Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề tài Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.88 KB, 19 trang )

Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)

MỤC LỤC
A- MỞ ĐẦU……………………………………………………….
B- NỘI DUNG…………………………………………………….
Chương 1: Khởi nghĩa Bãi Sậy.
1. Căn cứ Bãi Sậy – Hai Sông…………………………………….
2. Lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa…………………………………
3. Các trận đánh tiêu biểu và hoạt động của nghĩa quân………..
4. Thoái trào………………………………………………………

Chương 2: Một số đánh giá về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
2.1. Đánh giá những ưu điểm của khởi nghĩa Bãi Sậy…………….
2. 2. Những hạn chế…………………………………………………
2.3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm………………………………
C- KẾT LUẬN……………………………………………………..

Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 1


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
A – MỞ ĐẦU
Ngày 13/7/1885 Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hạ chiếu
Cần Vương kêu gọi sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng
chiến giúp vua bảo vệ quê hương đất nước. Hưởng ứng chiếu Cần Vương
nhân dân ở khắp nơi dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu văn thân yêu nước đã
sôi nổi đúng lên chống Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã diễn ra trong phạm
vi rộng lớn như khởi nghĩa Hương Khê, Khởi nghĩa Ba Đình, Khởi nghĩa
Hùng Lĩnh… khởi nghĩa Bãi Sậy là một trong các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu


của phong trào Cần Vương ở Bắc Bộ vào cuối thế kỷ XIX diễn ra từ năm
1883 và kéo dài đến 1892 mới tan rã. Bãi Sậy được xem là một trong những
trung tâm chống Pháp lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX.
B- NỘI DUNG.
Chương 1: Khởi nghĩa Bãi Sậy
1. Căn cứ Bãi Sậy ( Hưng Yên).
Vào thế kỷ XIX do đê sông Hồng bị vỡ liên tiếp 21 lần (1802- 1882) và do
bão lụt lớn hạn hán sâu bệnh đã khiến vùng đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu là
những cánh đồng ruộng mênh mông bát ngát thuộc các huyện Khoái Châu,
Văn Giang, Mỹ Hào ( Hưng Yên) trở thành vùng đất ngập trũng, nhân dân
không cày cấy được nên bỏ hoang thành rừng lau sậy mọc um tùm quanh
năm. Tên Bãi Sậy xuất hiện từ thời đó. Lúc ấy bên ngoài chỉ là một khu
đồng lau sậy hoang vu à lũy tre dày đặc, bên trong là một vài đình chùa của
làng xã và một số nhà gạch lớn của nhà giàu còn lại phần lớn là nhà tranh
lụp xụp của nông dân.
Nằm cách Hà Nội 20km về phía đông nam và vùng phụ cận là địa bàn hết
sức quan trọng về mặt chiến lược. Do ở vào vị trí trọng yếu như trên Bãi Sậy
từng là căn cứ của nhiều cuộc khởi nghĩa và kháng chiến trong lịch sử. Lập
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 2


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
căn cứ Bãi Sậy nghĩa quân có thể tỏa ra đánh địch ở các đồn Quỳnh Côi,
Lực Điền, Bình Phú…gần đấy. Đồng thời có thể kéo quân ra chặn đánh địch
trên các trục đường giao thông quan trọng của đồng bằng Bắc Bộ như đường
số 5 nối liền Hà Nội- Hải Dương – Hải Phòng, hoặc đường số 1 Hà Nội –
Nam Định, Hà Nội - Bắc Ninh. Từ Bãi Sậy nghĩa quân còn kiểm soát được
những con sông lớn như sông Thái Bình , sông Hồng và tiến công địch ở các

tỉnh thành Hưng Yên, Hải Dương và cả Hà Nội. Mặt khác dựa vào địa thế
Bãi Sậy có khu đồng ruộng mênh mông lầy lội, cây lau sậy mọc um tùm, cao
từ 2m đến 3m , nhất là dựa vào sự ủng hộ che giấu bảo vệ của nhân dân làng
xã nghĩa quân có thể sống trong căn cứ đánh giặc lâu dài.
Trong những năm 1883-1885 dưới sự lãnh đạo của Đinh Gia Quế căn cứ Bãi
Sậy được xây dựng ở làng Thọ Bình và một số làng thuộc huyện Khoái
Châu. Tại khu vực bao quanh ngôi đình đầu làng Thọ Bình, rộng năm mẫu
nghĩa quân xây dựng một đồn có tường gạch bao quanh một số nhà kho, khu
tập bắn và nơi luyện tập võ nghệ. Bên trong là một hệ thống hào được phân
đi quanh làng để nghĩa quân có thể nhanh chóng cơ động binh lực khi tấn
công địch. Thành được xây bằng gạch, rộng 5 mẫu Bắc Bộ. Trong thành có
nơi làm việc của bộ Tham mưu, có nhà kho, trường tập bắn, bãi luyện võ
nghệ, bãi tập bắn súng bắn nhanh. Thành xây không kiên cố lằm và thực sự
nó chỉ là nơi làm việc của Đổng Quế - nơi hội họp của các tướng lĩnh và nơi
đóng quân của đội quân thường trực. Các công tình trên mặt đất thì sơ sài,
nhưng trong lòng đất có nhiều địa đạo, nhiều đoạn được xây bằng gạch
thông từ trong thành đến đền Hoá Dạ Trạch trụ sở công khai của Đổng Quế,
lại có đường từ trong thành ra đê Sông Hồng và tỏa ra bãi sậy rậm rạp xung
quanh. Đường hầm rộng, có các ngã ba, ngã tư, hai người tránh nhau một
cách dễ dàng. Trong địa đạo có kho lương, kho vũ khí, nơi làm việc của Ban
chỉ huy, nơi ăn ngủ của chiến sĩ. Cửa hầm và lỗ thông hơi rất bí mật, có dấu
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 3


