Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NÔNG NGHIỆP ĐÔ THỊ SINH THÁIVÀ HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG THÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.49 KB, 20 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NÔNG NGHIỆP ĐÔ THỊ SINH THÁI
VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG THÔN

1. NÔNG NGHIỆP ĐÔ THỊ SINH THÁI

1.1. Khái niệm nông nghiệp sinh thái
- Sản xuất nông nghiệp vốn đã mang trong nó bản chất sinh thái, sản xuất nông nghiệp muốn
phát triển có hiệu quả và ổn định đương nhiên phải phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết,
thuỷ văn, môi trường và quần thể sinh vật tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp. Chính sự phù hợp đó làm
cho cây trồng vật nuôi phát huy mọi ưu thế và tác động lẫn nhau để tồn tại và phát triển, đó là một nền
nông nghiệp sinh thái. Nhiều học giả cũng cho rằng nông nghiệp sinh thái cũng chính là nông nghiệp bền
vững, một nền nông nghiệp sinh thái, hay bền vững đều mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Nhưng ngược lại, một nền sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao, chưa chắc đã là một nền
nông nghiệp sinh thái và bền vững nếu như nó không có tác động đến bảo vệ môi trường sinh thái.
“Nông nghiệp đô thị: nông nghiệp đô thị là một ngành công nghiệp mà sản xuất, chế biến và
buôn bán thực phẩm và chất đốt thực hiện trên các vùng đất và mặt nước xen kẽ, rải rác trong các đô thị
và vùng ngoại ô” (UNDP). Nông nghiệp đô thị nói một cách đơn giản bao gồm toàn bộ hoạt động sản
xuất nông nghiệp từ sản xuất nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nằm xen kẽ trong
đô thị và các vùng ven đô. Khái niệm này có thể gói gọn trong phạm vi lãnh thổ và phi lãnh thổ của một
đô thị.
Sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) diễn ra
trong các quận gọi là nông nghiệp nội đô, diễn ra ở ngoại thành thì gọi là nông nghiệp ngoại đô. Điều này
dẫn đến đặc điểm sự khác biệt giữa nông nghiệp nội đô, nông nghiệp giáp ranh, nông nghiệp ngoại đô
hay ngoại thành.
Nông nghiệp đô thị sẽ được phân chia theo các vành đai khác nhau do tính chất và đặc thù của
nó. Có thể phân chia theo các khu vực dưới đây:
- Nông nghiệp nội đô
- Nông nghiệp vùng vành đai nhạy cảm


- Nông nghiệp ngoại đô (ngoại thành)


Do đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội và môi trường của mỗi vùng khác nhau, cho nên sản xuất
nông nghiệp ở mỗi vùng cũng khác nhau, chính điều đó hình thành tính đa dạng của nông nghiệp đô thị.
Kế thừa các công trình nghiên cứu của các học giả có thể nêu khái niệm nông nghiệp đô thị sinh thái.
Khái niệm nông nghiệp đô thị sinh thái: nông nghiệp đô thị sinh thái là một quá trình sản xuất
được bố trí phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng đô thị nhằm khai thác triệt để các tiềm năng với
công nghệ sản xuất sạch tạo ra sản phẩm chất lượng cao, an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng
môi trường, cảnh quan tạo ra hệ sinh thái bền vững.
Khái niệm này chỉ ra các nội dung chủ yếu:
- Sản xuất nông nghiệp được bố trí và sản xuất phù hợp với điều kiện của mỗi vùng, tạo ra sự tác
động hữu cơ, đảm bảo cân bằng sinh thái, đạt hiệu quả sản xuất cao.
- Quá trình sản xuất nông nghiệp trên diễn ra ở vùng xen kẽ, hay tập trung các vùng đô thị bao
gồm nội đô, giáp ranh và ngoại ô.
- Sản xuất nông nghiệp trên tạo ra mối quan hệ hữu cơ trong ngành và đảm bảo sự cân bằng sinh
thái, tính hiệu quả và bền vững. Đồng thời tác động tích cực đến cải tạo môi trường sinh thái của vùng
đô thị.
- Sản xuất nông nghiệp tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn tthực phẩm, giữ gìn sức
khoẻ và nhu cầu cho người tiêu dùng.

1.1.2. Những đặc điểm của nông nghiệp đô thị sinh thái
Phát triển nông nghiệp ven đô với mục đích đầu tiên đó là phát triển nông
thôn ven đô chứ không phải là để thoả mãn nhu cầu của đô thị. Bởi thế, cần phải
hiểu đặc trưng của nông thôn ven đô, trước khi hiểu nông nghiệp đô thị sinh thái.
Nông thôn ven đô thường có các đặc điểm sau:
1.1.2.1- Có sự gia tăng mạnh về dân số, đặc biệt là sự gia tăng cơ học. Dân số ven đô luôn được
bổ xung bởi sự di cư từ nội thành ra và từ các nơi khác đến. Kết quả là tồn tại một xã hội nông thôn ven
đô đa dạng cả về dân số và nghề nghiệp… Rất nhiều người sống ở nông thôn ven đô bị tách biệt giữa
nơi ở và nơi làm việc, các hoạt động phi nông nghiệp cạnh tranh về lao động khá lớn với nông nghiệp và


nó thu hút đặc biệt là lực lượng lao động trẻ. Cơ sở hạ tầng nông thôn khá tốt, nhưng đôi khi không gian

nông thôn bị chia cắt, gây khó khăn cho sinh hoạt và lao động của người dân.
1.1.2.2- Tình trạng sản xuất nông nghiệp không ổn định do ngày càng có sự mở rộng các vành đai
đô thị ra bên ngoài. Tốc độ đô thị hoá, khả năng quy hoạch đô thị, chính sách và khả năng kiểm soát sự
phát triển đô thị ảnh hưởng mạnh đến tính ổn định của nông nghiệp ven đô. Đất đai nông nghiệp có xu
thế giảm mạnh. Nông nghiệp ảnh hưởng nhiều của sự ô nhiễm đô thị. Các thành phố càng phát triển
càng tồn tại nhiều các hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ, do đất đai ngày một đắt và bị mất đất vì đô thị
hoá.
1.1.2.3- Nông nghiệp ven đô có nhiều lợi thế về thị trường. Tận dụng lợi thế gần thành phố, nông
nghiệp ven đô thường phát triển sản xuất các sản phẩm tươi sống, rau, sữa, quả… tạo ra nền nông
nghiệp khác biệt với đặc điểm thông thường của nó. Đó là nông nghiệp không (hoặc ít) mang tính mùa
vụ. Tuy nhiên, sản phẩm đặc sản của một số vùng nhỏ ven đô vẫn có thể tồn tại và phát triển nhờ thị
trường tiêu thụ luôn mở rộng. Các sản phẩm đặc biệt khác như hoa, cây cảnh cũng có cơ hội phát triển.
1.1.2.4- Nông nghiệp sinh thái làm cho năng suất thấp hơn: Ngô 10%, đậu 5%…, so với nông nghiệp thường. Trong điều kiện thuận lợi
nông nghiệp sinh thái cho năng suất thấp hơn nông nghiệp thường; Nhưng trong điều kiện không thuận lợi nông nghiệp sinh thái cho năng suất
cao hơn. Khoảng sau 3-4 năm luân canh, nông nghiệp sinh thái có năng suất tăng lên rõ rệt.

