Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

bài tập nhóm luật hình sự 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.78 KB, 12 trang )

Bài 3
Sau khi đi uống rượu với mấy người bạn, trên đường về nhà, đến đoạn
đường qua một nghĩa trang, A gặp chị H là công nhân xí nghiệp giầy da đi làm
về một mình bằng xe đạp. A nảy sinh ý định hiếp dâm chị H. A chặn xe chị H
và nhanh chóng kéo ngã chị H xuống đất để thực hiện hành vi giao cấu. Chị H
chống cự lại thì bị A bóp cổ và đe dọa: “Im mồm, còn kêu nữa tao giết chết”.
Sau khi kết thúc hành vi giao cấu, chị H vội vã lấy chiếc xe đạp của định bỏ
chạy thì A quá: “Để chiếc xe đạp lại cho tao”. A đem chiếc xe đạp đi bán được
1.500.000 đồng.
Hỏi:
1. Hãy định tội danh cho A. (3 điểm)
2. Giả sử sau khi kéo ngã chị H xuống đất, chị H nói mình bị nhiễm HIV nên A
đã bỏ đi. Hành vi của A có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
không? Tại sao? (3 điểm)
3. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành vật chất hay hình thức? Tại sao? (1 điểm)


BÀI LÀM
1. Hãy định tội danh cho A.

A phạm tội hiếp dâm theo điều 111 BLHS và tội cướp tài sản theo điều 133
BLHS
Hành vi phạm tội của A đã thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm điều
111 BLHS và tội cướp tài sản điều 133 BLHS.
 Tội hiếp dâm điều 111 BLHS

Tội hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân
trái ý muốn của họ



Khách thể: xâm phạm quan hệ nhân thân, cụ thể là tính mạng, sức khỏe,
danh dự nhân phẩm của con người



Chủ thế: Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt. người
thực hiện hành vi phạm tội của tội này chỉ có thể là nam giới. Nữ giới chỉ có
thể tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người xúi giục,
giúp sức hay tổ chức. Như vậy trong vụ án này chủ thể thực hiện hành vi
này là A là nam giới thỏa mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm.



Mặt khách quan: hành vi khách quan của tội này là hành vi giao cấu với
người phụ nữ trái với ý muốn của họ bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được hoặc bằng thủ đoạn
khác.

Cấu thành tội phạm tội hiếp dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao
cấu với nạn nhân. Nhưng không đòi hỏi hành vi giao cấu phải đã kết thúc về mặt
sinh lý. Hành vi giao cấu là trái với ý muốn của người phụ nữ: Người phụ nữ
không chấp nhận sự giao cấu hoặc hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của
người phụ nữ, vì họ đang trong tình trạng không thể biểu lộ ý chí được. Hành vi


giao cấu với người phụ nữ trái ý muốn của họ được thực hiện với nhiều thủ đoạn
khác nhau như:
-


Thủ đoạn dùng vũ lực tức là dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của
nạn nhân chống lại việc giao cấu như xô ngã, vật, giữ, bóp cổ nạn nhân….

-

Thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực là thủ đoạn làm ý chí của người phụ nữ bị tê
liệt, buộc họ phải chịu sự giao cấu mà không dám kháng cự như dọa giết,
dọa gây thương tích cho nạn nhân…

-

Thủ đoạn lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của người phụ nữ là thủ
đoạn lợi dụng người phụ nữ vì lý do nào đó không thể chống lại được hành
vi giao cấu trái với ý muốn của mình như lợi dụng người phụ nữ đang trong
tình trạng ốm đau…

-

Thủ đoạn khác là những thủ đoạn (ngoài ba thủ đoạn trên) giúp cho người
phạm tội có thể thực hiện được việc giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn
của họ.

Cụ thể trong trường hợp này, A đã có hành vi dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ
lực để đè bẹp sự kháng cự của chị H nhằm thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn
với chị H. A biết nghĩa trang là nơi vắng vẻ ít người qua lại, lợi dụng đêm tối, A đã
có hành vi dùng vũ lực đối với chị H đó là: chặn xe chị H và nhanh chóng kéo ngã
chị H xuống đất để thực hiện hành vi giao cấu và hành vi đe dọa dùng vũ lực khi
chị H chống cự lại thì bị A bóp cổ và đe dọa: “Im mồm, còn kêu nữa tao giết
chết”.