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
hiệu riêng và chỉ những người chỉ huy và các đội viên bảo vệ trong thành
biết. Muốn vào được trong thành gặp rất nhiều khó khăn vì sậy mọc cao tới
3-4 mét, lớp nọ đè lên lớp kia. Nghĩa quân đã khéo léo tạo thành những con

đường bí mật ở dưới. Xung quanh thành lại có nhiều vọng gác, ổ mai phục,
người lạ không thể vào được. Ngôi đình đầu làng được sử dụng làm nơi hội
họp của các lãnh tụ nghĩa quân và nơi tạm trú luyện tập quân sự của một số
đội nghĩa quân từ các nơi khác đến tham gia chiến đấu.Đại bộ phận nghĩa
quân sống với dân vùa sản xuất vừa chiến đấu chỉ có một số thoát ly làm
nhiệm vụ canh gác đại bản doanh.
Dựa vào căn cứ đã xây dựng và vùng đồng hoang lau sậy nghĩa quân còn đặt
nhiều hố chông và đào hệ thống ngang dọc làm cho địch không những
không thể tấn công sâu vào căn cứ mà còn có thể bị nghĩa quân đánh cho
thiệt hại nặng.
Trên cơ sở khu căn cứ và lực lượng mà Đinh Gia Quế xây dựng trước đây
Nguyễn Thiện Thuật chỉ đạo xây dựng ở nhiều làng xã ở Hưng Yên và một
số lãng xã ở Hải Dương. Các đội quân của Đốc Khoát, Đốc Qúy, Ba Giang,
đã xây dựng các làng chiến đấu khá vững chắc . Trong làng nghĩa quân đắp
thành và xây dựng lỗ châu châu bằng gạch phía ngoài là hào sâu ngập nước
và lũy tre dày đặc bao quanh. Bãi Sậy đã thu hút sự chú ý và trở thành nơi
tập trung quân đông đảo. Có thể nói căn cứ Bãi Sậy là trung tâm căn cứ
kháng chiến lớn nhất mang tính nhân dân rộng rãi ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ.
Điểm nổi bật của Bãi Sậy là tuy không xây thành lũy kiên cố nhưng biết dựa
vào thế hiểm của vùng đồng bằng lau sậy, dựa vào làng xã và sự ủng hộ của
nhân dân vùng Hưng Yên, Hải Dương .Đồng thời nhờ biết tổ chức lực lượng
thích hợp nghĩa quân đã kiên trì xây dựng và mở rộng khu căn cứ từ một địa
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 4


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
bàn nhỏ hẹp tiến lên địa bàn rộng lớn để đương đầu quyết liệt với địch trong

gần 10 năm ( 1883 – 1892).
2. Lãnh đạo của khởi nghĩa Bãi Sậy
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892) là một cuộc khởi nghĩa lớn ở cuối thế kỷ XIX
do Đinh Gia Quế khởi xướng ngay sau khi quân Pháp hạ thành Hưng Yên lần
thứ hai (3/1883),hoạt động lúc này còn giới hạn ở vùng Bãi Sậy bao gồm địa

phận các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mĩ tình Hưng Yên.
Từ tháng 8/1885 khi Nguyễn Thiện Thuật được Lễ bộ Thượng thư Nguyễn
Quang Bích cử về thay thế Đinh Gia Quế bị ốm nặng, ông đã dẫn dắt cuộc khởi
nghĩa lên quy mô rộng lớn ở đồng bắc Bắc Kỳ và vùng Đông bắc Bắc Kỳ. Từ
tháng 10/1890, Nguyễn Thiện Kế trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã vượt
qua muôn vàn khó hăn duy trì cuộc khởi nghĩa tới tháng 41/892. Nhưng Đề đốc
Lưu Kỳ và các tướng lĩnh còn duy trì cuộc khởi nghĩa đến tháng 2 năm 1897.
Như vậy cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy kéo dài được 14 năm. Trong đó Nguyễn
Thiệt Thuật là lãnh đạo đỉnh cao của khởi nghĩa.

Nguyễn Thiện Thuật sinh năm 1844 quê Xuân Dục, Mỹ Hào, Hưng Yên.
Năm 1876 ông đỗ cử nhân sau đó được phong chức Tán tương quân tỉnh
Hưng Hóa. Tháng 8/1883 Pháp chiếm Hải Dương ông đã mộ quân mưu
đánh chiếm lị , việc không thành ông kéo quân lên phối hợp với Hoàng Tá
Viêm chống Pháp ở Tây Sơn. Khi triều đình Huế ký hiệp ước Hacmang đầu
hàng Pháp 1883 ông bỏ sang Trung Quốc. Tháng 7/1885 được tin Hàm Nghi
xuống chiếu Cần Vương ông lập tức trở về nước tổ chức phong trào chống
Pháp ở Hưng Yên.
Dưới danh nghĩa Cần Vương Nguyễn Thiện Thuật đã tập hợp được nhiều
quân ở trong vùng, hình thành một phong trào có quy mô lớn nhất ở đồng
bằng Bắc Bộ.

Học phần: Phong trào Cần Vương.


