Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Cơ sở lý luận về năng lực của cán bộ công chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.49 KB, 25 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁN BỘ CÔNG CHỨC
Đến nay đã có khá nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu đưa ra các khái niệm
, định nghĩa về nguồn nhân lực của một quốc gia. Tuy không hoàn toàn giống
nhau, nhưng có thể hiểu một cách nôm na là nguồn nhân lực chính là nguồn lao
động. Tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế xã hội, nguồn lao động sẽ được phân bổ
khác nhau trong bốn lĩnh vực hoạt động sau:
-Hoạt động trong lĩnh vực quản lý hành chính công bao gồm từ nhân viên
đến nhà lãnh đạo.
-Hoạt động trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp từ sơ cấp, trung cấp đến cao
cấp.
-Hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở công tác nghiên cứu lẫn
triển khai ứng dụng.
-Lao động trong các nghành nghề khác nhau như sản xuất kinh doanh và
dịch vụ.
Thực tế cho thấy: sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia, một lãnh
thổ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của nguồn nhân lực này.Vì vậy nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực là vấn của mọi thời đại và đặc biệt cần thiết với tình hình
của nước ta hiện nay.
1.1 Hành chính và cải cách hành chính
1.1.1 Khái niệm về hành chính
Là hệ thống tổ chức của nhà nước bao gồm bộ máy nhân sự và thể chế nhà
nước về tổ chức và cơ chế hoạt động, có chức năng thực thi quyền hành pháp bằng
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tức là quản lý công việc hàng ngày của
Nhà nước còn gọi là hành chính công hay hành chính công quyền.
1.1.2 Tính tất yếu của việc cải cách hành chính
Cải cách hành chính – Vấn đề của mọi chế độ nhà nước. Hành chính, xét từ
giác độ thể chế trong nhà nước pháp quyền là một cơ cấu của quyền hành pháp.


Khi nói hành pháp là để đặt bộ máy quản lý bên cạnh các quyền lập pháp và quyền
tư pháp. Như ở nước ta đó là mối quan hệ giữa Chính phủ


- Cơ quan thực thi pháp luật , Quốc hội - cơ quan lập pháp và toà án - cơ
quan tư pháp. Nhưng hành pháp với nghĩa là cơ quan ở trung ương muốn thực hiện
được vai trò quản lý các quá trình của đời sống xã hội thì cần có một hệ thống tổ
chức theo chiều ngang và chiều dọc. Chiều ngang như các cơ quan cùng vị thế
nhưng khác nhau về chức năng và đối tượng (như các bộ ở trung ương và các cơ
quan trong cùng một cấp ở địa phương) và chiều dọc như các cấp chính quyền từ
trung ương đến địa phương ở nước ta. Thực chất quyền hành pháp và quyền hành
chính chỉ là một: một bộ máy, một đội ngũ, một hệ thống điều hành, hệ thống
chính sách. Có khác chỉ là đặt nó trong quan hệ khác nhau mà thôi.
Vậy xét từ giác độ thể chế, bộ máy hành chính nước ta từ chỗ tư duy thành
lập các bộ chuyên ngành sâu (thành lập các bộ bám sát các ngành kinh tế kỹ thuật),
được cải cách theo hướng thành các bộ theo hướng đa ngành; từ giai đoạn nhập
tỉnh đến chỗ chia lại dân cư, đơn vị và lãnh thổ hành chính; từ chỗ xoá bỏ chức vụ
trưởng thôn (hình như xem nó giống như mô hình lý trưởng, xã trưởng ngày xưa
chăng), lấy bộ máy hợp tác xã vốn là thể chế kinh tế làm luôn chức năng quản lý
xã hội (chủ nhiệm hợp tác thu tiền làm đường, sửa chùa, dựng đội văn nghệ vì
không có bộ máy tự quản hành chính ở thôn (làng, ấp, bản) đến chỗ các đơn vị
cộng đồng thôn làng cần có cơ chế tự quản hành chính phân biệt với bộ máy điều
hành sản xuất.
Công việc vì vậy cần có sự phân định rõ: hợp tác là bộ máy điều hành sản
xuất, trưởng thôn là cơ cấu tự quản hành chính ở nông thôn. ở đó có sự cải cách thể
chế.
Cũng không mấy ngạc nhiên khi mà, hiện nay vấn đề cấp hành chính đãđược
hiến pháp qui định, nhưng hẳn sự bất cập về tầng nấc các cấp chính quyền ở đô thị
vẫn còn không ít sự tranh luận. Mấu chốt pháp lý xuất phát từ hiến pháp. Nhưng


hiến pháp là sản phẩm tư duy có tính ổn định tương đối, còn sự vận động, nhất là
trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế của xã hội có khi diễn ra hàng ngày, hàng tháng,
hàng năm. Hiến pháp năm 1992 ban hành vào thời điểm bản lề của sự thay đổi cơ

chế (có thể nói giai đoạn bản lề bắt đầu từ năm 1986 cho đến hiện nay). Vì vậy
trong khi hiến pháp qui định một số cấp ở nông thôn và thành thị có vị thế pháp lý
tương đương thì ở nông thôn sự vận động thay đổi chậm hơn nhiều so với các hoạt
động đô thị.
Giữa thành thị và nông thôn còn chứa đựng sự khác biệt giữa hai loại cơ cấu
hành chính tổng thể và các yếu tố bên trong của các cấp đó. ít nhất ta nhìn thấy
những đặc trưng về đối tượng quản lý khác hẳn: qui mô lãnh thổ, đặc điểm dân cư,
phương thức cư trú và lao động sản xuất giữa nông thôn và thành thị. Nếu ở nông
thôn mỗi gia đình có một giếng nước thì ở thành thị cả thành phố chỉ có "một giếng
nước" ? Nếu ở nông thôn người ở địa phương này không thể có quyền sử dụng
ruộng đất sản xuất ở địa phương khác thì ở đô thị gần như hoàn toàn ngược lại:
người ta ở chỗ này nhưng đi làm, kiếm sống, công tác lại ở nơi khác.v.v. . . Vậy
nên yếu tố tầng nấc hành chính phiền hà do thiết kế cấp hành chính trùng khớp về
cấp như thế đã bộc lộ sự phiền hà. (Tất nhiên sự phiền hà rất đa dạng chứ không
phải chỉ ở việc cấu trúc đô thị)
Hành chính là cơ quan quản lý xã hội nên thiên chức của nó gắn với thực
tiễn sinh động của xã hội. Xã hội luôn là một thực thể vận động (vì xã hội là xã hội
của những con người với những hoài bão, ý tưởng, nguyện vọng luôn thay đổi theo
hướng căn bản tích cực). Vì thế hành chính với tính cách là bộ máy điều hành các
hoạt động xã hội không thể nhất thành bất biến, nghĩa là nó phải thay đổi, bám sát
đời sống. Thời bao cấp và quản lý theo kiểu tập trung quan liêu thì bộ máy cũng
được hình thành theo phương thức nhấn mạnh (thậm chí quá mạnh) vai trò của các
quyết định tập thể, các cơ quan ra quyết định; coi nhẹ các quyết định cá nhân và
các chức vụ của những người đứng đầu. Nhưng chuyển sang cơ chế thị trường và


