kỷ
XIX, ở tỉnh Quảng Ngãi có Trương Đăng Quế “khai khoa” (1819) và từ đó mới
xuất hiện nhiều văn vật: 139 nhà khoa Bảng Nho học từ 1819 đến 1918, trong đó
có 5 tiến sĩ, 6 phó bảng.
Tiêu biểu cho tầng lớp nho sĩ lúc bấy giờ, Trương Đăng Quế (1793-1865) là
nhà thơ, học giả, nhà chính trị nổi tiếng dưới triều Nguyễn. Người làng Mỹ Khê
(nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi).
Sang thế kỷ XX, cả nước đều biết cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu
tú của Quảng Ngãi là nhà chính trị, nhà văn hóa (1906-2000) quê làng Thi Phổ Nhất
(nay thuộc xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi). Ông đã có những đóng
góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, 97% dân số Quảng Ngãi bị mù chữ,
tỷ lệ học sinh tiểu học rất thấp so với dân số của tỉnh và nhiều tỉnh khác. Số người
có bằng tú tài và đại học rất ít. Đó là hậu quả của chính sách ngu dân của thực dân
Pháp.


Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, phong trào chống “giặc dốt” đã được phát động và thực hiện
rộng rãi ở Quảng Ngãi, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược
một cách đồng bộ và sáng tạo. Không tận mắt chứng kiến những ngày lịch sử ấy,
khó ai có thể hình dung ra được cái khí thế quyết tâm diệt giặc dốt của tồn dân từ
Bắc đến Nam nói chung và của nhân dân Quảng Ngãi nói riêng. Bộ máy Bình dân
học vụ (BDHV) caực cấp nhanh chóng được thành lập, mặc dù vẫn cịn rất gọn nhẹ
về mặt tổ chức, thiếu thốn về cơ sở vật chất và con người, thời gian dạy và học hầu

hết vào ban đêm.
Tấm gương điển hình của phong trào BDHV thời kỳ này là Nguyễn Thị Chánh bị
cụt cả hai tay, chị vẫn buộc bút vào khuỷu tay để tập viết. Nhờ tinh thần ham học và ý
chí kiên cường. Chị đã trở thành giáo viên BDHV, đồng thời là một cán bộ phụ nữ
gương mẫu của tỉnh và được bầu là chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Thực hieọn chủ trương “Một hội đồng hai nhiệm vụ”. Hội đồng giáo viên các
trường cấp I, II, dưới sự chỉ đạo của Hiệu trưởng tổ chức, vạch kế hoạch và trực
tiếp tham gia giảng dạy cho các lớp bình dân học vụ và BTVH. Từ đó, phong trào
xóa mù chữ ngày càng đi vào nề nếp, chất lượng ngày càng cao. Nhờ vậy, sau một
thời gian ngắn, hàng vạn người đã biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ, nhiều xã đã
được kiểm tra và được cơng nhận xóa mù chữ.
Bên cạnh phong trào xóa mù chữ diệt giặc dốt, tháng 9 năm 1945 trường
trung học Lê Khiết được thành lập đã đặt nền móng cho sự nghiệp GD-ĐT của tỉnh
Quảng Ngãi sau này. Mùa thu năm 1947, trường Trung học Bình dân miền Nam
Trung bộ ra đời dưới sự chỉ đạo của đồng chí Phạm Văn Đồng. Mục tiêu đào tạo
của trường là nâng cao trình độ văn hóa cho lớp cán bộ trẻ, cốt cán từ tỉnh đến
huyện của các tỉnh Nam Trung bộ và một số cán bộ của các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên.


Trong giai đoạn này, trường trung học Lê Khiết và trường trung học Bình dân
miền Nam Trung bộ là nơi đào tạo nhân tài, trí lực cho Quảng Ngãi và cho đất nước.
Trường Lê Khiết đã đào tạo được 3.429 học sinh. Trong số đó khơng ít người đã trở
thành nhà khoa học, nhà giáo, nhà chính trị, những tướng lĩnh- anh hùng quân đội,
những nghệ sĩ ưu tú... của Việt Nam như: Chủ tịch nước Trần Đức Lương, nhà tốn học
Hồng Tuy, nhà phê bình văn học Lê Đình Ky, Lê Trí Viễn, nhà văn Nguyên Ngọc,
nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, Trương Quang Lục...
Về thành tựu của quá trình đào tạo phổ thơng chính quy lúc bây giờ, từ mẫu
giáo đến trung học (trong thời gian thực dân Pháp xâm lược, hầu như chưa có khái
niệm về giáo dục mẫu giáo). Mãi đến năm 1950, sau lớp đào tạo giáo viên mẫu