Trang 5


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
Dưới quyền ông có các tướng lĩnh chỉ huy các đội nghĩa quân hoạt động
phối hợp trên nhiều địa bàn khác nhau. Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Thiện
Giang đều là em Tán Thuật ở vùng Mỹ Hào. Phan Văn Khoát, Ba Biều ở
Vĩnh Bảo, Đốc Tít, Tuần Văn ở Hai Sông – Kinh Môn – Hải Dương
3. Các trận đánh tiêu biểu của khởi nghĩa Bãi Sậy.
Khởi nghĩa Bãi Sậy là cuộc khởi nghĩa ở cuối thế kỉ 19, kéo dài trong 10
năm (1883-1892). Cuộc khởi nghĩa chia ra làm 3 giai đoạn:
Giai đoan 1: Đổng quân vụ Đinh Gia Quế lãnh đạo từ tháng 4/1883 đến
tháng 8/1885 với các trận đánh tiêu biểu : Trận đánh lớn ở làng Đức Nhuận,
cạnh xã Yên Vĩnh, gần đền Hoá Dạ Trạch. Trận đánh phủ đường Ân Thi và
đồn Cao Từa, diễn ra vào đầu năm 1884. Và nhiều trận đánh khác thu hút
đông đảo nhân dân tham gia .Nghĩa quân hoạt động ở khắp nơi, kiểm soát
được đường 39, đường số 5, đường đê Sông Hồng. Chính Miribel từng làm
công sứ Hưng Yên đã phải cay đắng thú nhận: “Tất cả những người nông
dân ở vùng Bãi Sậy đều đi theo Đinh Gia Quế chống lại quân Pháp”,
Giai đoạn 2: Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật từ
tháng 9/1885 đến tháng 10/1890. Đây là giai đoạn đỉnh cao của phong trào
địa bàn hoạt động mở rộng ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Bộ.
Giai đoạn 3: Nguyễn Thiện Kế từ từ tháng 10/1890 đến tháng 4/1892.
Đến giai đoạn 2: Sau cuộc tấn công ở kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất
Thuyết mang vua Hàm Nghi chạy ra ngoài. Tháng 7 năm 1885, vua Hàm
Nghi hạ chiếu Cần Vương. Nguyễn Thiện Thuật trở về nước, thành lập căn
cứ địa Bãi Sậy do Đồng Quế trao lại. Vua Hàm Nghi phong cho ông làm
Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần, gia trấn Trung tướng quân, nên nhân
dân còn gọi ông là quan Hiệp thống. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện
Thuật, khởi nghĩa Bãi Sậy lan ra khắp tỉnh Hưng Yên và một số tỉnh lân cận.

Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 6


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
Tháng 9 năm 1885 nghĩa quân vượt sông Hồng sang đánh phá các
huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa. Đêm 28 rạng ngày 29
tháng 9, quân Bãi Sậy tấn công thành Hải Dương, quân Pháp phải điều hai
pháo hạm tuần tiễu trên sông Thái Bình để bảo vệ.
Tháng 10 năm 1885 Thống tướng Roussel de Courcy giao cho thiếu
tướng François de Négrier, trung tá Donnier cùng Hoàng Cao Khải mở cuộc
càn quét lớn vào căn cứ Bãi Sậy. Được tin, Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho
các tướng bí mật tấn công vào các đồn địch, chặn đường địch hành quân.
Sau đó, ông nhử địch vào sâu căn cứ nơi đặt trận địa mai phục. Khi quân
Pháp biết bị mắc lừa định rút lui thì quân Bãi Sậy nổ súng và dùng đoản
đao, mã tấu đánh giáp lá cà. Nhiều quân Pháp bị giết, tướng Négrier chạy
thoát.
Tại căn cứ Hai Sông, vào tháng 11-1885, suốt trong 2 tuần, nghĩa quân đã
phải chống cự quyết liệt với một binh đoàn lớn do Falcon và Faure chỉ huy.
Ngoài hoạt động chống càn quét, nghĩa quân còn tổ chức nhiều trận tập kích
hiệu quả. Ngày 26/6/1886, nghĩa quân tấn công một đồn Pháp ở Cầu Đuống.
Tháng 9/1885, Nguyễn Thiện Thuật trực tiếp chỉ huy nghĩa quân tấn công
chiếm lại thành Hải Dưong, rồi tỏa ra đóng giữ các làng xung quanh. Nhưng
do lực lượng quá yếu, nên sau đó nghĩa quân phải rút lui. Tháng 9/1886,
nghĩa quân chặn đánh binh đoàn Bazinet và tấn công đồn Bần Yên Phú, đẩy
mạnh các hoạt động ra các miền phụ cận Hà Nội, Bắc Ninh.
Ngày 12/2/1887, một trận đụng độ lớn đã xảy ra ở vùng Kẻ Sặt (Hải
Dưong). Từ cuối năm 1888 đến đầu năm 1889, nghĩa quân còn tổ chức đánh
thắng quân Pháp nhiều trận, như các trận ở Lang Tài (Bắc Ninh), Duơng