đời sống dân sự ngày càng phát triển, các mối quan hệ, dao gạch dân sự liên quan
đến lợi ích, quyền và trách nhiệm của công dân ngày càng tăng thì quyền và trách
nhiệm cá nhân phải được xác lập. Công việc điều hành hành chính hàng ngày liên
quan đến công dân và tổ chức dứt khoát liên quan đến vị trí, chức vụ của một

người nhiều hơn là một tổ chức (chủ tịch, phó chủ tịch UBND; chứ không phải uỷ
ban; trưởng phó phòng chứ không phải phòng, cán bộ thuế, địa chính chứ không
phải phòng thuế, phòng địa chính, trưởng phó công an chứ không phải phường,
đồn công an...).
Khi xã hội đã vận động ờ trình độ cao hơn của nền kinh tế, văn minh hơn về
nhu cầu văn hoá, hiện đại hơn về sử dụng và hưởng thụ các tiện nghi thì quản lý
theo kiểu cũ chắc chắn sẽ không thể chấp nhận được. Thời của xe đạp thì thường
người ta đi kiểu gì cũng ít rủi ro, va chạm, vậy nên ai chen lên đi trước, đi bên nào
của con đường cũng chẳng quan trọng lắm. Nhưng tâm lý đó của thời nay ở người
dân thì rất nguy hiểm đến tính mạng.
Nếu tâm lý đó có ở người thực thi công quyền như người công an hay thanh
tra giao thông thì không thể duy trì được trật tự xã hội và không thể giải quyết
được khi xuất hiện tranh chấp. Mấy chục năm trước đây khi phương tiện còn ít và
nghèo nàn, cơ sở hạ tầng thấp kém số lượng và qui mô các phương tiện giao thông
gia tăng thì những máy bắn tốc độ, giấy phép lái xe máy cũng như là vật thừa; nạn
mãi lộ trên đường liên quan đến vi phạm luật giao thông không có môi trường phát
sinh; số người tai nạn và tử vong lên tới mấy chục người mỗi ngày cũng không có
trong các số liệu thống kê. Nhưng bây giờ thì mọi sự hình như quay ngược 180 độ?
Nói cách khác xã hội thay đổi thì quản lý hành chính phải thích ứng. Cái gì trì trệ
nhất thiết phải đổi mới; đổi mới một cách tự phát chưa đáp ứng thì nhất thiết nó
phải là động lực của ý chí trong nhận thức nói chung và tư duy của người quản lý
nói riêng của người công chức. Vì thế cải cách hành chính phải được coi là quyết
sách của Nhà nước nói chung và Chính phủ nói riêng.


Cải cách hành chính cần tới cải sự đồng bộ của hệ thống pháp luật thực
định Với vị trí là cơ quan thực thi pháp luật, hành chính tự đặt nó vào mối quan hệ
với lập pháp. Nghĩa là, muốn thực thi hiệu quả pháp luật trong xã hội thì phải có
những đạo luật chặt chẽ, cụ thể, dễ hiểu và có tính khả thi cao (nếu là điều ngược
lại, như qui định trừu tượng, khó hiểu thì đương nhiên ảnh hưởng đến hoạt động

quản lý điều hành của quản lý hành chính).
Hành chính cũng tự đặt nó vào nhiệm vụ cụ thể của chính nó thông qua năng
lực trình độ và bản lĩnh của đội ngũ đông đảo nguồn nhân của chính mình. Nói
cách khác, giả thiết như chúng ta có hệ thống pháp luật thực định có tính khả thi
cao nhưng trao cho những cán bộ thiếu năng lực, thiếu mẫn cán hoặc tham Ô trục
lợi thì tính khả thi của luật pháp cũng trở thành “bất khả thi".
Hành chính phiền hà mất thời gian và vật chất của người dân do qua nhiều
tầng nấc mới nẩy ra tư tưởng cải cách một cửa" (theo tôi, bản chất của một cửa là
làm mọi thủ tục nhanh hơn, chất lượng hơn, tín nhiệm hơn với người dân chứ
không phải nó hơn ở con số một hay là hơn một. Thí như nếu "một cửa!' mà mất ba
ngày và một triệu đồng trong khi ba cửa mất một buổi sáng và 500 nghìn đồng thì
con số một cửa chẳng có ích gì). Và muốn một cửa cũng hợp pháp thì hệ thống văn
bản liên quan đến con dấu hợp pháp từ chỗ của nhiều bộ phận nay chỉ còn một
cũng phải qui định rõ, nghĩa là cũng cần tới ban hành văn bản.
Cải cách về tổ chức, thể chê' có liên quan đến con người từ các giác độ: kỹ
năng, bản lĩnh, kiến thức... Khi thay đổi phương thức quản lý ắt sẽ dẫn đến thay
đổi đối tượng, phạm vi, qui trình của quản lý. Vì thế việc từ bỏ cơ chế chủ quản
được chấp nhận và thực hiện, chắc chắn sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản trong rèn
luyện và thực hành chuyên môn, trong phong cách, lề lối thậm chí tính cách của
người công chức: thay lối làm việc kiểu quan liêu, quan hệ xin cho, sự trì trệ về
nghiệp vụ (vốn không phải sở trường và chức năng của người ở vị trí hoạch định


chính sách) bằng việc giúp cho các chính trị gia cho những người điều hành ở bên
trên trong hoạch định chính sách, tăng cường công tác và nghiệp vụ thanh tra.
Xét theo bản chất cố hữu nhà nước là công cụ giai cấp, mà còn giai cấp có
nghĩa là còn có người no kẻ đói. Vậy nên tham nhũng là căn bệnh của nhà nước
nói chung, không phải chỉ của nhà nước bóc lột. Nhà nước không có tham nhũng
hiện chỉ có trong lý luận và sách vở mà thôi. Nhưng xuất phát từ bản chất của nhà
nước và tính đại diện giai cấp của nó thì trong nhà nước của người lao động bệnh