giáo của toàn Liên khu V (ở Phổ Văn, Quảng Ngãi). Từ đó, giáo dục mẫu giáo
nhanh chóng được triển khai đến các huyện, xã. Đến năm 1954, đã có 3.500 cháu
đến trường. Kết quả chưa nhiều, nhưng đây là bước đầu đặt nền móng cho một
mảng giáo dục mới đối với sự nghiệp GD-ĐT tại Quảng Ngãi, chứng tỏ sự ưu việt
của chính quyền cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Về giáo dục tiểu học, tháng 10 năm 1945, năm học đầu tiên của bậc tiểu học
được bắt đầu. Trường lớp chưa đủ, giáo viên thiếu, cơng tác chuẩn bị cịn sơ sài
nhưng sĩ số học sinh đến lớp gấp 5 lần so với thời Pháp thuộc. Thành phần học
sinh chủ yếu là con em bần cố nông. Trước kia, việc đến trường là ước mơ không
bao giờ thực hiện được đối với những trẻ em này. Tính đến năm 1954, tồn tỉnh có
hàng trăm trường tiểu học, ngay cả huyện miền núi, huyện nào cũng có một trường
tiểu học hồn chỉnh. Tổng số học sinh tiểu học là 75.000 em, với 2.000 lớp học và
1.800 giáo viên.
Về giáo dục trung học, đây cũng là một sự đột phá của chính quyền cách
mạng. Ngoài trường trung học Lê Khiết, các trường cấp I và cấp II, từ phơi thai
dần dần được hồn chỉnh. Hình thức tổ chức theo nhu cầu và điều kiện từng địa
phương, có nơi là những trường hồn chỉnh, có nơi tổ chức các lớp 5, lớp 6 do


Hiệu trưởng trường tiểu học nơi đó tạm quản lý... Nhờ việc tổ chức linh hoạt và
tích cực, hàng nghìn con em nông dân đã được học hết bậc sơ trung. Điều mà trước
kia chỉ các gia đình giàu có, đủ khả năng cho con đi Quy Nhơn, hoặc đi Huế, mới
có thể học được.
Kịp thời phát huy những thành quả đạt được của nền giáo dục cách mạng trong
những ngày đầu còn non trẻ và hòa nhập với phong trào thi đua yêu nước của toàn
dân trong 9 năm gian khổ kháng chiến chống thực dân Pháp, ngành GD-ĐT Quảng
Ngãi đã tiếp tục duy trì và mở rộng các trường lớp, sĩ số học sinh; tiếp tục chương
trình cải cách giáo dục; cải tiến công tác quản lý ngành như mở lớp tu nghiệp cho giáo
viên, hình thành hội đồng để thông qua các bài giảng của thầy, cô giáo, mở rộng Hội
nghị hiệu trưởng các trường cấp I, cấp II, bàn về công tác quản lý; gắn học tập trong

nhà trường với công tác kháng chiến; củng cố tổ chức đảng ở các trường và chỉnh
huấn cho đội ngũ giáo viên.
Như vậy, cùng với việc tích cực chiến đấu diệt “giặc dốt” bằng chương trình
BDHV, việc thành lập và hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống giáo dục các cấp từ mẫu
giáo đến trung học, từ BDHV đến hệ chính quy đã chứng tỏ được sự hình thành và
phát triển vượt bậc của ngành giáo dục tỉnh Quảng Ngãi trong thời kỳ 9 năm kháng
chiến chống thực dân Pháp. Chưa nói đến những thành tựu khác do giáo dục đưa
lại, tính riêng vấn đề nâng cao dân trí, từ 97% dân số mù chữ trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đến năm 1952 đã có 95% số người trong độ tuổi từ 20 đến
45 biết đọc sách báo. Đây là thành quả to lớn của đường lối giáo dục đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra kết hợp với sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân tồn
tỉnh, khắc phục và vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, quyết tâm xóa giặc dốt, làm
chủ tri thức để làm chủ cuộc sống, làm chủ đất nước. Ý thức học tập gắn liền với
tinh thần yêu quê hương, đất nước.
Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), Quảng Ngãi trở thành khu vực 300 ngày để
đưa lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị Liên khu V ra miền Bắc tập kết. Ngoài