Hòa (Hưng Yên)...
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 7


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
Thống tướng De Coursy bị bãi chức, Charles-Auguste-Louis Warnet sang
thay. Warnet thực hiện càn quét quy mô lớn bằng chiến lược phân tán quân
đội, lập các đồn nhỏ để dễ tuần tiễu, đồng thời chuyển chế độ cai trị bằng
quân sự sang dân sự, nhưng cũng không thành công.
Ngày 9 tháng 2 năm 1888, em Nguyễn Thiện Thuật là Nguyễn Thiện Dương
bị tử trận trong cuộc đụng độ với quân Pháp do viên đội Fillipe chỉ huy.
Được tin em chết, ngay đêm đó Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho Tuần Vân, Đề
Tính tấn công đồn Ghênh và đồn Bần Yên Nhân để trả thù, giết chết 21 quân
địch.
Ngày 11 tháng 11 năm 1888, Hoàng Cao Khải cùng giám binh Ney chỉ huy
đồn Mỹ Hào đưa lính về gặt lúa ở Liêu Trung tổng Liêu Xá, muốn buộc dân
hết lương phải ra đầu thú, xa rời quân Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật được
tin, lệnh cho các tướng Nguyễn Thiện Kế,Nguyễn Văn Sung, Vũ Văn
Đồng đem 800 quân trong đó có 400 tay súng giả dạng phu gặt để phục kích.
Quân Bãi Sậy nổ súng giết chết 31 quân địch, trong đó có giám binh Ney,
Bang tá Nguyễn Hữu Hào. Hoàng Cao Khải trốn thoát về Mỹ Hào rồi nhờ
giáo dân Kẻ Sặt đưa đường chạy về Hải Dương.
Tháng 6 năm 1889, Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh thành lập đạo quân Tuần cảnh
do Hoàng Cao Khải với chức Khâm sai Bắc Kỳ làm Tư lệnh trưởng,
Muselier làm Cảnh sát sứ. Quân Bãi Sậy giao chiến quân Tuần cảnh suốt 8
tháng, gây cho địch khá nhiều thiệt hại. Trận Đông Nhu, quân Bãi Sậy giết
viên quản khố xanh Leglée; ngày 24 tháng 7 giết chết viên quản khố xanh
Escot ở làng Hoàng Vân. Ngày 18 tháng 10 Nguyễn Thiện Thuật bắn viên

quản Montillon bị trọng thương. Ngày 11/4/1891 quân của Hai Kế và Đề
Vinh bị vây ở Mậu Duyệt, hai bên bắn nhau, viên quản Desmot bị giết, giám
binh Lambeet bị thương.
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 8


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
Nhiều lần không thắng được, người Pháp phải tặng Nguyễn Thiện Thuật
danh hiệu "Vua Bãi Sậy"
4. Thoái trào.
Từ sau khi vua Hàm Nghi bị bắt (1888) và lưu đày ở châu Phi, phong trào
Cần vương bắt đầu suy yếu. Sức mạnh của quân Bãi Sậy cũng suy yếu dần.
Quân Pháp thiết lập được nhiều đồn quanh căn cứ Bãi Sậy, các tướng Lãnh
Điều, Lãnh Lộ, Lãnh Ngữ, Đề Tính cùng một số tướng lĩnh khác tử trận, số
còn lại bị truy kích. Hoàng Cao Khải nhân danh vua Đồng Khánh chiêu dụ
Nguyễn Thiện Thuật ra hàng và hứa khôi phục chức tước. Ông đã viết vào tờ
sớ dụ này 4 chữ “Bất khẳng thụ chỉ” (Không chịu nhận chỉ). Sau đó, ông
giao quyền cho em là Nguyễn Thiện Kế và một số tướng lĩnh khác rồi sang
Trung Quốc mưu tính cuộc vận động mới. Những cuộc mưu tính của
Nguyễn Thiện Thuật ở Trung Quốc không thành, ông không tiếp tục được
việc chống Pháp tại Việt Nam. Sau đó ông lâm bệnh mất tại Trung Quốc
năm 1926, thọ 82 tuổi.
Từ tháng 7 - 1889, Pháp tập trung binh lực bao vây và tấn công nghĩa quân
tại Trại Sơn là đại bản doanh của đội quân Hai Sông. Quân Pháp chia thành
4 đạo, vây chặt căn cứ trung tâm, rồi dùng tàu bè đi tuần tiễu ngày đêm trên
tất cả ngả sông quanh căn cứ. Nghĩa quân phải rút chạy hết nơi này qua nơi
khác. Quân Pháp thắt chặt vòng vậy, tăng cường truy quét và khủng bố nhân
dân trong vùng nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa nghĩa quân và nhân dân. Thế

cùng lực kiệt (lương thực, đạn dược hết).Ngày 12/8/1889, Đốc Tít phải ra
hàng rồi bị đày sang Algérie. Sau những tổn thất nặng nề đó, phong trào
kháng Pháp ở vùng Hưng Yên, Hải Dương bị giảm sút rõ rệt, nhưng vẫn còn
duy trì thêm một thời gian nữa. Đến năm 1892, khi thủ lĩnh cuối cùng của

Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 9


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
phong trào Bãi Sậy là Đốc Vinh bị giết, lực ượng nghĩa quân Bãi Sậy mới
tan rã hẳn. Nguyễn Thiện Kế trước đó cũng bị Pháp bắt và đày đi Côn Đảo.
Tóm lại, khỏi nghĩa Bãi Sậy - Hai Sông (1883 - 1892) là cuộc khởi nghĩa
tiêu biểu nhất của nhân dân đồng bằng Bắc Kỳ cuối thế kỷ 19. Cuộc khởi
nghĩa này đã để lại nhiều bài học bổ ích, nhất là về phương thức hoạt động
và các hình thức tác chiến (du kích) của nghĩa quân ở một vùng đồng bằng
đất hẹp, người đông.
Chương 2: Một số đánh giá về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
2.1. Những ưu điểm của khởi nghĩa Bãi Sậy.
Có thể nói khởi nghĩa Bãi Sậy là cuộc khởi nghĩa toàn dân, và toàn diện.
Cuộc khởi nghĩa này có đặc trưng khác các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của
nhân dân ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX những đặc điểm lớn sau đây:
2.1.1.Thường xuyên làm công tác tuyên truyền, khơi dậy lòng yêu nước
trong nhân dân.
Từ khi Đinh Gia Quế dựng cờ “Nam đạo Cần vương, Bình Tây phạt tội” lập
căn cứ Bãi Sậy, tiếp đó là Nguyễn Thiện Thuật đưa quy mô cuộc khởi nghĩa lên
thành phong trào chống Pháp, chống chính quyền Nam triều phản động trên
một vùng rộng lớn ở đồng bằng Sông Hồng và vùng Đông Bắc. Tiếp đó,
Nguyễn Thiện Kế và các tướng duy trì cho đến khi cuộc khởi nghĩa thắt bại,