1.1.2.5- Nông nghiệp sinh thái dùng ít năng lượng hơn nông nghiệp nhưng
vì năng suất của nông nghiệp sinh thái thấp hơn nên thu nhập thuần giữa hai
phương thức gần như nhau.
1.1.2.6- Nhu cầu lao động trong nông nghiệp sinh thái có phần cao hơn so với nông nghiệp
thường. Nông nghiệp sinh thái đi đôi với việc giữ gìn đa dạng sinh học.ở các cửa hàng ta thấy có các loài
và giống cây trồng hiện nay đã biến mất trên thị trường như các loại ngũ cốc: Kê, ý dĩ; các loại củ như:
Từ, môn, củ mài và các loại rau, quả tự nhiên, các loại thịt lợn rừng, gà rừng v.v…
Bởi vậy do yêu cầu của thị trường về chất lượng sản phẩm nông nghiệp sinh học, nông nghiệp
sinh thái và nông nghiệp công nghệ cao có nhiều cơ hội phát triển.

1.1.3 Nông nghiệp sinh học, hữu cơ, sinh thái
1.1.3.1 Khái niệm: ở các nước nói tiếng pháp thường gọi là nông nghiệp sinh học, ở các nước nói
tiếng Anh thường được gọi là nông nghiệp hữu cơ và ở các nước Bắc Âu thường được gọi là nông nghiệp
sinh thái.



Nông nghiệp sinh học là một nền nông nghiệp dựa trên các nguyên tắc sau: Tôn trọng tuyệt đối
các quan hệ và cân bằng tự nhiên giữa đất (môi trường), thực vật (cây trồng) và động vật (chăn nuôi).
Cấm sử dụng các hóa chất tổng hợp. Tôn trọng sinh trưởng và phát triển tự nhiên của động vật. Nông
nghiệp sinh học là hình thức nông nghiệp sinh thái có quy định nhất, có các tiêu chuẩn xác định một cách
pháp lý về sản xuất, chế biến, nhãn hiệu. Trong hệ thống nông nghiệp sinh học, các yếu tố sản xuất sinh
vật lý quan hệ với các yếu tố kinh tế xã hội và thể chế. Nông nghiệp sinh học là một chuỗi từ nông trại
đến bàn ăn. Các thông số sản xuất và sau sản xuất bao gồm: Đất và nước trong hệ thống cây trồng và vật
nuôi bao gồm sử dụng đất, làm đất, đồng cỏ, nông lâm kết hợp, sử dụng nước.
Quản lý độ màu mỡ của đất bao gồm sinh lý, sinh thái, quay vòng dinh dưỡng, luân canh, trồng
xen, tạo ra và sử dụng lại chất hữu cơ. Sản xuất trồng trọt bao gồm chọn giống, nhân giống, phòng trừ
sâu bệnh và cỏ dại. Chăn nuôi bao gồm chiến lược nuôi dưỡng, thú y, bảo quản. Nguồn lợi nông trại bao
gồm nguồn năng lượng tái tạo được, lao động và cơ khí. Hệ thống sau thu hoạch bao gồm cất giữ, chế
biến, vận chuyển để giảm mất mát và giữ chất lượng.
Các cơ sở kinh tế xã hội và thể chế bao gồm: Các khung điều tiết và chính sách hỗ trợ và công cụ
trả cho người sản xuất, các cơ sở tiếp thị, phát triển vùng, cung cấp thông tin và khung pháp lý. Tiêu
chuẩn và định mức chỉ đạo việc kiểm tra, cấp chứng chỉ, nhãn hiệu và bảo đảm tín nhiệm. Chương trình
nghiên cứu, bảo đảm liên hệ với các cơ quan nghiên cứu, thúc đẩy việc tham gia của người sản xuất vào
nghiên cứu tại chỗ. Phát triển cộng đồng tổ chức nông dân với các cơ chế tự điều tiết và mạng lưới quốc
gia. Cơ cấu thị trường bao gồm đầu ra, cơ hội, lợi thế so sánh, giá cả, nhu cầu, tổ chức, hợp tác xã và
hiệp hội, các tổ chức sản xuất - tiêu dùng, mạng lưới buôn bán. Hướng dẫn thị hiếu tiêu dùng liên quan
đến quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm.

Khả năng chi tiêu của người tiêu dùng để hỗ trợ sản xuất sinh học. Việc
chuyển đổi sang nông nghiệp sinh học đòi hỏi thay đổi thành phần của đầu vào. Để
thay thế chi phí về phân hóa học và thuốc trừ sâu bệnh cần các chi phí về các đầu
vào khác như chất hữu cơ, làm đất, máy móc … Việc thay đổi luân canh làm giảm
năng suất, sản lượng và thu nhập, ảnh hưởng an ninh thực phẩm và môi trường tự
nhiên.

Các thay đổi ấy ảnh hưởng đến các thay đổi về xã hội trong cộng đồng. Các
nguyên tắc mà các nông gia sinh học cần nhớ: Độ màu mỡ của đất do chất hữu cơ
và chất dinh dưỡng phân hữu cơ cung cấp. Chăn nuôi phải gắn liền với trồng trọt,