ra cịn đưa con em cán bộ, nhân dân có nguyện vọng ra miền Bắc XHCN học tập,
rèn luyện. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự đùm bọc ân cần của nhân
dân miền Bắc, đội ngũ trí thức và cán bộ là con em Quảng Ngãi đã trưởng thành và
có nhiều cống hiến trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vừa qua cũng như trong sự
nghiệp xây dựng CNXH hiện nay. Đến năm 2001, riêng cán bộ khoa học kỹ thuật có
học hàm, học vị cao: 13 giáo sư, 4 phó giáo sư, 82 tiến sĩ, và gần 200 thạc sĩ, hàng
chục chuyên viên cao cấp đang công tác ở các ngành Trung ương, ở các tỉnh khác và
tại quê hương.
Từ năm 1955 trở đi, ngành giáo dục tỉnh Quảng Ngãi do chính quyền Sài Gịn
quản lý. Do chiến tranh ác liệt và bản chất chế độ cũ đối với vieọc giáo dục con
người, chưa kể đến nội dung phản động, phản khoa học của nền giáo dục cũ, ngành
giáo dục Quảng Ngãi lúc đó chỉ thu gọn trong ngành học phổ thơng và một số ít

lớp mẫu giáo, bao gồm cả trường tư và trường công. Các trường học chủ yếu tập
trung xây dựng ở thị xã Quảng Ngãi và một số ít tại các thị trấn, thị tứ dọc trục
đường số 1. Song chỉ có một số trường cơng là có phịng học, bàn ghế khá, cịn
phần lớn trường bán cơng, tư thục do các giáo phái xây dựng, cơ sở vật chất nghèo
nàn, tạm bợ. Vì vậy, số lượng trường, giáo viên và học sinh dưới chế độ cũ quá ít
ỏi.
Trong bối cảnh lịch sử mới, các vùng giải phóng hết sức khó khăn, ác liệt,
thiếu thốn mọi bề. Thầy và trò đã thực hiện 4 bám: Bám đất, bám dân, bám trường
lớp và bám học sinh. Đồng thời thực hiện 4 cùng: Cùng ăn, cùng ở, cùng lao động,
cùng chiến đấu. Các thầy cơ đã giành giật từng học trị, từng người dân, góp phần
giữ vững vùng giải phóng. Do đó, các xã vùng giải phóng đều có trường tiểu học
và các huyện (Đức Phổ, Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Nghĩa Hành) có
trường cấp II. Quy mơ mỗi trường có từ 3 đến 8 lớp, số lượng học sinh từ 130 đến
400 em. Tồn tỉnh có 431 lớp học với 11.654 học sinh [56, tr.417]. Các em đã
trưởng thành và tiếp bước cùng lớp lớp cha anh đi trước. Trong số đó, nhiều đồng
chí đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng q hương, đất nước, điển hình như 11


thầy cô giáo trường Đức Phổ, thầy Huỳnh Tấn Khanh trường Bình Sơn... Những
tấm gương hy sinh của họ mãi mãi được lớp người sau ghi nhớ.
Vào những năm 60, ở Quảng Ngãi có khoảng 400 giáo viên từ miền Bắc vào,
đem theo luồng sinh khí mới cho nền giáo dục tỉnh nhà. Để có một lực lượng “vừa
hồng vừa chuyên” phục vụ cho sự nghiệp giáo dục cách mạng lâu dài, Tỉnh ủy chủ
trương mở trường sư phạm Quảng Ngãi, đào tạo giáo viên cấp I; trường sư phạm
cấp II Nam Trung bộ; các trường BTVH cũng được thành lập ngày càng nhiều để
đáp ứng việc xây dựng lực lượng cách mạng cho toàn tỉnh và miền Trung.
Sau giải phóng (1975), cơ sở vật chất cịn lại rất nghèo nàn, chỉ có 10% số
trường học được xây dựng tập trung ở thị xã, thị trấn, cịn ở vùng nơng thơn vùng
giải phóng cũ, vùng miền núi thì trường lớp chủ yếu bằng tranh tre, nứa lá. Được sự
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và ngành giáo dục, Đảng bộ đã kịp thời chỉ đạo, tình