các vị đều coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, chí căm thù
giặc trong nhân dân, kêu gọi các tầng lớp nhân dân gia nhập, ủng hộ nghĩa
quân.
Các ông cử nhân Ngô Quang Huy, Nguyễn Hữu Đức và các nhà nho tham gia
cuộc khởi nghĩa đảm đương trách nhiệm nặng nề này. Các ông đã đến cá làng
xóm họp nhân dân, kì hào, đến các nơi tập trung dân như các chợ, các đám lễ
hội để nói cho nhân dân rõ về kẻ thù của nhân dân Việt Nam là giặc Pháp và
bọn quan lại làm tay sai cho giặc. Các ông kêu gọi mọi người phát huy tinh

Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 10


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
thần yêu nước chí căm thù giặc vốn có từ ngàn xưa, gia nhập, ủng hộ nghĩa
quân Bãi Sậy đánh Pháp. Nguyễn Thiện Thuật và Bộ tư lệnh nghĩa quân còn
thành lập một đội tuyên truyền - trinh sát có trên 100 người, phần lớn là các
nho sinh và các cô gái, họ chia làm nhiều toán nhỏ đi khắp các tỉnh tả ngạn
sông Hồng làm công tác tuyên truyền, dán bố cáo, phổ biến các bài vè như “Vè
Tán Thuật”và làm công tác trinh sát địch.
Đốc Tít khẳng định mục đích khởi nghĩa của ông là vì nước, vì vua Hàm Nghi:
“Tôi không bao giờ để cho nghĩa quân của tôi cướp bóc, tôi chỉ có một mục
đích duy nhất phục vụ trung thành cho Tổ quốc và nhà vua của tôi”.
Trong một bức thư gửi nhân dân Yên Dũng (Bắc Giang) đề ngày 24-8-1889),
Đội Văn nêu rõ “Mục đích chiến đấu của ông là nhằm đánh đuổi giặc Pháp xâm
lược, khôi phục đất nước, mang lại hòa bình yên tĩnh thực sự cho nhân dân và
chấm dứt những nỗi đau khổ đang đè nặng lên mọi người. Đội Văn kêu gọi
nhân dân tích cực ủng hộ nghĩa quân”. Việc che giấu bảo vệ nghĩa quân


không chỉ bó hẹp trong phạm vi cá nhân mà thật sự trở thành một phong trào
sâu rộng trong quần chúng. Nhân dân làng thường bỏ trốn hàng loạt trước
khi địch đến làng. Tinh thần yêu nước lòng căm thù giặc cũng như sự nhiệt
tình giúp đỡ của nhân dân đã ảnh hưởng đến hàng ngũ tổng lý. Thậm chí
mồ mã tổ tiên của các lãnh tụ nghĩa quân còn được các chức dịch trong làng
trân trọng. Quan hệ giữa nhân dân với nghĩa quân ngày càng gắn bó đã tạo
thành những thành lũy vũng chắc để bảo vệ giúp nghĩa quân có thể sống và
đánh giặc lâu dài trên quê hương mình.
Nhận xét về cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam cũng như cuộc kháng
chiến do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, ngay kẻ thù cũng phải công nhận:
“Phải thấy rằng dân tộc Việt Nam đã có nghị lực kiên cường lắm lắm mới đủ
sức chịu đựng được một cuộc chiến đấu quá ư dai dẳng như thế… Trước
quân đội của chúng ta (Pháp), người Việt Nam chỉ có một cách duy nhất là
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 11


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
chết để bảo vệ nền độc lập tự do của họ… hoặc: “Việt Nam là một quốc gia
kiên cường gắn bó với lịch sử riêng, thể chế riêng của mình và thiết tha với
nền độc lập của mình; … trong các thể kỷ trước, Việt Nam không bao giờ
chịu khuất phục trước quân xâm lược, họ biết đợi thời cơ… Tình trạng của
chúng ta (Pháp) rất đỗi khủng khiếp bởi vì chúng ta phải đương đầu với một
dân tộc thống nhất và tình cảm dân tộc của họ không phải đã suy yếu”
2.1.2 Thiết lập chính quyền kháng chiến ngay trong lòng địch.
Để thực hiện được các chủ trương kháng chiến, tuyển mộ nghĩa quân, thu thuế,
điều tra tình hình địch, diệt trừ thám báo, mật vụ, Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ
đại thần Nguyễn Thiện Thuật và các tướng lĩnh coi trọng nhiệm vụ thiết lập
chính quyền cách mạng. Tại vùng nghĩa quân kiểm soát, chính quyền đó do hội