tham nhũng phải là thói xấu và rất khó nảy sinh mới đúng về nguồn gốc và bản
chất, mới phải trong lẽ sống và văn hoá văn minh của chế độ. Tiếc thay thực trạng
hiện nay tham nhũng như một mặt trận mà ngày nào cũng có “ súng nổ”; ít nhất là
nổ trên báo chí và công luận, trong các hoạt động thanh tra, toà án kiểm tra kiểm
soát trong hệ thống điều hành. Vì vậy chống tham nhũng chắc chắn phải là một nội
dung quan trọng trong xây dựng thể chế rèn luyện con người của cải cách hành
chính hiện nay.
Lãng phí trong công vụ là một khái niệm có vẻ không “nguy hại” mấy
nhưng những số liệu khổng lồ về thất thoát, kém hiệu quả trong quản lý do lãng phí
cho thấy sự nguy hại của lãng phí ở chỗ nó góp phần làm nghèo đất nước, làm hư
cán bộ (coi thường công sản mà coi trọng của riêng; thiếu trách nhiệm trong hoạch
định chính sách trong hạch toán các công trình kế hoạch liên quan đến chi tiêu tài
sản công quĩ; tạo ra thói vô trách nhiệm, vô cảm trong tiêu xài hoang phí của
công...).
Vì vậy vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ công chức là một vấn đề then chốt
trong công cuộc cải cách hành chính nước ta hiện nay.
1.2 Cán bộ, công chức
1.2.1 Các khái niêm cơ bản1
11 TS. Thang Văn Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương, Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức, NXB Chính Trị Quốc Gia.


Khái niệm cán bộ
-Khái niệm cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta vào những năm 30 của
thế kỷ XX, để chỉ một lớp người, những chiến sĩ cách mạng đã hy sinh, gian khổ
đấu tranh giành độc lập dân tộc, và sau này, trong thời kỳ kháng chiến chống pháp,
được dùng phổ biến để chỉ tất cả những người thoát ly tham gia hoạt động kháng
chiến, để phân biệt với nhân dân. Theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là
tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, Đảng, đoàn thể,
quân đội; Dưới góc độ hành chính, cán bộ được coi là những người có mức lương

từ cán sự trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương thấp hơn cán sự. Hiện
nay, ở nước ta khái niệm cán bộ được dùng với nhiều nghĩa khác nhau:
Trong tổ chức Đảng và đoàn thể thường được dùng với hai nghĩa: một là, chỉ
những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến trung ương( cán
bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên, hôi viên; hai là, những
người làm công tác chuyên trách hưởng lương trong các tổ chức Đảng, đoàn thể.
Trong quân đội là những người giữ cương vị chỉ huy từ tiểu đội trưởng trở lên
( cán bộ tiểu đội, trung đội, đại đội, cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, . . .)
hoặc sĩ quan từ cấp úy trở lên. Trong bộ máy nhà nước, khái niệm cán bộ về cơ bản
được hiểu với nghĩa trùng với nghĩa trùng với khái niệm công chức, chỉ những
người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc ngạch hành chính, tư pháp, lập pháp,
kinh tế, văn hóa xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người có chức
vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo.
Khái niệm công chức.
Công chức là một khái niệm chung được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia
trên thế giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên
trong cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương.
Khái niệm công chức mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc vào tính
chất đặc thù của mỗi quốc gia cũng như từng từng giai đoạn lịch sử cụ thể của từng


nước. Do đó, trong thực tế rất khó có một khái niệm chung về công chức cho tất cả
các quốc gia. Ở Việt nam, khái niệm công chức được hình thành, phát triển và
ngày càng hoàn thiện gắn với sự phát triển của nền hành chính nhà nước. Điểm
khởi đầu của sự hình thành khái niệm công chức ở Việt nam là việc ban hành sắc
lệnh số 76/SL, ngày 20-5-1950 của chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hòa về
quy chế công chức. Theo quy chế này, phạm vi công chức là rất hẹp, chỉ những
người được tuyển dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính
phủ, tức là đội ngũ công chức hành chính nhà nước, theo cách nói hiện nay.
Sau đó, suốt một thời gian khá dài (từ đầu những năm 1960 đến cuối những

năm 1980), khái niệm công chức ít được sử dụng, thay vào đó là khái niệm cán bộ
công nhân viên chức nhà nước, không phân biệt công chức, viên chức với công
nhân. Khi thực hiện công cuộc đổi mới, trước những yêu cầu khách quan của tiến
trình cải cách nền hành chính nhà nước và đòi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước, thuật ngữ công chức được sử dụng trở lại. Nghị định 1
69/HĐBT ngày 25 -5 - 1 99 1 quy định như sau: "Công dân Việt nam được tuyển
dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước
ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay nước ngoài đã được xếp vào một
ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức".
Khái niệm trên đã nêu khá dầy đủ các dấu hiệu cơ bản về công chức trong
nền hành chính hiện đại, phù hợp với quan niệm chung của các quốc gia trên thế
giới. Đây là một bước chuyển quan trọng để tiến tới xây dựng chế độ công chức
trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên khi quy định những đối tượng là công chức và
không phải là công chức ( tại điều 2 của nghị định này) thì lại bộc lộ một số hạn
chế sau:
Một số đối tượng như cảnh sát, những người làm công tác nghiên cứu khoa
học, giáo viên, nhà báo, nghệ sĩ. . . chưa được xếp vào loại nào. Ở điều 2 của Nghị
định này đã qui định "tất cả những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhà


nước" là công chức nhà nước, nhưng trên thực tế không thể đồng nhất khái niệm
"cơ quan nhà nước" với "công sở nhà nước" vì không phải mọi cơ quan, tổ chức
nhà nước đều là công sở nhà nước ( ví dụ: Quốc hội là cơ quan nhà nước nhưng
không phải là công sở nhà nước).
Khái niệm viên chức. Theo nghị định 1 1 6/2003/NĐ-CP ngày 1 0- 1 0-2003,
Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong các đơn vị
sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, hưởng lương từ
ngân sách nhà nước và nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật. Như vậy,
Viên chức là những nhân viên làm việc trong các cơ quan y tế, giáo dục, khoa họccông nghệ, văn hóa thông tin, thể dục thể thao, . . . của Đảng, nhà nước và của các