hình GD-ĐT đã từng bước ổn định. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên đã
được rèn luyện và trưởng thành trong kháng chiến. So với các tỉnh phía Nam, Quảng
Ngãi có một lực lượng giáo viên hùng hậu, vững vàng và có nhiều kinh nghiệm.
Nhờ biết vận dụng các chính sách của Nhà nước về GD-ĐT và những ưu thế nổi bật
của tỉnh nhà, chỉ vài năm sau, ngành giáo dục Quảng Ngãi đã đạt được những thành
tựu đáng tự hào: Hoàn thành sớm nhất việc xóa mù chữ ở miền Nam (4/1977) và
được Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng nhất và nhiều phần thưởng cao
quý khác.
Do yêu cầu và nhiệm vụ mới, hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất
thành tỉnh Nghĩa Bình. Tuy khó khăn bộn bề, nhiều công việc phải giải quyết
nhưng Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình vẫn thường xuyên quan tâm đến sự nghiệp GDĐT. Nghị quyết Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ Nghĩa Bình (3/1977) ghi rõ:
“Ngành giáo dục phải phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội...
Tích cực đào tạo, xây dựng đội ngũ giáo viên nhất là về mặt chính trị, tư tưởng để đáp


ứng nhu cầu phát triển, cải cách giáo dục trước mắt và những năm sau”; đối với trí
thức XHCN: “Cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, có chính sách sử dụng hợp lý và tạo
điều kiện cho anh, chị em công tác, học tập, nghiên cứu khoa học để phát huy hết tài
năng, cống hiến cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa”; với trí thức dưới chế độ cũ: “Cần
giúp đỡ để anh chị em tự cải tạo, nhanh chóng trở thành người trí thức mới xã hội chủ
nghĩa và trên cơ sở đó mà sử dụng thích đáng tài năng mọi người”. Coi việc đầu tư
cho công tác đào tạo cán bộ như những “đầu tư xây dựng cơ bản khác” [16, tr.14].
Vì vậy, sau hơn 10 năm (1975-1986), được sự quan tâm của Đảng bộ và nhân
dân, kiên trì thực hiện phương châm “Từ khơng đến có, từ nhỏ đến lớn, thành công
tiếp tục, thất bại không nản lịng, có lệch lạc thì uốn nắn, có kinh nghiệm phát huy kịp
thời”, sự nghiệp GD-ĐT Nghĩa Bình đã từng bước vượt qua khó khăn, đi dần vào thế
ổn định với những kết quả ban đầu đáng khích lệ.
Đến năm 1977, đã cơ bản xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh phong trào BTVH,
với thành tích xuất sắc đó, tỉnh Nghĩa Bình đã được tặng nhiều phần thưởng cao
quý: 1 Huân chương lao động hạng nhất; 2 Huân chương lao động hạng nhì; 2

Huân chương lao động hạng ba; 14 Bằng khen của Thủ tướng chính phủ; 7 Bằng
khen của Bộ Giáo dục và 1 lá cờ của Trung ương Đồn thanh niên tặng cho thanh
niên tỉnh Nghĩa Bình.
Năm học 1985-1986 tồn tỉnh có hơn 63 vạn người đi học các trường do tỉnh
quản lý, trong đó 8,3 vạn cháu mẫu giáo, 52 vạn học sinh phổ thông, đặc biệt đã tổ
chức xây dựng được các trường phổ thông nội trú ở các huyện miền núi; thực hiện
cải cách giáo dục cấp I, tạo bước chuyển tiến bộ về chất lượng dạy và học; các
mơn chính trị, đạo đức hướng nghiệp, thể dục thể thao đã triển khai và được coi
trọng hơn. Nếu năm 1976, cứ 5 người dân thì có 1 người đi học phổ thơng, thì đến
năm 1986, tỷ lệ này là 3,3 [18, tr.74].
Từ một hệ thống trường lớp chuyên nghiệp, dạy nghề nhỏ bé của chế độ cũ để
lại, trên cơ sở tiếp nhận trường Sư phạm, Giao thông vận tải, Thương nghiệp, Y tế
từ chiến khu chuyển về, qua quá trình tổ chức sắp xếp hệ thống mạng lưới đào tào