nghị nhân dân cử ra, ở vùng tranh chấp và vùng địch kiểm soát, nghĩa quân
thành lập chính quyền bí mật và thường lợi dụng ngay “bộ máy cai trị” của địch
để đưa người của nghĩa quân vào hoặc khống chế, buộc bọn lí dịch do địch cử
ra phải làm việc cho nghĩa quân, không được thi hành các mệnh lệnh của giặc
làm hại đến dân. Chính quyền bí mật này đã tiến hành thu thuế, thu các khoản
tiền, gạo, nhân dân ủng hộ nghĩa quân, tuyển mộ nghĩa quân, đồng thời báo cho
nghĩa quân biết trước các âm mưu của địch mà mình biết. Chính kẻ địch cũng
phải thú nhận: “Các ông chánh tổng, phó tổng, lý trưởng, kỳ hào, đều được dân
làng bầu ra dưới áp lực của nghĩa quân, nên trước hết họ trung thành với Tán
Thuật. Chính những người này đã hình thành nên một chính quyền cách mạng
thật sự trong hệ thống chính quyền cấp dưới”. Chính quyền cách mạng có ở hầu
hết các tỉnh nghĩa quân hoạt động: “Tất cả các tỉnh thực chất đều nằm dưới
quyền của các toán. Những quan chức do chúng ta đặt ra đều bất lực và không
được ai tuân thủ. Việc cai trị không phải thuộc về các quan chức nữa mà thuộc
về các viên thủ lĩnh. Những toán này tiến hành thu thuế, mộ quân và duy trì
hoạt động phiến loạn trong nhân dân” .Việc sử dụng chính quyền của địch ở

Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 12


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
một số làng xã để truyền đạt thực hiện mệnh lệnh của nghĩa quân làm cho
giặc Pháp không thể nào dựa vào được chính quyền cấp xã của chúng. Ngay
kẻ địch cũng thừa nhận “chính quyền không nằm trong tay các viên quan cai
trị mà nó lại thuộc quyền của các thủ lĩnh nghĩa quân…các ông này đã đặt
được quyền lực của họ trong nhân dân”. Ngoài ra còn có chính quyền bí mật
do nghĩa quân lập nên. Như vậy việc thành lập được chính quyền bí mật ở
nông thôn và sử dụng chính quyền địch ở làng xã phục vụ cho mục đích

đánh Pháp là một thắng lợi lớn của nghĩa quân điều này giúp xây dựng căn
cứ kháng chiến lâu dài để chiến đấu lâu dài với địch.
2.1.3. Xây dựng quân đội tại chỗ - có quân cơ động, quân địa phương và
dân binh
Đổng Quế cũng như Nguyễn Thiện Thuật chỉ thành lập một đội quân cơ
động có từ 100 đến 200 người, không tổ chức quân đội tập trung, không
đóng trong thành, trong đồn lũy, từ căn cứ Bãi Sậy và căn cứ Hai Sông, mà
nghĩa quân sống, hoạt động trong nhân dân, làng xóm. Nghĩa quân Bãi Sậy
không tổ chức thành những đội quân lớn mà phân tán thành các đội quy mô
nhỏ hoạt động rải rác khắp nơi. Mỗi đội quân lại chia thành từng toán gồm
20 – 25 người phân tán vào các làng ở lẫn với dân. Nghĩa quân dựa vào các
lũy tre làng đào hào đắp lũy tổ chức chống giặc càn quét và bảo vệ lực
lượng. Một thủ lĩnh nghĩa quân là Tạ Hiển từng nói “ở dân gian thì lấy dân
gian làm hiểm, ở núi thì lấy khe núi làm hiểm”. Chủ trương “Động là quân,
tĩnh là dân” là một chủ trương sáng suốt, phù hợp với tình hình lúc đó của
cuộc khỡi Bãi Sậy. Việc xây dựng lực lượng tại chỗ, phân tán lực lượng, đã
làm cho quân Pháp không biết nghĩa quân ở đâu mà đánh. Vào thời gian ấy,
trong nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp, nghĩa quân thường được chia
thành từng đội, từng quân thứ. Với thế trận ở đâu cũng có nghĩa quân, làng
nào cũng có đồn lũy, khiến quân Pháp bị đánh ở khắp nơi, khắp chốn, đóng
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 13


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
ở trong đồn cũng bị đánh đi càn quét cũng bị đánh. Chính Miribel đã phải
thú nhân: “Tất cả nông dân vùng Bãi Sậy đều đi theo Đinh Gia Quế chống
Pháp” hoặc “Trung tâm kháng chiến là ở khắp mọi nơi, chia nhỏ ra vô hạn,
hầu như có bao nhiều người An Nam là có bấy nhiêu trung tâm kháng

chiến… Một người nông dân gặt lúa là một trung tâm kháng chiến”.
Như vậy với việc chia quân thành những tổ chức nhỏ gọn điều đó đã giúp
nghĩa quân dễ dàng trà trộn vào dân để hoạt động tranh thủ được sự cưu
mang của nhân dân vừa tránh được những tổn thất trước các cuộc càn quét
của địch. Mặt khác với tổ chức nhỏ gọn và cách thức hoạt động như vậy khi
cần thiết các đội nghĩa quân cũng được tập trung nhanh chóng để tác chiến
trong một thời gian nhất định. Một đặc điểm khác đó là về trang phục nghĩa
quân vốn là quần chúng nông dân vừa sản xuất vừa chiến đấu cho nên trang
phục của họ chính là áo nâu sồng của người nông dân thời đó. Ưu điểm của
trang phục này chính là làm cho địch khó phát hiện được đâu là dân đâu là
binh để tiêu diệt, vừa dễ ăn vừa dễ ở và hoạt động dễ dàng trong nhân dân.
2.1.4. Thực hiện công tác địch vận - giáo hóa những người theo địch trở
thành nghĩa quân.
Chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật và các tướng hiểu rõ những người cầm súng đi
lính cho Pháp hoặc “làm quan” trừ một số ít làm tay sai cho giặc, bán rẻ Tổ
quốc, bán rẻ đồng bào cho giặc còn phần đông bị bắt buộc, bị nhất thời lầm lỗi
theo giặc, cần phải thức tỉnh lòng yêu nước trong con người họ, chỉ cho họ tấy
rõ nỗi nhục của người dân mất nước để họ quay súng về hàng ngũ nghĩa quân
hay trong một chừng mực nhất định không tàn sát đồng bào. Những người chỉ

huy rất chú ý đến công tác binh vận, tận dụng mọi cơ hội vận động ngụy
binh về với hàng ngũ kháng chiến. Tiêu biểu là việc Đội Văn đã trá hàng để
vận đọng lôi kéo hằng trăm lính khố chạy về với nghĩa quân vào tháng
9/1889.
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 14