đoàn thể nhân dân, các hội nghề nghiệp, mà lâu nay vẫn được gọi là công chức sự
nghiệp.
- Công chức dự bị. Theo pháp lệnh công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003 và
nghị định số 1 1 5/2003/NĐ-CP ngày 1 0- 10-2003 của chính phủ về chế độ công
chức dự bị, " công chức dự bị là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương
từ ngân sách nhà nước, được tuyển dụng để bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức
quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số
điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 29-4-2003"
Công chức dự bị được phân công làm việc có thời hạn tại các cơ quan, tổ
chức sau:
+ Văn phòng Quốc Hội; .
+ Văn phong Chủ tịch nước;
+ Toàn án nhân dân các cấp;
+ Viện kiểm soát nhân dân các cấp;
+ Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ;


+ Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ủy ban nhân dân quận, huyện, thành
phố thuộc tỉnh.
+ Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội. Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
1.2.2. Phân loại cán bộ, công chức.
a. Theo đặc thù và tính chất công việc
Theo cách phân loại này ta có thể dễ dàng hình dung được công việc của
từng loại cán bộ, công chức. Cách phân loại này rất tết cho việc quy hoạch công
chức, vì dễ dàng trong việc sắp xếp, tổ chức, đào tạo, và có thể đáp ứng yêu cầu
của từng loại công việc khác nhau. Có thể chia công chức hành chính nhà nước
thành các loại chính như sau:
- Công chức lãnh đạo. Đây là những công chức giữ những cương vị chỉ huy
trong điều hành công việc, họ là những người được quyền ra các quyết định quản

lý, tổ chức và điều hành những người dưới quyền thực hiện công việc
- Công chức chuyên gia. Họ là những người có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, có khả năng nghiên cứu, đề xuất những phương hướng, quan điểm và
thực thi công việc chuyên môn phức tạp.
Công chức thi hành công việc. Đây là những người thực thi công việc thi
hành công vụ, thừa hành công việc, nhân danh quyền lực của nhà nước. Họ không
có thẩm quyền ra quyết định như các cán bộ, công chức lãnh đạo, họ cũng được
trao những thẩm quyền nhất định trong phạm vi công tác của mình khi thực thi
công việc.
- Nhân viên hành chính. Họ là những người thừa hành nhiệm vụ do các công
chức lãnh đạo giao phó, phục vụ trong bộ máy nhà nước. Trình độ chuyên môn kỹ
thuật của nhân viên hành chính ở mức thấp, nên họ phải tuân thủ sự hướng dẫn, chỉ
bảo của cấp trên.
b. Theo trình độ đào tạo.


Đây là căn cứ cơ bản để xét mức lương, phân công sắp xếp các vị trí công
việc cho cán bộ, công chức. Theo điều 4 nghị định 1 17/2003/ NĐ-CP ngày
10/10/2003 của chính phủ, công chức được chia thành các loại A, B, C Công chức
loại A là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên
môn giáo dục đại học và sau đại học; công chức loại B là những người được bổ
nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục nghề nghiệp; công
chức loại C là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo
chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
c. Theo ngạch bậc.
Ngạch công chức dùng để chỉ trình độ, năng lực, khả năng chuyên môn và
ngành nghề của công chức. Mỗi ngạch thể hiện một trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và có những tiêu chuẩn riêng . Theo quyết định 414/TCCP ngày 29/5/1993 của
Bộ trưởng, trưởng ban Tổ chức-cán bộ chính phủ, công chức hành chính có 11
ngạch:

1 . Chuyên viên cao cấp
2. Chuyên viên chính
3 . Chuyên viên
4. Cán sự
5 . Kỹ thuật viên đánh máy
6. Nhân viên đánh máy
7 . Nhân viên kỹ thuật
8. Nhân viên văn th
9. Nhân viên phục vụ
1 0 . Lái xe cơ quan
1 1 Nhân viên bảo vệ
1.3 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức


1.3.1 Vị trí vai trò của cán bộ, công chức.
a. Vị trí.
V I Lênin đã từng viết: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra trong hàng ngũ của mình những
người lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh
đạo phong trào". Như vậy, cán bộ là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công
hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Cán bộ là những người đại diện cho nhân
dân hay một nhóm người có cùng lợi ích, họ có khả năng tổ chức, lãnh đạo, thống
nhất các ý kiến và giải quyết các mục tiêu chung của người dân. Họ là những
người tiên phong đi đầu để khơi dậy sức mạnh của mỗi cá nhân tổng hợp thành sức
mạnh to lớn của một tập thể.
Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với cán bộ, công chức là mối
quan hệ nhân quả. Đờng lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai đoạn,
trong từng thời kỳ do những cán bộ, công chức đề ra và cũng là những người chỉ
đạo để thực thi những đường lối và nhiệm vụ đó, do vậy chỉ có đội ngũ cán bộ,

công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực mới có thể đề ra được đường lối đúng,
mới có thể cụ thể hóa, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối và thực hiện tốt đường lối.
Không có đội ngũ cán bộ, công chức vững mạnh thì cho dù đường lối và nhiệm vụ
chính trị đúng đắn đến đâu cũng khó có thể trở thành hiện thực.
Cán bộ, công chức là cầu nối giữa Đảng, chính phủ và quần chúng nhân dân.
Họ là những người mang các chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước tuyên
truyền và giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành. Do Việt Nam vẫn là một
quốc gia nghèo, nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, nông dân lạc hậu,
trình độ học vấn chưa cao, dẫn đến sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật còn
rất thấp, vai trò của người cán bộ, công chức lúc này là hết sức quan trọng. Không
chỉ đơn thuần là truyền đạt những đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước,
cán bộ, công chức còn là hệ thống phản hồi thông tin, nắm bắt tình hình triển khai


thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước,
những yêu cầu, kiến nghị của nhân dân, phản ánh lại cho Đảng và nhà nước để có
thể điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp với tình hình thực tế.
b. Vai trò (thể hiện qua 4 mối quan hệ).
- Quan hệ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
- Quan hệ với bộ máy(các cơ quan tổ chức lãnh đạo quản lý).
- Với công việc. . .
- Với quần chúng nhân dân.
1.3.2 Sự cần thiết phải xây dựng, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức.
Vai trò của nhà nước có sự thay đổi căn bản trong điều kiện chuyển đổi nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước phải được chuyển đổi cho phù hợp
với những thay đổi của nền kinh tế - xã hội. Cần phải tách công việc hành chính
nhà nước với phục vụ, cung cấp dịch vụ cho xã hội; tách chức năng hoạch định
chính sách với tổ chức thực thi cụ thể; tách quản lý hành chính nhà nước với sản
xuất, kinh doanh; tách hành chính với sự nghiệp dịch vụ. Nhà nước cần tập trung

sức vào các hoạt động công cộng cốt lõi, có tầm quan trọng then chết đối với sự
phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động .
- Sự phân cấp, phân quyền trong quá trình quản lý là một điều không thể
thiếu khi quản lý một tổ chức. Nhà nước là một tổ chức lớn, có rất nhiều mảng
công việc, để thực hiện những công việc này thì nhất thiết chia ra cho các tổ chức,
cá nhân đảm nhiệm. Nhà nước sẽ chuyển giao một số cho các cơ quan hành chính
địa phương và các tổ chức xã hội dưới các hình thức da dạng như ủy quyền, phân
cấp, xã hội hóa, . . . Sự phân cấp và ủy quyền này sẽ làm quá trình thực hiện các
công việc nhanh hơn, tránh được hiện tượng trùng lặp, chồng chéo công việc.
- Sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ của nhà nước nói chung, phân công, phân
cấp quản lý của nền hành chính nói riêng đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có những


thay đổi tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có đủ trình độ, năng
lực, phẩm chất cũng như thẩm quyền để thực thi việc quản lý hành chính nhà nước.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ảnh hưởng đến hệ thống kỹ thuật trong tổ
chức hành chính cần phải hiện đại hóa tổ chức hành chính, hoàn thiện cơ cấu pháp
lý, cải cách bộ máy hành chính, phát triển đội ngũ cán bộ. Với sự phát triển mạnh
mẽ của lĩnh vực công nghệ thông tin và đặc biệt là những ứng dụng trong công tác
quản lý, với sự ra đời của chính phủ điện tử đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức ngày
càng phải được hoàn thiện nâng cao hơn nữa về chất lượng, có như vậy mới đáp ứng
được các yêu cầu mới trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước đang trở thành một bộ phận
quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, với bốn nội dung quan trọng. Thứ
nhất phải đổi mới cơ chế về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệuquả thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cơ chế và thủ tục hành
chính, tập trung trước hết vào xóa bỏ những quy định mang nặng tính hành chính
quan liêu, bao cấp, gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp và nhân dân, kìm hãm
sự phát triển lực lượng sản xuất. Xây dựng và thực hiện chơng trình đổi mới thể
chế trong từng năm. Bảo đảm các văn bản pháp quy có nội dung đúng đắn, nhất

quán, khả thi. Chỉ đạo sát từ khâu soạn thảo, thông qua đến phổ biến, thực hiện và
tổng kết.
Đổi mới phương thức và quy trình xây dựng thể chế, cải tiến sự phối hợp
giữa các ngành, các cấp có liên quan, coi trọng sử dụng các chuyên gia liên ngành
và dành vai trò rất quan trọng cho tiếng nói của nhân dân, của doanh nghiệp. Đặc
biệt tăng cường việc chỉ đạo, kiểm tra, nâng cao kỷ luật và hiệu lực thi hành pháp
luật trong bộ máy nhà nước và trong xã hội. Thứ hai, phải kiện toàn tổ chức bộ
máy nhà nước trên cơ sở tách chức năng quản lý nhà nước với hoạt động kinh
doanh, xúc tiến việc đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động và quy chế làm việc
của các cơ quan nhà nước. Thực hiện mạnh mẽ việc phân cấp trong hệ thống hành


chính đi đôi với nâng cao tính tập trung, thống nhất trong việc ban hành thể chế.
Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp, từng tổ chức, từng cá nhân.
Đề cao trách nhiệm cá nhân, khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Khắc phục
tình trạng trùng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ trong công
việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của tòa hành chính trong
việc giải quyết khiếu kiện hành chính. Tách cơ quan hành chính công quyền với tổ
chức sự nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận
mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực
hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng như vệ sinh môi trường,
tham gia giữ gìn trật tự trị an xóm, phường . . .
Xúc tiến nhanh và có hiệu quả việc hiện đại hóa công tác hành chính, dặc
biệt là ứng dụng công nghệ thông tin. Kiện toàn bộ máy và tinh giản biên chế một
cách cơ bản. Có chính sách giải quyết thỏa đáng số người dôi ra.
Thứ ba, Nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy
mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chơng trình, nội dung sát hợp; chú
trọng đội ngũ cán bộ xã, phường. Đổi mới và đa vào nền nếp việc thực hiện quy
chế tuyển chọn, đề bạt, khen thởng, kỷ luật, nghỉ hưu.
Thực hiện nguyên tắc người phụ trách công việc có quyền hạn và trách

nhiệm trong việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ, công chức dưới quyền. Thanh lọc
những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm; chuyển đổi công tác những người không đủ
năng lực.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, bảođảm
cho dân tiếp xúc dễ dàng các cơ quan công quyền, có điều kiện kiểm tra cán bộ,
công chức, nhất là những người trực tiếp làm việc với dân.Thứ tư, ngăn chặn và
đẩy lùi tham nhũng, quan liêu. Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng
phải bị xử lý về trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu tranh chống tham


nhũng; khen thởng người phát hiện đúng những vụ tham nhũng. Thực hiện các
biện pháp ngăn chặn tham nhũng, quan liêu:
+ Đổi mới và hoàn thiện thể chế, thủ tục hành chính, kiên quyết chống tệ
cửa quyền, sách nhiễu, “xin - cho" và sự lắc trách, vô kỷ luật trong công việc Thực
hiện nghiêm những điều cấm đối với cán bộ, công chức đã quy định trong pháp
luật.
+ Tăng cường quản lý, kiểm tra, ngăn chặn lãng phí, tham nhũng tiền và tài
sản công, nhất là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
+ Thực hiện quy chế dân chủ và công khai tài chính ở cơ sở và các cấp
chính quyền; thực hiện chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ lãnh đạo các cấp, các
ngành. Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân và phương tiện thông tin đại
chúng.
+ Cải cách tiền lương đi đôi với tăng cường giáo dục và kiểm tra việc thực
hiện công vụ của cán bộ, công chức
Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ công
chức hành chính là một nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính nhà nước.
Việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ công chức không chỉ nhằm đáp ứng yêu
cầu, đòi hỏi bức xúc nội tại của nguồn nhân lực nhà nước, mà còn là nhân tố có
tính quyết định trong việc thực hiện chương trình tổng thể cải cách nền hành chính