để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đến năm 1986,
tỉnh Nghĩa Bình có một hệ thống trường lớp tương đối hồn chỉnh gồm có: 1 Trung
tâm đào tạo, bồi dưỡng tại chức; 1 trửụứng ẹái hóc sử phám; 1 trường cao đẳng
sư phạm; 5 trường trung học chuyên nghiệp; 12 Trung tâm dạy nghề huyện, thị xã;
3 trường sơ học sư phạm; 1 trường Bồi dưỡng tại chức cán bộ quản lý giáo dục; 1
Trạm bồi dưỡng cán bộ hành chính; 1 Trạm đại học tại chức nông nghiệp và
nhiều lớp dạy nghề bên cạnh xí nghiệp. Với nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng
linh hoạt từ trung tâm chính quy, chuyên tu, tại chức cho đến tập huấn dài ngày,
các trường lớp đã bảo đảm đủ ngành nghề quan trọng, cần thiết với quy mô từ
4.000 đến 5.000 người/ năm.
Thành cơng lớn của ngành giáo dục tỉnh Nghĩa Bình trong xây dựng CSVC
trường học là tránh được tư tưởng ỷ lại cấp trên. Đồng thời vận dụng sáng tạo
phương châm “Nhân dân và Nhà nước cùng chăm lo sự nghiệp giáo dục, nhân dân
làm, Nhà nước hỗ trợ” và thực hiện tốt phân cấp quản lý: Sở lo xây dựng cơ bản
các trường sư phạm, BTVH tập trung tỉnh; huyện lo xây dựng trường PTCS, lớp

mẫu giáo... nên CSVC, trang thiết bị dạy và học, trường lớp tăng lên rõ rệt từng
bước thật sự “ trường ra trường, lớp ra lớp”. Theo báo cáo của Sở Giáo dục Nghĩa
Bình, trong 10 năm (1975-1985), nguồn kinh phí huy động xây dựng trường học là
340,760 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp là: 209 triệu đồng [18, tr.4].
Có được những kết quả trên bất nguồn sâu xa từ truyền thống hiếu học, “Tơn
sư trọng đạo” của tồn thể nhân dân hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định nói riêng
và tỉnh Nghĩa Bình nói chung. Chính đó là động lực lớn để đội ngũ những người
làm công tác GD-ĐT nỗ lực vượt qua những khó khăn của đời sống xã hội, của bản
thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và phục vụ. Tất nhiên, như tình hình
giáo dục trong cả nước, trong quá trình vận động và phát triển nhằm xây dựng nền
giáo dục mới, ngành GD-ĐT Nghĩa Bình khơng tránh khỏi những khó khăn, hạn
chế cần phải khắc phục, đặc biệt trước yêu cầu của công cuộc đổi mới.


Nếu trong cuộc kháng chiến ác liệt, người Quảng Ngãi trung dũng, kiên
cường với khẩu hiệu “Một tấc không đi, một ly không dời” để bảo vệ nền độc lập,
tự do cho Tổ quốc thân yêu thì 30 năm qua, kể từ ngày đất nước hoàn toàn thống nhất,
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình trước đây, Đảng bộ tỉnh
Quảng Ngãi hiện nay, bằng trí tuệ, cơng sức của mình, vừa từng bước khắc phục hậu
quả nặng nề, dai dẳng của chiến tranh để lại, vừa phải đương đầu với các thế lực thù
địch, phản động trong và ngoài nước hoạt động chống phá điên cuồng, sự tàn phá
khủng khiếp, liên tiếp của thiên tai. Vật lộn với những khó khăn về vật chất, đời sống
tinh thần, cộng với những hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sự nghiệp
GD-ĐT của tỉnh Quảng Ngãi có lúc chưa được quan tâm đúng mức, có lúc nhận thức
cịn sai lệch về vị trí và vai trò của giáo dục, dẫn đến những yếu kém nhất thời: Đời
sống khó khăn dẫn đến tình trạng thầy khơng an tâm giảng dạy, trị khơng n tâm
học hành, rèn luyện... Chất lượng giáo dục giảm sút.
Tự hào về những truyền thống tốt đẹp của quê hương, những thành tựu đã đạt
được, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân Quảng Ngãi bước vào giai
đoạn mới, xây dựng một tỉnh Quảng Ngãi giàu đẹp.




×