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)

2.1.5. Tự trang bị vũ khí, lương thực bằng nhiều nguồn để phục vụ kháng
chiến.

Bên cạnh sự giúp đỡ của nhân dân nghĩa quân còn chủ động chuẩn bị về
lương thực bằng cách tham gia sản xuất với nhân dân hoặc tổ chức canh tác
riêng. Do hoàn cảnh chiến đấu và tổ chức như vậy nghĩa quân Bãi Sậy có
tính tổ chức và tính kỷ luật cao. Với chủ trương “ tĩnh là dân, động là quân”
nghĩa quân Bãi Sậy đã khai thác được đất hoang và trồng rất nhiều lúa ở các
huyện Khoái Châu, Yên Mỹ, Mỹ Hào, Văn Lâm …
Về chuẩn bị vũ khí : Cướp vũ khí để trang bị cho quân đội là biện pháp
nhanh và hiệu quả cao nhất, nhưng lại là việc cực kỳ khó khăn, nhiều khi phải
đổi bằng xương máu của chiến sĩ. Nghĩa quân thường đột kích vào các đồn,
phục kích các toán quân tuần tiễu, chặn đánh các đoàn xe vận tải. Bên cạnh đó
nghĩa quân cũng mua súng, đạn trang bị cho nghĩa quân một phần.

Nghĩa quân tự trang bị là chính, ngoài những thứ vũ khí thô sơ như giáo
mác, mã tấu, đinh ba, gậy gộc..nghĩa quân còn sản xuất được loại súng theo
mẫu súng của Pháp. Những thợ đúc thợ rèn giỏi trong các làng xã lân cận
được mời đến gúp nghĩa quân chế tạo vũ khí. Còn nhân dân thì đống gang,
săt, đồng ,cho nghĩa quân.Việc tự sản xuất vũ khí của nghĩa quân tuy chưa
được nhiều nhưng đã góp phần quan trọng trang bị thêm vũ khí cho nghĩa
quân đánh giặc.Điều đó thể hiện tinh thần chiến đấu dựa vào sức mình là
chính của nghĩa quân.
2.1.6. Về phương thức tác chiến ở vùng đồng bằng đất chật người đông.
Phương thức tác chiến của nghĩa quân là đánh du kích, lấy ít đánh nhiều lấy
vũ khí thô sơ chống lại vũ khí hiện đại. Với phương thức tác chiến này hoàn
toàn phù hợp với tổ chức nhỏ gọn của nghĩa quân thường lợi dụng yếu tố bất
ngờ tổ chức những trận tập kích chớp nhoáng , phục kích chặn đường giao
thông tiếp tế và vận tải của địch.
Học phần: Phong trào Cần Vương.


Trang 15


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
2.2. Những hạn chế .
Bên cạnh những ưu điểm nói trên thì cuộc khỏi nghĩa Bãi Sậy còn tồn tại
nhiều hạn chế chưa khắc phục được và những hạn chế này cũng chính là
nguyên nhân thất bại của khởi nghĩa Bãi Sậy nói riêng cũng như phong trào
Cần Vương nói chung.
Mặc dù căn cứ địa Bãi Sậy được xem là chỗ đứng chân bảo toàn lực lượng
nhưng không thể chỉ dừng lại ở mức độ mà phải không ngừng củng cố mở
rộng ra các vùng lân cận trong suốt quá trình tồn tại của nó. Trong khi đó lực
lượng nghĩa quân tại các căn cứ địa thì nhỏ bé, trong phạm vi khu căn cứ địa
thì nhỏ bé trang bị vũ khí thô sơ, chỉ hoạt động trong phạm vi khu căn cứ
của mình, là chủ yếu nên dễ bị cô lập và gặp khó khăn bao vây dài ngày dẫn
đến tan rã. Căn cứ địa được xây dựng mang tính chất địa phương chưa tạo
được một thế trận liên hoàn kết hợp giữa tiến công và phòng thủ chưa có sự
liên hệ giữa các căn cứ với nhau.
Hạn chế thứ hai làm cho phong trào thất bại cũng là hạn chế chung của
phong trào Cần Vương đó là xuất thân từ tầng lớp lãnh đạo. Do những điều
kiện từ giai cấp và thời đại hạn chế các lãnh tụ của phong trào không giải
quyết được đầy đủ đúng đắn yêu cầu của phong trào giải phóng dân tộc và
dân chủ Việt Nam hồi đó. Thực tế qua phong trào diễn ra 10 năm cho thấy
khả năng lãnh đạo của các văn thân sĩ phu cũng hạn chế. Dù tinh thần yêu
nước khác hẳn với giai cấp phong kiến nhưng nhãn quan chính trị của họ
không vượt ra ngoài thời đại àm họ đang sống. Mục tiêu của các lãnh tụ Bãi
Sậy cũng nhue nhiều cuộc khởi nghĩa khác trong phong trào Cần Vương là
duy trì lại ngọn cờ phong kiến điều đó không còn thích hợp với xà hội Việt
Nam lúc bấy giờ. Mặt khác các lãnh tụ cũng chưa có một đường lối đúng