với luân canh, với thức ăn sản xuất trong nông trại. Phải chuyển đổi tất cả đất
hoang hóa thành nơi sản xuất thức ăn để chăn nuôi. Phải bảo vệ đa dạng sinh học
bằng cách chọn các loài và giống cây trồng và vật nuôi địa phương để trồng, nuôi
và tìm đầu ra cho chúng (VS.GS Đào Thế Tuấn).
1.1.3.2 Việc phổ biến nông nghiệp sinh học trong sản xuất
Hiện nay diện tích nông nghiệp sinh học trong sản xuất nông nghiệp còn rất
ít. ở các nước cộng đồng châu Âu chỉ chiếm có 2%, ở Hoa Kỳ là 0,1%, Canada là
1,34%. ở một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ai Cập, ấn Độ, … cũng có
phát triển. Năm 1991 và 1992 cộng đồng châu Âu có chính sách hỗ trợ nông
nghiệp sinh học. Từ năm 1991 nông nghiệp sinh học theo quy trình sản xuất trồng
trọt của Cộng đồng châu Âu số 209/91. Về chăn nuôi chưa có quy trình châu Âu
nhưng có 11 quy trình quốc gia. Trong 13 năm diện tích nông nghiệp sinh học ở
cộng đồng châu Âu tăng 30 lần, từ 100.000 ha năm 1985 lên 2,8 triệu ha năm
1998.Trong 10 năm gần đây tốc độ tăng là 25% năm. Nếu cứ tiếp tục theo tốc độ
15-25% năm thì đến 2005 đạt 5-10%, năm 2020 đạt 10-30%.
Năm 1998 thị trường nông nghiệp sinh học ở Mỹ đạt 4 tỷ USD, tăng 20% hàng năm, ở Cộng đồng
châu Âu đạt 5-7 tỷ Euro. Có 113.000 doanh nghiệp và 2,8 triệu ha hay 2,1% diện tích nông nghiệp. ở
Trung và Đông Âu trong các năm 90 cũng tăng nhanh, năm 2000 đã đạt 192.000 ha. Những cản trở của
việc áp dụng nông nghiệp sinh học là: Năng suất lao động thấp hơn, nông nghiệp thường 22-25%, mà ở
các nước tiên tiến thường dùng vốn thay lao động. Thiếu phân hữu cơ, các nông trại ngày càng có xu
hướng độc canh nên không phát triển chăn nuôi. Khó khăn trong việc phòng trừ cỏ dại, làm cỏ bằng tay
tốn công. Thị trường của nông nghiệp hữu cơ nhỏ, việc trả tiền lương chậm, thiếu tín dụng …

Để khắc phục các khó khăn các Chính phủ thường có chính sách hỗ trợ việc
chuyển đổi từ nông nghiệp sang nông nghiệp sinh học.

1.1.3.3 Việc kiểm tra và buôn bán sản phẩm nông nghiệp sinh học
Các sản phẩm nông nghiệp sinh học có bán ở cửa hàng đặc biệt hay siêu thị
thường mang nhãn hiệu có ghi nhãn AB (nông nghiệp sinh học). Có nhiều tổ chức
kiểm tra độc lập với người sản xuất được Bộ nông nghiệp uỷ quyền. Các tổ chức
này thường xuyên đến kiểm tra các nông trại và phân tích sản phẩm trong phòng
thí nghiệm. Đồng thời các tổ chức này dán nhãn hiệu của mình trên hàng hóa.


Trên thị trường rau quả nông nghiệp sinh học xuất hiện sớm nhất. Sau đấy
đến thịt, hạt cốc, sản phẩm chế biến. Hiện nay đã có hơn 20 quy trình kỹ thuật quy
định việc sản xuất thịt, sữa, phomát, trứng, giò chả, bún bánh, bánh ngọt, rượu
vang, cà phê, chè, chứa các thức ăn chế biến. Hiện nay cũng đã có hạt giống và cây
con để trồng cho nông nghiệp sinh học.
Giá của các sản phẩm sinh học thường đắt hơn sản phẩm thường 20-50%, tuỳ loại sản phẩm.
Thường sữa, khoai tây, hạt cốc, gạo ít khi đắt hơn 20%, thịt 20-40%, quả 50% vì phải bảo quản.

1.1.4. Chỉ tiêu đánh giá
- Tổng giá trị sản xuất/1ha đất nông nghiệp.
- Tổng giá trị sản xuất/1ha đất canh tác.
- Tốc độ tăng của giá trị sản xuất, thu nhập/1ha canh tác, người lao động
- Chất lượng sản phẩm, độ an toàn thực phẩm đối với con người.
- Chỉ tiêu chất lượng môi trường nước đất, không khí vùng sản xuất.
1.2. HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG THÔN

1.2.1. Khái niệm
Hiện đại hoá nông thôn là quá trình ứng dụng và đổi mới các công nghệ hiện đại và phương
pháp tiên tiến vào các ngành sản xuất, cơ sở hạ tầng và văn hóa xã hội, nhằm tạo ra năng xuất lao
động và xây dựng xã hội văn minh. Các ngành kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn
được thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, năng suất
cao. Đặc biệt trong nông nghiệp từ sản xuất nguyên liệu đến bảo quản chế biến đều tiến hành công

nghiệp để tạo ra sản phẩm sạch, an toàn thực phẩm chất lượng cao là mục tiêu phấn đấu ở vùng nông
thôn. Từ sản xuất phát triển, đi đôi với nó là cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, điện, cấp nước,
thông tin cũng được hiện đai từng bước để đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống.
Khi sản xuất đã được công nghiệp, các vấn đề xã hội cũng nhất thiết phải phát triển, có như vậy
tạo nên sự cân bằng phát triển, đặc biệt là trí tuệ, trình độ, tác phong làm việc, đầu óc tổ chức để đáp
ứng được yêu cầu của quá trình hiện đại hoá. Điều đặc biệt quan tâm là ứng dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời sống của con người.


Như vậy, công nghiệp hoá là cầu nối đưa một đất nước, hay một vùng kinh tế, nông thôn v.v…
đến hiện đại hoá cho nên hai phạm trù này khó tách khỏi nhau công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiểu theo bản chất của nó, là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công
là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại dựa trên sức phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra năng suất
lao động xã hội cao. Theo cách hiểu này, chúng ta thấy rõ mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa là
nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, giữ nhịp độ tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững.
Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn là một nội dung quan trọng không thể bỏ qua trong
quá trình công nghiệp hoá đối với tất cả các nước. Nếu chỉ phát triển công nghiệp ở đô thị mà không
công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, thì chính công nghiệp hóa đô thị cũng gặp khó khăn vì thiếu
nông sản hàng hóa và thiếu lao động; nông nghiệp và nông thôn chưa công nghiệp hóa thì sẽ không đủ
năng lực đáp ứng các nhu cầu trên của đô thị vì sản lượng hàng hóa ít và năng suất lao động thấp.
Nhưng nội dung và bước đi của công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn ở các nước và các
khu vực trên thế giới không giống nhau.
Ở các nước Âu, Mỹ, trong quá trình công nghiệp hóa, mô hình phổ biến là ưu tiên phát triển công
nghiệp đô thị đi trước. Khi công nghiệp đô thị đủ mạnh mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn và đến nay trở thành những nước công, nông nghiệp phát triển phương Tây.
Một số nước đang phát triển ở Châu Phi và Châu Á, vừa qua đã rập khuôn mô hình của các nước
Âu, Mỹ nhưng không thành công.