Mặt chủ quan: lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành
vi giao cấu của mình là trái ý muốn của người phụ nữ nhưng vẫn mong
muốn thực hiện hành vi đó bằng một trong những thủ đoạn như thủ đoạn
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, thủ đoạn lợi dụng tình trạng không thể tự
vệ được của người phụ nữ hoặc thủ đoạn khác giúp cho người phạm tội có
thể thực hiện được việc giao cấu. Cụ thể trong trường hợp này, A với lỗi cố


ý trực tiếp, biết hành vi của mình là giao cấu trái ý muốn của chị H nhưng
vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó bằng thủ đoạn dùng vũ lực và đe dọa
dùng vũ lực.
Như vậy hành vi phạm tội của A thỏa mãn các dấu hiệu của tội hiếp dâm quy định
tại điều 111 BLHS. Vậy A phạm tội hiếp dâm theo khoản 1 Điều 111 BLHS
 Tội cướp tài sản điều 133 BLHS

Tội cướp tài sản là “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được nhằm chiếm đoạt tài sản…”.


Khách thể: hành vi cướp tài sản xâm hại đồng thời hai quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự bảo vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Bằng
hành vi phạm tội của mình, người phạm tội cướp tài sản xâm phạm trước hết
đên thân thể, đến tự do của con người để qua đó có thể xâm phạm được sở
hữu. Sự xâm hại một trong hai quan hệ xã hội này đều chưa thể hiện được
hết bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cướp. Do vậy cả hai quan hệ
xã hội bị xâm hại đều được coi là khách thể trực tiếp của tội cướp tài sản.

Trong tình huống này, trước khi xâm hại quan hệ sở hữu đó là chiếm đoạt chiếc

xe đạp, A đã có hành vi dùng vũ lực giao cấu trái ý muốn với chị H, sau đó nhân
lúc chị H đang trong tình trạng bị hoảng loạn, sợ hãi thì A đã dùng lời nói của
mình để đè bẹp sự kháng cự của chị H nhằm chiếm đoạt tài sản và hậu quả là A đã
chiếm được chiếc xe đạp của chị H và bán được với giá là 1 triệu 500 ngàn đồng.


Chủ thể: A thỏa mãn dấu hiệu chủ thể thường của tội cướp tài sản đó là có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.



Mặt khách quan: theo quy định của điều luật có 3 dạng hành vi khách quan
được coi là hành vi phạm tội của tội cướp tài sản. Đó là:

-

Hành vi dùng vũ lực.

-

Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc.


-

Hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được.

Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng hành vi hoặc lời nói
hoặc hành động nhằm đe dọa người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ lực sẽ được

thực hiện ngay
Ở đây A đã dùng lời nói của mình dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống
cự lại việc chiếm đoạt. Mặc dù lời nói của A chỉ là: “Để xe đạp lại cho tao” nhưng
A nói sau khi đã dùng thủ đoạn hiếp dâm chị H tức nghĩa là trong khi chị H đang
có tinh thần hoảng loạn, sợ hãi chính vì vậy mà không có khả năng chống cự lại
việc bị A chiếm đoạt. Ở đây A đã khống chế được ý chí của chị H.
Dấu hiệu “ngay tức khắc” có ý nghĩa quan trọng để phân biệt hành vi đe dọa dùng
vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Dấu hiệu này vừa dùng để chỉ sự nhanh chóng về
mặt thời gian (sẽ xảy ra ngay lập tức) và vừa dùng để chỉ sự mãnh liệt của hành vi
đe dọa vì “ngay tức khắc” là ngay lập tức, không chần chừ với tính chất mãnh liệt
làm cho người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay, họ không hoặc khó có
điều kiện tránh khỏi. Sự đe dọa đã làm ý chí của người bị đe dọa tê liệt.
Trong trường hợp này, dấu hiệu “ngay tức khắc” được thể hiện ở hành vi A sau khi
hiếp dâm chị H xong đã quay ra quát chị H phải để chiếc xe đạp lại, dù trong lời
nói đó không có dấu hiệu của việc đe dọa nhưng nó được đặt trong tình huống H
vừa bị A hiếp dâm, tức nghĩa là chị H sẽ không khó hoặc ngầm hiểu rằng, chỉ cần
chị có ý định chống cự lại hành vi chiếm đoạt của A thì hậu quả chắc chắn sẽ xảy
ra ngay lập tức như trước đó, chỉ cần chị H chống cự lại hành vi hiếp dâm của A
thì A sẽ giết chết chị H. Như vậy, sự đe dọa của A cùng với hành vi đồi bại của A
trước đó đã làm tê liệt ý chí chống cự lại của chị H.


Mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi
thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội biết mình có hành vi dùng vũ lực
hoặc biết mình có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc biết mình


có hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được. Người phạm tội mong muốn hành vi đó đè bẹp hoặc làm tê liệt được
sự chống cự của người bị tấn công, để có thể thực hiện được mục đích chiếm

đoạt tài sản.
Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội cướp tài
sản. Việc thực hiện những hành vi khách quan chỉ trở thành tội của tội cướp tài sản
nếu việc thực hiện những hành vi đó nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
Trong tình huống này A đã biết bản thân khi thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc sẽ làm cho chị H lâm vào tình trạng không thể chống cự được và A
mong muốn hành vi đó đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của H để thực hiện
được mục đích chiếm đoạt chiếc xe đạp.
Sau khi cướp được chiếc xe đạp của chị H, A đem chiếc xe đạp đi bán được
1.500.000 đồng. Hành vi phạm tội của A thỏa mãn khoản 1 Điều 133 BLHS, vậy A
sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 133 BLHS
Như vậy trong vụ án này A phạm tội hiếp dâm theo điều 111 BLHS và tội cướp
tài sản theo điều 133 BLHS
2. Giả sử sau khi kéo ngã chị H xuống đất, chị H nói mình bị nhiễm HIV
nên A đã bỏ đi. Hành vi của A có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội không? Tại sao?
Hành vi của A được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Theo điều 19 BLHS: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình
không thực hiện phạm tội đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm; nếu hành vi
thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải
chịu TNHS về tội này”


Theo luật hình sự Việt Nam, những trường hợp được coi là tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội phải thỏa mãn đầu đủ các dấu hiệu của trường hợp tự ý
nửa trừng chấm dứt việc phạm tội. Xét các dấu hiệu bắt buộc trong trường hợp tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội như sau:



Dấu hiệu thứ nhất: Tội phạm được thực hiện phải đang ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội hoặc giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.

Khi tội phạm dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt
chưa hoàn thành thì mặc dù hành vi đã thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội nhưng
khách thể của tội phạm chưa bị xâm hại hoặc đã bị xâm hại nhưng hậu quả chưa
xảy ra.
• Dấu hiệu thứ hai: Việc chấm dứt không tiếp tục thực hiện tội phạm
phải là tự nguyện và dứt khoát.
Để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, trước hết đòi hỏi
việc chủ thể dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm phải hoàn toàn do động lực
bên trong chứ không phải do trở ngại khách quan chi phối, khi dừng lại, người
phạm tội vẫn tin rằng, hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện tiếp
được tội phạm.
Tự nguyện chỉ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm khi chủ thể
dừng việc thực hiện tội phạm, không thực hiện tiếp là do nguyên nhân chủ quan,
động lực bên trong chứ không phải do nguyên nhân bên ngoài, trở ngại khách quan
chi phối như sợ bị phát luật trừng trị, do hối hận, do thương hại nạn nhân,…
Sự dứt khoát trong tự ý nửạ chừng chấm dứt việc phạm tội thể hiện ý chí của
người có hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, từ trong ý thức của họ là
phải từ bỏ hẳn ý định phạm tội một cách triệt để mặc dù hành vi phạm tội chưa bị
phát hiện và người phạm tội còn điều kiện, thời cơ tiếp tục thực hiện tội phạm đến
cùng. Dứt khoát tức là không phải dừng lại tạm thời, chốc lát, chờ cơ hội khác
thuận lợi hơn để tiếp tục phạm tội.


Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể do những
động cơ khác nhau thúc đẩy như hối hận, sợ bị phát hiện, sợ bị trừng trị, sợ bị ảnh
hưởng đến bản thân,…Luật hình sự không đòi hỏi người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội phải thực sự hối hận.

Qua phân tích về dấu hiệu thứ hai ở trên, có thể thấy, hành vi của A bỏ đi
sau khi kéo ngã chị H xuống đất và nghe chị H nói mình bị nhiễm HIV là hành vi
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Bởi vì hành vi của A thỏa mãn đầy đủ các
dấu hiệu pháp lý của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội:
- Thứ nhất, theo dấu hiệu mặt khách quan của tội hiếp dâm (như đã phân tích
ở phần định tội) thì tội phạm này được thể hiện ở hành vi dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể chống cự được của nạn nhân
hoặc thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn với người khác. A đã có hành vi
kéo ngã chị H xuống đất nhằm mục đích thực hiện hành vi giao cấu, hành vi
này là hành vi dùng vũ lực, dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể
người khác nhằm đè bẹp sự kháng cự của nạn nhân để thực hiện hành vi
giao cấu. Như vậy, hành vi phạm tội của A cũng đã có những dấu hiệu của
tội phạm, đã thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nhất định
nhưng các hành vi đó chưa thõa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm khi hành vi giao cấu trái ý muốn của người khác chưa xảy ra. Do đó,
trong trường hợp này, A đã dừng hành vi phạm tội ở giai đoạn phạm tội
chưa đạt.
- Thứ 2, dựa trên những phân tích về tội hiếp dâm ta có thể kết luận được rằng
chủ thể của tội hiếp dâm là những người bị lệch lạc về mặt nhân cách, để
thỏa mãn được khoái cảm của mình, người phạm tội sẵn sàng dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không chống cự được của nạn nhân
hoặc thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn của nạn nhân; thậm chí, càng
vấp phải sự chống cự của nạn nhân người phạm tội càng khoái chí và quyết