nhà nước. Các mục tiêu, phương hướng, giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ cán
bộ, công chức, cũng như các kết quả đạt được phải đảm bảo tính đồng bộ và phù
hợp với mục tiêu chung của cải cách nền hành chính, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới của đất nước. Đất nước ta đã thoát khỏi chiến tranh hơn 30 năm, nhưng các
thế lực thù địch, chống phá vẫn còn rất nhiều, chúng vẫn đang thực hiện âm mưu
"diễn biến hòa bình" nhằm thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, làm tha hóa, biến
chất đội ngũ cán bộ, từ đó thực hiện mưu đồ chuyển hóa chính trị, xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng muốn lợi dụng sự đổi mới, sự chuyển tiếp giữa các


thế hệ cán bộ của ta, thông qua các quan hệ kinh tế, văn hóa, ngoại giao,.. để làm
đội ngũ cán bộ của ta "tự diễn biến" đi lệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Trong
bối cảnh đó đòi hỏi cán phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững
mạnh, có tinh thần yêu nước, sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
1.3.3 Những khó khăn và thách thức.
- Những vấn đề có tính lý luận trong việc tổ chức bộ máy nhà nước và xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa được làm rõ.
- Tình trạng thấp kém của nền kinh tế và ngân sách nhà nước còn rất hạn
hẹp. Đây là thách thức lớn nhất của đối với việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán
bộ, công chức hiện nay.Tình trạng kém phát triển kinh tế của đất nước là nguồn
gốc và là cơ sở cho việc duy trì tình trạng bảo thủ, trì trệ, kém năng động, thiếu
tinh thần hợp tác trong công việc, chính những điều đó là những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng, quản lý, phát triển và nâng cao chất lượng cán
bộ, công chức. Trình độ thấp kém về năng xuất lao động xã hội và chậm phát triển
của nền kinh tế không cho phép có một ngân sách, tài chính dồi dào để có thể thực
hiện triệt để các biện pháp như: tăng mức tiền lương để có thể đáp ứng được những
nhu cầu cơ bản, giảm biên chế, đào tạo lại, tuyển mới để nhanh chóng đổi mới đội
ngũ cán bộ, công chức, cũng như thực hiện các chế độ đãi ngộ thỏa đáng hay việc
dùng các biện pháp kinh tế để khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ,
tận tâm với công việc và thu hút nhân tài trong xã hội cho nền công vụ.

Điều 8 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy
định: " Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân,
tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi
biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền". Điều 2 pháp lệnh cán bộ công chức sửa
đổi bổ sung năm 2003 quy định: " Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân,


chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức,
học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tết nhiệm vụ, công vụ
được giao". Trong khi đó Cán bộ, công chức không được hưởng bất cứ một đặc
quyền, đặc lợi nào. Để tạo điều kiện tết nhất cho cán bộ làm việc và cống hiến,
chúng ta thường có những chính sách ưu đãi nhất định với cán bộ, song những
chính sách này phần lớn do những người đứng đầu cơ quan, đơn vị hay đội ngũ cán
bộ chủ chốt đề ra, cho nên trong thực tế chính sách
đối với cán bộ thường bị lợi dụng để biến cán bộ từ " công bộc", “đầy tớ” trung
thành của nhân dân trở thành "ông chủ” của nhân dân, thành những người được
hưởng những đặc quyền, đặc lợi hợp pháp. Vì vậy nhiều người mơ ước được làm
cán bộ, công chức không phải để công hiến mà vì lợi ích cá nhân. Hơn nữa, nền
kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh
tế quốc tế, những yếu tố mới của thị trường đang hình thành và biến đổi nhanh
chóng, đòi hỏi người cán bộ, công chức phải thích ứng được. Đây là đòi hỏi không
dễ có thể thỏa mãn được, nhất là trong điều kiện vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư của tư
tưởng cũ thời kỳ bao cấp.
- Sự thách thức do chuyển đổi cơ chế, sự tồn tại dai dẳng những thói quen
của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những thói quen đó đã ăn sâu vào nếp
nghĩ, phong cách làm việc của cán bộ, công chức, nhất là những bộ phận công
chức có lợi ích gắn liền với cơ chế đó, từ đó làm cho nền hành chính nói chung và
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng khó thoát ra khỏi sự chi phối,
ràng buộc của cơ chế cũ để phù hợp với cơ chế mới, đáp ứng được các yêu cáu của

thời kỳ mới. Hơn nữa, chúng ta tiến hành cải cách hành chính, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý, chưa có
tiền lệ trong quản lý phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
nhiều việc vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Đó là một thách thức lớn trong
việc xây dựng và nâng cao chất lượng cán bộ công chức trong điều kiện hiện nay.


Sự cạnh tranh thu hút nhân tài của các khu vực kinh tế tư nhân và các công
ty nước ngoài. Sự kiện ngày 7/1 1/2006 Việt Nam được gia nhập vào tổ chức thương mại quốc tế WTO, Sự kiện Việt Nam là nơi tổ chức cuộc họp của diễn đàn
hợp tác kinh tế Châu á thái bình dương APEC từ ngày 13 đến 19/1 1/2006 và sự
kiện tập đoàn Intel nâng vốn đầu tư vào nhà máy sản xuất Chíp máy tính tại khu
công nghiệp kỹ thuật cao thành phố Hồ Chí Minh lên 1 tỷ USD. Với những sự kiện
tiêu biểu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam năm 2006 đã cho
thấy Việt Nam là một điểm đến của các nhà đầu tư trong tương lai. Khi đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam được mở rộng thì số người làm việc trong các dự án, các
cơ sở liên doanh, hoặc các xí nghiệp nước ngoài tăng lên đã tạo ra một đội ngũ làm
công ăn lương mới có trình độ, phong cách mới và có điều kiện, mức thu nhập cao
hơn nhiều so với khu vực hành chính. Năm 1999 nhà nước đã quy định mức lương
tối thiểu từ 487.000 đồng/tháng đến 626.000 đồng/tháng áp dụng đối với các doanh
nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài, trong khi mức lương tối thiểu chung
là 180.000 đồng/tháng và sau đó tăng lên 210.000 đồng/tháng rồi 290.000
đồng/tháng, từ tháng 10/2005 là 350.000 đồng/tháng 2. Trên thực tế, những chuyên
gia, người lao động có trình độ cao làm việc trong các khu vực tư nhân và các khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức thu nhập cao hơn nhiều so với cán bộ, công
chức nhà nước. Từ chênh lệch về thu nhập, dẫn đến tình trạng " Chảy máu chất
xám" của nguồn nhân lực khu vực nhà nước.
1.3.4 Những yêu cầu về chất lượng cán bộ, công chức trong công cuộc
cải cách hành chính ở Việt Nam
a. Các đặc trưng cơ bản của cán bộ, công chức Việt nam.
Cán bộ, công chức là chủ thể của nền công vụ, lao động của họ là một dạng của lao