Những nước và lãnh thổ ở khu vực Đông Bắc Á bắt đầu là Nhật Bản rồi đến Đài Loan, Hàn Quốc,
đi lên công nghiệp hóa bằng con đường khác: Phát triển mạnh công nghiệp đô thị đi đôi với công nghiệp
hóa nông nghiệp và nông thôn với phạm vi và mức độ thích hợp, ở từng vùng trong thời kỳ công nghiệp
hóa và đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.
Xuất phát từ những điều kiện thực tế của nước ta và vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm của nước
ngoài, Đảng ta có chủ trương trong thời kỳ đầu đi lên công nghiệp hóa: “đặc biệt coi trọng công nghiệp


hóa nông nghiệp và nông thôn”, nghĩa là đồng thời vừa công nghiệp hóa đô thị vừa công nghiệp hóa
nông thôn.
Cơ sở khoa học và thực tiễn của chủ trương này là ở chỗ nước ta đi lên công nghiệp hóa từ một
nền kinh tế nông nghiệp với trình độ sản xuất thấp kém, sản xuất tự cấp tự túc, khối lượng và tỷ suất
nông sản hàng hóa ít, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu bức thiết của công nghiệp hóa nông nghiệp
và nông thôn.
Mặt khác, nông nghiệp và nông thôn nước ta là khu vực kinh tế có tiềm năng lớn về tài nguyên
mà ta có thế mạnh về đất đai và lao động. Công nghiệp hóa tác động vào đất đai thông qua các giải pháp
ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học, hóa học, cơ điện, sẽ tạo ra năng suất cao về cây trồng, vật
nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nước, khí hậu nhiệt đới tạo ra sản lượng cao về nông, lâm, ngư
nghiệp. Công nghiệp hóa tác động vào đội ngũ lao động đông đảo gần 30 triệu người ở nông thôn, chiếm
khoản 70% lao động xã hội, thông qua các giải pháp tổ chức quản lý, cơ chế và chính sách khoa học, công
nghệ thích hợp sẽ đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mở mang
các ngành nghề, nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn
cuối cùng tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang cơ cấu kinh tế nông, công
nghiệp và dịch vụ, góp phần tích cực vào việc phân bổ lại lực lượng lao động nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn, cải thiện mức sống ở
nông thôn và thúc đẩy việc cải tạo và xây dựng nông thôn mới. Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông
thôn tạo ra điều kiện tăng trưởng khối lượng và chất lượng nông – lâm – thuỷ, hải sản xuất khẩu, thu
ngoại tệ phục vụ nhu cầu nhập thiết bị công nghệ cho công nghiệp hóa.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn nước ta có vị trí hết sức quan
trọng vì nó tạo ra tiền đề và cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động dồi dào và nguồn đất đai rộng lớn ở
nông thôn.

1.2.2. Nội dung của hiện đại hoá nông thôn
1.2. 2.1 . Hiện đại hoá các ngành kinh tế
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là kết quả của quá trình phát triển từ một nền sản xuất thủ công
trở thành một nền sản xuất với công cụ cơ khí, điện khí, áp dụng các công nghệ tiên tiến, thể hiện sự
hiện đại trong sản xuất và tạo ra năng suất cao, giá thành hạ, chất lượng tốt. Đây là sự thay đổi từ lượng


sang chất, thay đổi cơ bản của lực lượng sản xuất. Để đạt kết quả đó, loài người trải qua nhiều cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật. Song song phát triển khoa học kỹ thuật, trình độ trí tuệ của con người cũng
phát triển, quan hệ sản xuất cũng thay đổi để phù hợp với sự tiến bộ đó.
Thực chất nội dung của CNH - HĐH là như vậy, ở đây cần làm rõ thêm trong lĩnh vực nông thôn.
Kinh tế nông thôn dù nông thôn đó ở nơi nào thì sự hoạt động kinh tế cũng thể hiện trên ba lĩnh vực cơ
bản công nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ. CNH - HĐH các ngành kinh tế đóng vai trò quyết định sự thành
bại của sự phát triển. CNH - HĐH tạo ra năng suất lao động cao, sản xuất ra nhiều của cải cho xã hội, làm
thay đổi xã hội. Muốn phát triển các ngành kinh tế, công nghiệp phải là ngành có tính quyết định, từ đó
thúc đẩy ngành nông nghiệp và dịch vụ phát triển. Bởi vậy, trong khi đánh giá mức độ CNH - HĐH thì
không nhất thiết các ngành phải giống nhau, do đặc điểm của từng ngành mà mức độ CNH - HĐH có
khác nhau. Ở đây đang bàn đến CNH- HĐH nông thôn cho nên vấn đề công nghiệp hoá trong sản xuất
nông nghiệp, đây là một trong lĩnh vực công nghiệp hoá gặp nhiều khó khăn. Điểm xuất phát là do đặc
thù của sản xuất nông nghiệp, đối tượng là sinh vật, diễn ra trong môi trường lớn, rất khác nhau v.v …
cho nên công nghiệp hoá diễn ra thường chậm chạp hơn các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Phát triển công nghệ cao: Nhờ có phát triển của công nghiệp và các tiến hộ khoa học, ngày nay
trong lĩnh vực nông nghiệp trên thế giới đã tiến hành công nghiệp hoá trong tất cả các ngành sản xuất
nông nghiệp, từ khâu sản xuất nguyên liệu, đến khâu bảo quản, chế biến và tiêu thụ. Nhiều nước còn
ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Nhưng điều khẳng định chắn chắn CNH - HĐH nông
thôn là quá trình khá dài và đòi hỏi phải đầu tư lớn.
1.2.2.2


Hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng

Các ngành kinh tế muốn phát triển thì cơ sở hạ tầng cũng phải phát triển tương ứng, thậm chí có cơ sở
hạ tầng còn phải đi trước một bước để thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển :
+ Đường giao thông
+ Hệ thống điện
+ Hệ thống bưu chính, viễn thông
+ Hệ thống nước
+ Hệ thống y tế


+ Hệ thống trường học
+ Hệ thống công trình văn hoá, phúc lợi
1.2.2.3 - Hiện đại hoá các vấn đề xã hội
+ Nâng cao trình độ dân trí của người lao động và dân cư
+ Xây dưng và tổ chức nếp sống văn hoá công nghiệp cho cộng đồng
+ Hiện đại cuộc sống văn hoá, xây dựng xã hội văn minh

1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá hiện đại hoá
Trên thế giới không có chỉ tiêu đánh giá cho một quốc gia hiện đại, nông thôn hiện đại, mà họ có
chỉ tiêu phân chia ra các nước công nghiệp (các nước phát triển) , các nước đang phát triển, trong các
nước đang phát triển còn có một số nước chậm phát triển.
Đây là sự đánh giá thông qua trình độ phát triển kinh tế, trong đó chỉ tiêu quan trọng là phát
triển công nghiệp, dịch vụ, họ còn gọi là các nước công nghiệp. Với logic, khi kinh tế phát triển thì kéo
theo nhiều vấn đề khác phải phát triển và ngược lại kinh tế phát triển hỗ trợ cho các lĩnh vực khác phát
triển.
Cho nên có thể sử dụng tiêu thức: GDP bình quân đầu người; tỷ lệ CN -DV trong cơ cấu GDP;
trình độ phát triển cơ sở hạ tầng.
Các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn

-

Mức độ thuỷ lợi hóa.