tâm thực hiện hành vi đồi bại của mình đến cùng. Vì vậy, lời nói của chị H
rằng chị bị HIV tuy là yếu tố khách quan nhưng nó không có ảnh hưởng trực
tiếp đến A. Để xem xét A có tự nguyện hay không là việc xác định ý chí, tư
tưởng cũng như suy nghĩ của A, khi nghe chị H nói, A có thể tin hay không
tin lời nói đó là thật hay không, hoặc cũng có thể dùng những biện pháp

khác để tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Xét trên tâm lý của một kẻ hiếp
dâm như đã phân tích ở trên thì việc A chấm dứt hành vi của mình là hoàn
toàn tự nguyện, xuất phát từ động lực bên trong . Mặc dù A không thực hiện
tiếp tội phạm là do sợ bị lây bệnh nhưng không thể coi đây là yếu tố gây cản
trở A phạm tội được vì trên thực tế A vẫn hoàn toàn có thể thực hiện được
tội phạm đến cùng và trường hợp này cũng tương tự như tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội trong trường hợp người phạm tội sợ bị pháp luật
trừng trị, sợ bị trả thù…
- Thứ ba, hành vi tự nguyện chấm dứt việc phạm tội này của A cũng là hành
vi dứt khoát, từ bỏ hành vi phạm tội một cách triệt để. Khi A bỏ đi, từ trong
ý thức A đã từ bỏ hẳn ý định phạm tội là thực hiện hành vi giao cấu với chị
H.
Như vậy, có thể kết luận rằng, hành vi của A là hành vi tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội theo điều 19 BLHS.
3. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành vật chất hay hình thức? Tại sao?
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng
cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.
Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có thể
chia cấu thành tội phạm thành CTTP vật chất và CTTP hình thức:
- CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu về mặt khách quan là hành vi,
hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
- CTTP hình thức là CTTP có một dấu của mặt khách quan là hành vi nguy
hiểm cho xã hội.


Điểm khác nhau giữa CTTP vật chất và CTTP hình thức ở chỗ nhà làm luật
quy định dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc hay không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong CTTP. Như vậy, việc xác định loại tội phạm nào đó có CTTP vật chất hay
CTTP hình thức phải dựa vào quy định của luật có quy định hậu quả xảy ra khi thực
hiện hành vi phạm tội hay không. Việc xây dựng loại tội nào có CTTP cơ bản là

CTTP vật chất hay CTTP hình thức là xuất phát từ cơ sở khách quan sau:
- Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính
nguy hiểm của tội phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác
định thì CTTP thường được xây dựng là CTTP hình thức.
- Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa thể hiện được hoặc chưa
thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà đòi hỏi phải có cả
hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì CTTP thường được xây dựng là CTTP vật chất.
Ở điều 111 BLHS quy định CTTP tội hiếp dâm có các dạng hành vi khách
quan sau: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của
họ, nhưng điều luật lại không chỉ rõ hậu quả của hành vi gây ra cũng như không
nêu rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Khách thể của tội phạm hiếp dâm là quan hệ nhân thân cụ thể là xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhâm phẩm của con người. Ta thấy khó có thể
xác định được mức độ hậu quả của hành vi trái pháp luật này để lại, cũng như khó
có thể xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi với hậu quả. Ở tội này,
chỉ cần người phạm tội thực hiện một hành vi trong mặt khách quan của tội phạm
thì được xem là tội phạm hoàn thành (VD: người phạm tội có hành vi dùng thủ
đoạn hay đè, tỳ, cố ý xé áo quần nạn nhân nhằm mục đích giao cấu ngoài ý muốn
của nạn nhân thì được xem là tội phạm đã hoàn thành), không căn cứ vào hậu quả


của hành vi trên như thế nào, chính vì vậy tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111
là tội có CTTP hình thức.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.
2.
3.


4.
5.
6.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I và
tập II), Nxb. CAND, Hà Nội, 2009;
Nguyễn Ngọc Hoà, Mô hình luật hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội,
2009;
Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. CAND, Hà Nội,
2008.
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam (bình luận
chuyên sâu),Tập1 - 2, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của hội đồng thẩm phán tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong bộ luật hình sự.



×