động quyền lực, lao động thực thi pháp luật. Họ có quyền giải quyết mọi công việc
22Nguồn : ngày 26/9/2005


theo đúng cương vị, quyền hạn theo luật định, đồng thời có nghĩa vụ thực thi mọi
nhiệm vụ theo đúng chức trách được giao trong cơ quan, tổ chức nhà nước nhất
định. Xét dưới góc độ xã hội -chính trị, người cán bộ, công chức nhà nước có vai
trò to lớn trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Còn xét dưới góc độ xã hội - dân sự thì người
cán bộ, công chức đảm nhận vai trò lao động sáng tạo trong một lĩnh vực lao động
đặcthù là lao động quyền lực, khác với lao động sản xuất, kinh doanh và các dạng
lao động xã hội khác, sản phẩm lao động của họ là các quyết định quản lý, các đạo
luật, các bản án, . . .Quyền lực của nhà nước suy cho cùng cũng là quyền lực của
nhân dân, vì quyền lực ấy do nhân dân tạo ra, nhân
dân là nguồn cội của quyền lực nhà nước. Song bản chất nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đòi hỏi rất cao ở sự thống nhất giữa hai
phương diện ấy, cho nên người cán bộ, công chức nhà nước là " công bộc" của dân
chứ không phải là "quan dân", "quan cách mạng" như chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật trở thành sức mạnh quyền lực,
pháp luật ngự trị trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Cán bộ, công chức là những
người thực thi pháp luật, thực thi quyền lực của nhà nước do vậy họ phải là những
người tinh thông, am hiểu pháp luật, thực hiện đúng pháp luật. Đồng thời qua quá
trình thực tiễn thực thi pháp luật, chính họ là người sáng tạo pháp luật, là lực lượng
tham muư đề xuất ý kiến để tạo nên một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh của nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà
nước, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Nhân dân là
cái gốc của một xã hội, nhà nước ra đời để phục vụ cho lợi ích của một giai
cấp( hoặc một nhóm người có chung lợi ích), nhưng để tồn tại được thì nhà nước

đó phải hài hòa lợi ích của mọi người dân, tức là phục vụ nhân dân. Vai trò to lớn


của nhân dân đã được bác Hồ khẳng định rất rõ qua câu nói của người: "dễ trăm
lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Cán bộ, công chức là
những người được dân giao quyền để thực thi công vụ, họ được hởng lơng từ ngân
sách nhà nước, mà ngân sách nhà nước chính là do nhân dân đóng góp, vì vậy về
mặtđạo lý và cả pháp lý phải có bổn phận phục vụ nhân dân, phải là công bộc của
dân.
- Cán bộ, công chức phải có đầy đủ chuẩn mực đạo đức của một nền công vụ chính
qui hiện đại. Để thực hiện và hoàn thành tết công việc của mình và để thực sự trở
thành công bộc của dân, cán bộ, công chức, ngoài tài năng và trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cần phải có đầy đủ các chuẩn mực đạo đức " cần kiệm, liêm chính, chí
công vô tư”. - Trung thành với Đảng, chính phủ, với tổ quốc và nhân dân. Trong
bối cảnh mới của nền kinh tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, Chính phủ, Tổ quốc và nhân dân, phải
có kiến thức và năng lực thực tiễn quản lý kinh tế xã hội, có phẩm chất đạo đức và
lối sống lành mạnh, tận tụy, tận trí phục vụ sự nghiệp
chung của đất nước.
Cán bộ, công chức là nòng cốt, tiên phong trong việc bảo vệ kỷ cương phép
nước và các quyền tự do, quyền con người. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền là
đặt con người vào vị trí trung tâm, là mục tiêu, là giá trị cao nhất, vì thế đòi hỏi đội
ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ phải đề cao trách nhiệm pháp lý
trong bảo vệ quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân, không được vi phạm
đến tự do và bất cứ quyền lợi và lợi ích hợp pháp nào của công dân; phải tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của nhân dân, không được quan liêu, cửa quyền và vô trách
nhiệm.
- Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng đi đầu trong đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác của bộ máy nhà nước.Với địa vị
pháp lý và bổn phận của mình, đội ngũ cán bộ, công chức phải gương mẫu trong



công cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và các tiêu cực khác trong bộ
máy nhà nước. Nếu đội ngũ cán bộ, công chức không phải là lực lượng tiên phong
trong cuộc đấu tranh này thì khó có thể có được bộ máy nhà nước trong sạch và
vững mạnh.
b. Yêu cầu về chất lượng của cán bộ, công chức Việt nam trong thời
kỳ mới.
- Yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức. Yêu cầu về phẩm chất chính trị là
yêu cầu cơ bản của người cán bộ, công chức. Đó là sự trung thành và bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu và con đường mà Đảng đã lựa chọn.
Yêu cầu về phẩm chất chính trị còn được thể hiện qua sự gương mẫu, lòng nhiệt
tình, tận tụy có tinh thần và ý thức trách nhiệm cao với công việc, tận tâm và tận trí
phục vụ nhân dân. Đạo đức của người cán bộ, công chức được thể hiện ở ý thức,
niềm tin vào định hướng xã hội chủ nghĩa, biết tôn trọng, giữ gìn kỷ luật, kỷ c ương, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có lối sống lành mạnh, không
tham ô, lãng phí và có trách nhiệm cao trong thực thi công vụ, có lòng nhân ái, vị
tha, biết cách cư xử đúng đắn trong các mối quan hệ. Đó là những phẩm chất đạo
đức cá nhân không thể thiếu ở mỗi người cán bộ, công chức. Bên cạnh những
phẩm chất đạo đức cá nhân người cán bộ, công chức còn phải có đạo đức nghề
nghiệp, đó là ý thức và trách nhiệm pháp lý đối với nghề nghiệp mà họ theo đuổi.
Đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ, công chức được thể hiện ở tinh thần trách
nhiệm và đề cao kỷ luật trong thi hành công vụ. Đó là ý thức luôn cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ được giao, kể cả khi gặp khó khăn, bất lợi. Đạo đức nghề nghiệp
đòi hỏi những người cán bộ, công chức không những phải biết tiết kiệm cho mình,
mà quan trọng hơn nữa là phải biết tiết kiệm cho nhà nước, cho nhân dân, có nh
vậy mới hạn chế và chống được bệnh lãng phí thường xảy ra trong các cơ quan nhà
nước. Đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ, công chức còn thể hiện ở sự ngay
thẳng, công bằng trong thực thi công vụ theo pháp luật. Phải có những con người