-

Mức độ sử dụng động lực máy móc nông nghiệp.

-

Mức độ điện khí hóa.

-

Năng suất tổng hợp ruộng đất.

-

Năng suất lao động nông thôn.

-

Trình độ thương phẩm hóa trong nông thôn.

-

Trình độ chuyên môn hóa, xã hội hóa sản xuất.

-


Tỷ trọng giá trị gia tăng nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trong GDP thuộc phạm vi nông thôn.
-

Trình độ văn hóa của nông dân.


-

Trình độ đô thị hóa.

-

Trình độ thu nhập thuần bình quân của 1 người lao động nông thôn.

-

Mức độ nâng cao về đời sống văn hóa - xã hội ở nông thôn.

1.2.4 Một số vấn đề về công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông thôn
nước ta
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất cả các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý, theo hướng chuyển từ lao động thủ công là chính sang lao động
có văn hóa, có kỹ năng, sử dụng các phương tiện hiện đại và phương pháp lao động tiên tiến nhằm tạo
ra năng suất lao động xã hội cao.
Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đứng trước thời cơ, vận hội lớn cho sự phát triển mạnh mẽ,
đồng thời cũng đứng trước những thách thức, nguy cơ không thể xem thường. Để tranh thủ thời cơ, đẩy
lùi nguy cơ, Đảng ta đã chỉ ra nhiệm vụ trung tâm từ nay đến năm 2020 là đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Mà nhiệm vụ trung tâm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông
thôn bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
-


Điện khí hóa nông thôn.

-

Phát triển giao thông nông thôn.

-

Thuỷ lợi hóa nông nghiệp.

-

Cơ khí hóa, đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông sản.

-

Tiến hành cuộc cách mạng sinh học thay đổi giống cây, con có năng suất, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
của thị trường trong nước và thế giới.

-

Phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế nông thôn.
Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, Nghị quyết
Trung ương bốn đã nêu ra hệ thống giải pháp lớn, cụ thể:
1.2.4.1. Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động ở nông
thôn
Nông thôn nước ta đất chật, người đông, ruộng đất vốn đã ít lại đang bị giảm nhanh (do xây
dựng phát triển công nghiệp, kết cấu hạ tầng, đô thị hóa …), đến nay đất canh tác bình quân một nhân
khẩu nông nghiệp chỉ còn hơn 800m 2, riêng miền Bắc chỉ còn hơn 500m 2, thấp hơn nhiều mức “xiềng 3

sào” của những năm 60. Hơn nữa, do hầu hết lao động làm nông nghiệp tập trung chủ yếu vào trồng


trọt, trồng cây lương thực, nên lao động nông thôn còn dư thừa lớn (theo điều tra năm 1996, tỷ lệ thiếu
việc làm ở nông thôn là 27,6% tương ứng 2,2 tỷ ngày công chưa được sử dụng. Ở một số tỉnh tỷ lệ thiếu
việc làm ở nông thôn tới 30%-32% lực lượng lao động). Trong những năm tới cần chuyển đổi căn bản cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, vừa nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích đất canh tác, tăng
nhanh tỷ trọng các sản phẩm ngoài lương thực (rau màu, cây công nghiệp, chăn nuôi ... Nếu trồng lúa
năng suất 10 tấn trên 1 ha một năm thì giá trị thu được trên 1 ha một năm chỉ đạt 15 - 20 triệu đồng.
Nhờ thay đổi cơ cấu cây trồng , áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, nhiều địa phương đã tạo
ra 40 - 50 triệu đồng trên 1 ha một năm), vừa phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
trong khu vực nông thôn, để đến năm 2000 sử dụng được trên 75% thời gian lao động ở nông thôn. Để
thực hiện được điều đó cần phải:
1.2.4.2 Thực hiện tốt các chủ trương về phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo đường lối của Đại
hội Đảng đã vạch ra
-

Trong nông nghiệp, tiếp tục thực hiện các chương trình thuỷ lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, ứng dụng
công nghệ sinh học. Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình thoát lũ và ngọt hóa ở đồng bằng sông Cửu
Long, củng cố hệ thống đê điều cả nước. Hướng phát triển nông nghiệp là đầu tư thâm canh, tăng vụ là
chính, mở thêm diện tích ở nơi còn có điều kiện như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, vùng
Tây Nguyên. Xác định diện tích trồng lúa bảo đảm an toàn lương thực quốc gia. Việc chuyển đất lúa ở
những nơi sản xuất lúa bấp bênh, hiệu quả thấp sang trồng cây khác, chuyển sang sử dụng cho các mục
đích phi nông nghiệp phải có quy hoạch và được xét duyệt chặt chẽ.

Quy hoạch và phát triển các vùng chuyên canh, phát huy ưu thế của từng
vùng (vùng trọng điểm lúa đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, vùng
cây công nghiệp Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, vùng cây ăn quả …). Đẩy mạnh việc
áp dụng công nghệ sinh học, ưu tiên phát triển các cây trồng, vật nuôi có quy mô
xuất khẩu lớn và thị trường ổn định, những sản phẩm quý hiếm, đặc sản của nông

nghiệp Việt Nam. Trước mắt, tập trung sức phát triển các vùng chuyên canh lúa
xuất khẩu (sản xuất những loại gạo có giá trị xuất khẩu cao), ngô, cao su, cà phê,
chè, hạt điều, mía đường, cây ăn quả, rau đậu, chăn nuôi bò, lợn và các cây con đặc
sản khác.
Hết sức chú trọng phát triển các cơ sở vật chất, công nghệ bảo quản sản
phẩm sau thu hoạch (nhà kho, phương tiện vận tải, công nghệ phơi sấy, bảo quản
…) và công nghiệp chế biến để giảm tỷ lệ hao hụt, bảo đảm chất lượng sản phẩm,


tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu, điều hoà lưu thông, bảo vệ cho cả lợi ích của nông
dân và lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người sản xuất và tiêu dùng.
- Trong lâm nghiệp, quản lý và sử dụng có hiệu quả tiềm năng to lớn của rừng và đất
rừng có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã hội, sinh thái, an ninh, quốc phòng của đất
nước, đời sống của hàng chục triệu đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi, ven
biển và hải đảo. Trước tình hình đốt rừng làm nương rẫy, chặt phá, khai thác rừng
bừa bãi hiện nay đã và đang làm suy kiệt tài nguyên rừng, suy thoái môi trường, vì
lợi ích trước mắt và lâu dài của đất nước cũng như với tư cách một quốc gia đã
tham gia Hội nghị về bảo vệ môi trường thế giới, cần phải có những biện pháp kiên
quyết ngăn chặn tình trạng này.
Trước hết, phải bảo vệ cho được diện tích rừng hiện có, đặc biệt bảo vệ
nghiêm ngặt rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, khoanh nuôi rừng tái sinh, quản lý
chặt chẽ việc khai thác vốn rừng kinh tế. Xây dựng quy hoạch cụ thể và tích cực
triển khai thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã được Quốc hội thông qua.
Bảo đảm phủ xanh 40% diện tích cả nước.
Để ngăn chặn tình trạng du canh du cư, đốt phá rừng bừa bãi, chuyển đồng
bào miền núi sang định canh, định cư, ổn định cuộc sống, cần phải thực hiện nhất
quán và tích cực chủ trương giao đất, giao rừng cho hộ gia đình làm chủ, bảo đảm
lợi ích của hộ nhận đất, nhận rừng, giúp đỡ cho các hộ có điều kiện sinh sống để
trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng, để đồng bào sống được bằng nghề rừng ngay cả
khi có chủ trương đóng cửa rừng. Cần xem xét cụ thể điều kiện sinh sống trước

mắt và lâu dài của nhân dân từng xã, từng huyện miền núi để có biện pháp phát
triển kinh tế - xã hội tại chỗ, hoặc chính sách tạo việc làm, đảm bảo đời sống cho
những hộ cần chuyển cư. Hạn chế thấp nhất tình trạng di dân tự do, cần phối hợp
giữa các tỉnh, các huyện có dân đi và dân đến để tổ chức việc di dân có tổ chức, có
kế hoạch, có hiệu quả.
- Trong ngư nghiệp và phát triển kinh tế biển: Nước ta là quốc gia có biển; phát triển
kinh tế biển, đánh bắt và nuôi trồng hải sản là thế mạnh của nền kinh tế nước ta.
Trong những năm qua, ngành thuỷ sản đã tạo ra lượng hàng xuất khẩu có giá trị
lớn (năm 1996: 651 triệu USD; năm 1997:750 triệu USD, năm 2004 kế hoạch xuất
khẩu 2 tỷ USD ).


Tiềm năng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản còn rất lớn. Trước mắt phải
khôi phục lại đội tàu thuyền đánh bắt và diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại
lớn do cơn bão số 5 gây ra. Đầu tư cho các vùng không bị thiên tai phát triển để bù
lại và nâng cao sản lượng bảo vệ nguồn lợi hải sản và khôi phục môi trường sinh
thái biển vùng gần bờ, cần hạn chế việc đánh bắt cá ven bờ, chuyển mạnh sang
đánh bắt xa bờ, nuôi trồng thuỷ sản với mức thâm canh cao, công nghệ nuôi trồng
bền vững. Tích cực triển khai thực hiện chương trình của Chính phủ về vay vốn (cả
cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình) đóng tàu thuyền đánh bắt xa bờ. Áp dụng
công nghệ mới vào nuôi trồng thuỷ sản với mức độ thâm canh cao, bảo vệ môi
trường. Tổ chức lại công nghiệp chế biến và dịch vụ trên bờ phục vụ các đội tàu
đánh bắt xa bờ bám biển dài ngày và bảo đảm chất lượng, nâng cao giá trị sản
phẩm. Cải tạo và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở nghề cá, các cảng cá, hệ thống
kho bãi, giao thông vận tải, các cơ sở sửa chữa tàu biển … Tạo điều kiện và
khuyến khích mọi thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các hộ và nhóm hộ ngư
dân tự đầu tư, mua sắm tàu thuyền đánh bắt, chế biến hải sản, làm dịch vụ và tiêu
thụ sản phẩm.
Ngoài phát triển đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, biển còn rất nhiều tiềm
năng chưa được khai thác. Cần xây dựng quy hoạch, chiến lược khai thác tổng hợp

tiềm năng của biển, phát triển kinh tế biển. Tăng đầu tư từ nhiều nguồn (trong và
ngoài nước) cho nghiên cứu khoa học biển, nghiên cứu khí tượng thuỷ văn, đẩy
mạnh tìm kiếm thăm dò dầu khí, khoáng sản biển, nghiên cứu các nguồn năng
lượng biển, nghiên cứu và bảo vệ môi trường.
1.2.4.3 Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông
nghiệp hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu
nhập cao cho nông dân nghèo.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất hàng đầu của nông nghiệp. Chính sách ruộng
đất đúng đắn, phù hợp sẽ là một động lực mạnh mẽ cho nông nghiệp phát triển.
Chính sách giao đất, giao rừng cho hộ quản lý và sử dụng lâu dài từ sau Nghị quyết
10 của Bộ Chính trị (5-4-1988) đã là một trong những yếu tố cơ bản tạo ra sự phát
triển của nông nghiệp những năm đổi mới vừa qua.
Nhưng đến nay việc giao đất cho nông dân quản lý, sử dụng, chưa hoàn
thành, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho nông dân làm còn chậm, cần


phải đẩy mạnh và sớm hoàn thành. Tình trạng phân chia ruộng đất quá manh mún
ảnh hưởng tới áp dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất. Có khoảng 10
triệu hộ nông dân nhận 100 triệu mảnh đất, trung bình mỗi hộ tới 10 mảnh (diện
tích trung bình một hộ là 800m 2, ở đồng bằng Bắc bộ là 500m2, tức là mỗi mảnh
chỉ khoảng 50-80m2). Bởi vậy cần khuyến khích và giúp đỡ các hộ nông dân đổi
đất cho nhau để liền thửa, liền khoảnh, tạo điều kiện cho thâm canh và nâng cao
năng suất lao động. Hiện nay việc này đang được các hộ nông dân ở một số tỉnh
thành thực hiện tích cực.
Trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay đang diễn ra hiện tượng sang
nhượng ruộng đất, tích tụ, tập trung ruộng đất. Những người sang nhượng, chuyển
quyền sử dụng đất cho người khác có nhiều loại, có nhiều lý do: Người chuyển
sang làm việc khác, nghề khác, người thiếu vốn, thiếu lao động, ốm đau bệnh tật
hoặc rủi ro tai hoạ, người không có kinh nghiệm sản xuất … Điều này một mặt dẫn
đến tích tụ và tập trung ruộng đất, hình thành nên những hộ sản xuất hàng hóa lớn

và tạo điều kiện thúc đẩy sự phân công lao động xã hội trong nông nghiệp, nông
thôn. Nhưng mặt khác lại đưa tới hàng vạn hộ nông dân (hiện nay tập trung chủ
yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long) không còn ruộng đất phải trở thành người
làm thuê, làm mướn, phân hóa giàu nghèo ở nông thôn ngày càng mở rộng.Xử lý
vấn đề này có ý kiến cho rằng việc tích tụ và tập trung ruộng đất là tất yếu phải
diễn ra trong quá trình phát triển nông nghiệp và là xu hướng tiến bộ. Để tích tụ và
tập trung ruộng đất thì nhất định có một bộ phận nông dân không có ruộng đất,
nhưng đó là điều kiện để phân công lại lao động nông nghiệp, để chuyển một bộ
phận nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đó là điều bình thường.Cần phải
có sự tích tụ và tập trung ruộng đất trong quá trình phát triển của nông nghiệp.
Nhưng vấn đề là tích tụ đến mức nào, như thế nào? Tất nhiên là phải phân công lại
lao động nông nghiệp, rút bớt lực lượng lao động khỏi nông nghiệp cùng với quá
trình phát triển kinh tế đất nước. Nhưng điều đó lại phụ thuộc vào trình độ phát
triển của công nghiệp và dịch vụ, vào khả năng thu hút lực lượng lao động của các
khu vực này. Khi công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển mà nông dân mất đất phải
đi làm thuê, làm mướn là điều không thể chấp nhận. Vì vậy Nghị quyết trung ương
bốn khóa VIII cũng đã chỉ ra là cần quản lý chặt chẽ việc nhượng quyền sử dụng
đất theo đúng pháp luật, không để nông dân nghèo sống bằng nghề nông phải bán


đất (những người chuyển đi làm nghề khác hay di cư lập nghiệp ở nơi khác … thì
có thể nhượng quyền sử dụng đất). Đặc biệt phải ngăn chặn và xử lý các thủ đoạn
chèn ép, cưỡng đoạt ruộng đất của người nông dân nghèo. Đồng thời trong điều
kiện hiện nay chưa đặt vấn đề mở ruộng mức hạn điền đối với đất canh tác. Kiểm
tra việc thực hiện chính sách hạn điền đối với đất canh tác phù hợp với điều kiện
đất đai ở các vùng khác nhau. Đối với đất vượt mức hạn điền cần có biện pháp xử
lý hợp lý với từng loại đất (đất canh tác cũ, đất khai hoang, đất chưa sử dụng …)
theo nguyên tắc khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả, đồng thời nghiêm cấm việc
mua bán đất để kiếm lời, bảo đảm công bằng xã hội
Kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau (Nhà nước, tập thể, tư

nhân) đang phát triển ở những nơi có nhiều ruộng đất (trung du, miền núi) để trồng
cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc. Khuyến khích việc khai phá đất hoang, nhận
đất đồi rừng chưa có người sử dụng để phát triển kinh tế trang trại (hiện nay kinh tế
trang trại đang phát triển, tiêu biểu như ở tỉnh Yên Bái, Bình Dương, mỗi tỉnh có
500 - 600 trang trại quy mô từ 3 đến 300 ha, chủ yếu là đất đồi rừng, trồng cây dài
ngày).
Đối với các hộ nông dân thiếu đất hoặc không còn đất canh tác cần đánh
giá, phân loại để có chính sách, giải pháp xử lý phù hợp với từng trường hợp theo
hướng vừa không để nông dân bị bần cùng hóa, phải đi làm thuê do không có đất
sản xuất, vừa tạo điều kiện cho tích tụ và tập trung ruộng đất hợp lý theo tiến trình
công nghiệp hóa (như tạo điều kiện cho họ lập nghiệp mới, làm nghề mới, giúp họ
khai thác đất chưa sử dụng hoặc cho vay vốn để chuộc lại đất …).
Đồng thời bổ sung thể chế để ngăn ngừa tình trạng lãng phí đất đai. Quy
định cụ thể điều kiện và kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất,
nhất là chuyển đất canh tác sang sử dụng vào mục đích khác. Chính sách đền bù
cho nông dân khi lấy đất sử dụng vào mục đích khác phải có sự phân biệt giữa lấy
đất cho mục đích kinh doanh với lấy đất cho mục đích công ích. Khi lấy đất của
nông dân, ngoài chính sách đền bù bằng tiền, cần giúp nông dân có việc làm và
nguồn thu mới (như có ruộng đất ở nơi khác để sản xuất, có nghề mới, góp vốn hay
làm việc ở các doanh nghiệp xây dựng trên đất bị thu hồi.
1.2.4.4 Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ ở nông thôn


Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn là một
hướng quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn để lao động nông thôn dư thừa
không đổ xô vào các đô thị lớn, gây ra nhiều vấn đề kinh tế-xã hội phức tạp. Phát
triển công nghiệp nông thôn, khôi phục và phát triển các làng nghề, các nghề thủ
công truyền thống, các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn, để nông

dân “ly nông bất ly hương”, là hướng phát triển được nhiều nước đang phát triển
thực hiện có kết quả tốt.
Để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn,
Nhà nước cần có sự hỗ trợ xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng ở nông thôn như
điện, đường, hệ thống nước, trường, trạm, chợ … Bổ sung chính sách khuyến
khích mọi người, mọi doanh nghiệp thuộc mội thành phần kinh tế, kể cả người
nước ngoài đầu tư vào phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn, như xoá bỏ các thủ tục phiền hà trong đăng ký kinh doanh, những quy
định không hợp lý về cư trú, về quản lý hộ khẩu, phân biệt người địa phương với
người nơi khác đến đầu tư và tìm việc làm; tăng thời gian miễn, giảm thuế, ưu đãi
về lãi suất, thời hạn cho vay và bảo lãnh các khoản tín dụng, giảm giá thuê đất
hoặc miễn toàn bộ tiền thuê đất đối với những dự án đầu tư vào vùng khó khăn, kể
cả với đầu tư 100% vốn nước ngoài …
Quy hoạch và xúc tiến việc xây dựng các khu công nghiệp, đặc biệt là các
khu quy mô nhỏ, tạo sẵn cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư vào nông thôn; xây dựng
các thị trấn, thị tứ cùng với các khu công nghiệp, hình thành các trung tâm kinh tế xã hội - văn hóa, khoa học và công nghệ ở nông thôn.
Việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
cần được tổ chức theo theo hưóng liên kết cơ sở công nghiệp chế biến nông - lâm thuỷ sản với đơn vị sản xuất nguyên liệu, liên kết giữa các khâu trước, trong và sau
sản xuất, giữa sản xuất nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo lợi ích
của các khâu, gắn kết quan hệ nông nghiệp với công nghiệp, công nhân với nông
dân. Một số mô hình đã hình thành ở một số địa phương như Liên hiệp mía đường
Lam Sơn, nông trường Sông Hậu cần được tổng kết, nhân rộng.
1.2.4.5 Tăng nhanh trang thiết bị kỹ thuật trong nông nghiệp, nông thôn