ngay thẳng trong bộ máy nhà nước, giám nói ra những điều sai trái, phê bình thẳng
thắn những cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm, vạch trần bộ mặt thật của những cá
nhân thoái hóa biến chất để nhà nước và xã hội xử lý, có như vậy công cuộc cải
cách hành chính mới đạt được hiệu quả, bộ máy nhà nước mới trong sạch và gọn
nhẹ.
- Yêu cầu về văn hóa. Văn hóa là cơ sở để hình thành tác phong, phong cách
và lối sống của con người, là nền tảng tạo nên phẩm chất, cốt cách của người cán
bộ, công chức. Vai trò của văn hóa ngày càng được coi trọng không chỉ trong đời
sống xã hội. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay văn hóa được coi nh một giá trị
nội sinh, nó làm cho giá trị kinh tế tăng lên. Văn hóa doanh nghiệp mạnh sẽ làm
cho thơng hiệu và uy tín của doanh nghiệp tăng lên từ đó nâng cao sức cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thương trường. Ngày nay người tiêu dùng khi mua một sản
phẩm họ không chỉ coi trọng chất lượng sản phẩm mà họ còn quan tâm đến bao bì
của sản phẩm, chất lượng và dịch vụ của nhà cung c.ấp sản phẩm. Các giá trị đó
chính là văn hóa của doanh nghiệp, ai thực hiện được các yêu cầu đó một cách tốt
nhất thì người đó sẽ dành chiến thắng trên thị trường. Yêu cầu về văn hóa đòi hỏi
người cán bộ, công chức phải có kiến thức liên ngành cần thiết, có kiến thức sâu
rộng về các vấn đề kinh tế chính trị, có hiểu biết sâu sắc về lịch sử và truyền thống
văn hóa của dân tộc để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Yêu cầu về trí tuệ. Ngày nay với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế đời
sống con người trong xã hội được cải thiện và đặc biệt mặt bằng dân trí được tăng
lên cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đòi hỏi người cán bộ,
công chức phải có trình độ kiến thức và năng lực tư duy khoa học sáng tạo.
Trong một số ngành, lĩnh vực và đối với ngạch chuyên viên trở lên thì trình
độ đại học là bắt buộc và tối thiểu. Một số ngành và lĩnh vực khác phải là trên đại
học. Yêu cầu trí tuệ hóa đội ngũ cán bộ, công chức buộc người cán bộ, công chức
phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ kiến thức và năng lực trí tuệ của


mình, đồng thời nhà nước cần phải có chính sách, chế độ và tạo điều kiện để cán

bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng và bổ xung kiến thức để phục vụ công tác
thực thi đạt hiệu quả cao nhất.
- Cán bộ, công chức phải có ý thức pháp luật, am hiểu, tôn trọng luật pháp
và thông lệ quốc tế. ý thức pháp luật của cán bộ, công chức có những đặc thù so
với ý thức pháp luật của các đối tượng khác trong xã hội, thể hiện ở chỗ ý thức
pháp luật của cán bộ, công chức trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng và
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, áp dụng
pháp luật, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật ý thức pháp luật của cán bộ, công
chức ảnh hởng đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đời sống
nhà nước, xã hội và công dân. Hành vi của cán bộ, công chức có thể làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt một hay nhiều quan hệ pháp luật, có thể mang lại lợi ích
hoặc thiệt hại về vật chất, tinh thần cho các đối tượng khác trong hoặc ngoài cơ
quan hành chính nhà nước; nó có thể làm phát sinh, chi phối tư tưởng, tình cảm
pháp luật và cả hành vi pháp luật của rất nhiều đối tượng trong xã hội.
Vì vậy mỗi cán bộ đều phải am hiểu về pháp luật và biết áp dụng pháp luật
vào hoạt động công vụ để giải quyết các vấn đề thuộc chức trách, nhiệm vụ của
mình. Nếu cán bộ, công chức có trình độ hiểu biết pháp luật toàn diện, sâu sắc có
thái độ tôn trọng pháp luật, có hành vi tích cực chấp hành pháp luật thì hiệu quả
hoạt động sẽ cao. Ngược lại, nếu ý thức pháp luật kém, nhiều cán bộ, công chức có
hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ có tác động rất xấu, thậm chí không thể duy trì trật
tự, kỷ cương trong Nhà nước và xã hội.
Vì lẽ đó vấn đề hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhóm
này có ý nghĩa rất quan trọng. Một thực tế đang diễn ra trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta đó là vấn đề am hiểu về luật pháp quốc tế của các
doanh nghiệp cũng như cán bộ, công chức còn rất hạn chế, đây là một cản trở lớn
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, điển hình là các vụ kiện bán phá giá tôm


và cá Ba sa vào thị trường Mỹ, giầy da ở thị trường ấn Độ cà phê ờ thị trường
Brazil . . . Để có thể hội nhập với thế giới và không bị thiệt thòi đòi hỏi đội ngũ cán

bộ, công chức phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề này để có định
hướng và giải pháp để nâng cao sự hiểu biết về pháp luật và thông lệ quốc tế để
đáp ứng được các điều kiện và yêu cầu mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
- Yêu cầu về chuyên môn hóa hiện đại hóa cán bô, công chức Ngoài những
đặc điểm cơ bản trên đối với từng nhóm, từng bộ phận cán bộ, công chức lại có
những yêu cầu đặc biệt, cụ thể riêng.


×