Trong 5 năm qua, nông thôn đã tăng thêm 56 ngàn máy kéo nhỏ, 83 ngàn
máy xay xát nhỏ, 60 ngàn máy động lực nhỏ phục vụ bơm nước và vận chuyển,
16.500 ô tô các loại; trong ngư nghiệp có gần 100 ngàn tàu thuyền với 70 ngàn
chiếc thuyền máy có tổng công suất 1,6 triệu mã lực, do nông dân tự mua sắm
trong khi Nhà nước chưa có sự ưu đại nàp đáng kể. Tổng lượng phương tiện này

nhiều hơn số được trang bị trong 20 năm trước đó (nhà nước bao cấp).
Tuy nhiên hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp, sức máy móc cơ khí mới
chiếm khoảng 20%, còn 35% là sức người, 45% là sức súc vật. Trong lĩnh vực vận
chuyển, chế biến nông sản, tỷ lệ cơ khí hóa còn rất thấp. Lao động thủ công còn ở
nhiều khâu trong quá trình sản xuất nông nghiệp, làm cho năng suất lao động thấp,
chưa giảm bớt được sự nặng nhọc của công việc, các khâu sau thu hoạch tổn thất
lớn.
Trong thời gian tới Nhà nước sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất
cơ khí trong nước phục vụ nông nghiệp, nhất là các thiết bị vừa và nhỏ (máy kéo 6
- 12 mã lực, động cơ 4 – 6 – 9 - 12 mã lực, máy làm đất, bơm nước, máy tuốt lúa,
xay xát, đánh bóng) có sức cạnh tranh với nước ngoài. Tổ chức tốt các dịch vụ lắp
đặt, hướng dẫn kỹ thuật, bảo dưỡng, sữa chữa sau khi bán máy để tăng tính cạnh
tranh và phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp.
Đối với những sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp và thuỷ sản, trong
nước sản xuất chưa đủ nhu cầu thì Nhà nước có sự ưu đãi về vốn và thuế để nhập
khẩu những mặt hàng này.
Việc nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất ở nông thôn
đòi hỏi phải có sự phát triển tương ứng của lực lượng lao động, sự phát triển tương
ứng về đào tạo nguồn nhân lực. Bởi vậy, cần đẩy mạnh việc đào tạo bồi dưỡng kỹ
thuật, đồng thời bồi dưỡng kiến thức kinh tế, hình thành đội ngũ những nhà kinh
doanh giỏi ở nông thôn, trong cả nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
1..2.4.6 Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản
Trong những năm vừa qua, nông nghiệp phát triển khá. Mặc dù nông sản
hàng hóa chưa nhiều nhưng một số sản phẩm đã thiếu thị trường, khó tiêu thụ, giá
cả không ổn định, nhiều khi xuống quá thấp nên giá trị tăng thêm của nông sản
không tương ứng với mức tăng sản lượng, nông dân bị thu thiệt, được muà nông
dân không phấn khởi, làm cho sức mua của xã hội hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp tới


sự phát triển chung của nền kinh tế. Ngoài lúa thì hạt điều, cao su, cà phê, chè, các

loại hoa quả khác cũng gặp những vấn đề khó khăn về thị trường, sự bấp bênh của
giá cả.
Thị trường tiêu thụ nông sản đang trở thành vấn đề lớn, bức sức đối với sản
xuất nông nghiệp và đời sống nông dân. Nông sản xuất khẩu của Việt Nam có cơ
cấu tương tự như nhiều nước trong khu vực: gạo, cà phê, cao su, chè … Gần đây
các nước như Thái Lan, Malaixia, Indônêxia, Philippin, đồng tiền mất giá do cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ càng làm cho hàng xuất khẩu của Việt Nam phải
cạnh tranh gay gắt hơn, khó khăn hơn.
Để mở rộng thị trường tiêu thụ, yếu tố quyết định là nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Đó là những vấn đề
thuộc lĩnh vực sản xuất, phải phấn đấu thực hiện. Còn trong lĩnh vực lưu thông cần
phải giải quyết một số giải pháp lớn sau:
- Thực hiện cơ chế lưu thông thật sự thông thoáng trên thị trường trong nước
đối với các loại vật tư và sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp nông thôn với sự
tham gia của mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ tình trạng độc quyền, chia cắt, cát cứ
trong việc mua nông sản. Nhưng phải đặc biệt coi trọng, củng cố và phát triển hệ
thống thương nghiệp nhà nước trên địa bàn nông thôn, phát triển các hình thức hợp
tác, liên kết giữa thương nghiệp nhà nước với hợp tác xã, nông dân và lực lượng
thương nghiệp tư nhân nhỏ. Khắc phục tình trạng thương nghiệp nhà nước co cụm
về thành phố, thị xã, thị trấn, kinh doanh đơn thuần chỉ để nuôi sống mình, thả nổi
thị trường nông thôn, gây thiệt hại đến lợi ích của nông dân, không phục vụ phát
triển sản xuất nông nghiệp.
Ngăn ngừa và xử lý kịp thời những hành vi đầu cơ lũng đoạn thị trường, xử
lý kịp thời những biến động trên thị trường làm thiệt hại lợi ích của nông dân và
Nhà nước. Miễn thuế lưu thông đối với hàng tươi sống và những nông sản thực
phẩm thiết yếu cho đời sống nhân dân.
- Tạo cho được một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế
Điều đó đòi hỏi phải có sự lựa chọn đúng những sản phẩm có ưu thế của
nông nghiệp nước ta để tập trung đầu tư tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa

học kỹ thuật, công nghệ sinh học và công nghệ chế biến để tạo ra khối lượng sản


phẩm lớn, có chất lượng và giá trị cao, như các sản phẩm thuỷ sản, gạo, chè, cà
phê, cao su, hạt điều, rau quả, thịt lợn, gia cầm …
Để khuyến khích và tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, cần đổi
mới cơ chế quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng quy định rõ những điều kiện để
cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (khi có đủ điều kiện do
pháp luật quy định) được trực tiếp xuất khẩu hoặc tham gia hiệp hội xuất khẩu
nông sản, bảo đảm vai trò chủ đạo và chủ lực của kinh tế nhà nước đối với xuất
khẩu những sản phẩm chủ yếu.
Để khuyến khích chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ xuất khẩu sản phẩm thô,
giá trị thấp sang xuất khẩu sản phẩm chế biến có giá trị cao, cần đánh thuế xuất
khẩu cao đối với hàng xuất khẩu dạng nguyên liệu thô mà trong nước đã có khả
năng, đã có cơ sở chế biến. Cho nhập khẩu miễn thuế hoặc thuế suất thấp đối với
các loại nguyên liệu, vật liệu phục vụ công nghiệp nông thôn mà trong nước chưa
sản xuất được hoặc còn thiếu và đánh thuế nhập khẩu cao những nguyên liệu trong
nước đã có để khuyến khích sản xuất và sử dụng nguyên liệu trong nước.



×