đắn để xây dựng một căn cứ địa hoàn chỉnh cả về chính trị lẫn quân sự, kinh
tế văn hóa xã hội, chưa hề đặt vấn đề bồi dưỡng sức dân , giải quyết từng
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 16


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
bước yêu cầu của nhân dân. Điều này thể hiện sự khủng hoảng sâu sắc về
giai cấp lãnh đạo trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta
cuối thế kỷ XIX.
Một nguyên nhân nữa đó là trong khởi nghĩa Bãi Sậy tương quan lực lượng
giữa ta và địch rất chênh lệch. Pháp xây dựng đội quân chính quy, có tiềm
lực kinh tế quân sự mạnh, trang bị vũ khí hiện đại và được rèn luyện bài bản.
Trong khi đó nghĩa quân chủ yếu dân thường được chiêu mộ, chưa qua rèn
luyện, vũ khí thô sơ và tự chế , thậm chí các đội quân còn chưa được trang bị
đầy đủ vũ khí cơ bản thì làm sao mà đánh Pháp lâu dài được
3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm.
Mặc dù khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã nhưng nó đã để lại nhiều bài học kinh
nghiệm nhất là về phương thức hoạt động và các hình thức tác chiến ( du
kích) của nghĩa quân ở một vùng đồng bằng đất rộng người đông.
Thứ hai là triệt để dựa vào các căn cứ địa kháng chiến , ở Bãi Sậy do xây
dựng căn cứ xen kẽ với các vùng địch chiếm đóng nên thường bị chúng uy
hiếp và tình hình mọi mặt chưa thật ổn định . Để tiến lên giành thắng lợi thì
từ những căn cứ ban đầu nhất thiết phải phát triển thành căn cứ hậu phương
vững chắc và hoàn chỉnh.
Phải coi trọng căn cứ địa kháng chiến ở nông thôn để có chỗ dựa lâu dài, cần
bồi dưỡng sức dân để kháng chiến lâu dài với kẻ thù. Đặc biệt là ở những
vùng có đồng bào theo đạo cần tuyên truyền vận động nhân dân tham gia
kháng chiến.

Thứ ba là về phương thức tác chiến trên một vùng đồng bằng đất rộng người
đông dùng lối tác chiến đánh du kích để gây bất ngờ làm địch không kịp trở
tay lấy ít đánh nhiều nhằm từng bước tiêu hao sinh lực địch.
Tuy khởi nghĩa Bãi Sậy không xây dựng được căn cứ thành lũy kiên cố
nhưng lại biết dựa vào thế hiểm của vùng đòng bắng lau sậy , dựa vào làng
Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 17


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
xã và sự ủng hộ của nhân dân. Đồng thời biết tổ chức lực lượng thích hợp để
tác chiến trên một vùng đồng bằng đất rộng người đông.
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy cũng để lại nhiều bài học quý báu mà nhiều cán bộ
chỉ huy quân sự ở các tỉnh, thành phố Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh,
Quảng Yên, Hải Phòng học tập, ứng dụng trong cuộc khởi nghĩa chống thực
dân Pháp trong những năm 1945-1954
C- KẾT LUẬN
Khởi nghĩa Bãi Sậy đó là cuộc khởi nghĩa toàn dân, toàn diện bao gồm cả

chính trị, quân sự, binh vận và đã áp dụng chiến thuật du kích một cách tài
tình, linh hoạt với tính tự lực rất cao cả về đường lối chiến tranh, cung cấp
vũ khí, lương thực. Đáng chú ý là trong nền kinh tế nông nghiệp lac hậu
nhưng với trí thông minh, tài trí của mình nghĩa quân đã chế tạo được ra
nhiều vũ khí hiện đại. Cuộc khởi nghĩa không chỉ làm khuynh đảo bộ máy
cai trị của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ, của vua quan triều đình Nguyễn đầu
hàng giặc mà còn làm rung động dư luận nước Pháp. Khởi nghĩa Bãi Sậy để
lại nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích cho phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc những giai đoạn sau. Qua cuộc khởi nghĩa cho ta thấy tinh thần yêu
nước của ông cha ta trong quá khứ luôn kiên cường bất khuất trong mọi

khó khăn gian khổ để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Để từ đó chúng ta
hôm nay càng có ý thức tự vươn lên trong học tập cũng như trong lao động
để tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường, anh dũng của
con người Việt Nam.

Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 18


Đề tài: Khởi nghĩa Bãi Sậy( 1883 – 1892)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thanh Sơn (2009), Khởi nghĩa Bãi Sậy, Nxb văn hóa thông tin.
2. Dương Đình Lập (2004), Căn cứ địa trong phong trào Cần Vương
chống Pháp (1885 – 1896 ), Nxb chính trị quốc gia Hà Nội.
3. Đinh Xuân Lâm ( chủ biên ), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ
(2006), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb giáo dục.
4. Nguyễn Quang Ngọc ( chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb
giáo dục.
5. Trần Văn Giàu (1957), Chống xâm lăng, quyển 3: Phong trào Cần
Vương, Nxb xây dựng Hà Nội.
6. Nguyễn Phan Quang (1995), Việt Nam cận đại những sử liệu mới,
Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
7. Dương Kinh Quốc (1981), Việt Nam – Những sự kiện lịch sử 1858 –
1945, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử , Nxb khoa học xã hội, Hà Nội,
1997, tập 1, tr.304.
9. Nhiều tác giả, Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Nxb quân đội
nhân dân.
10. Internet: - Minh Thành trong bài “Về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy” , Tạp

chí Nghiên cứu Lịch sử số 122, 123 tháng 5, 6/1969

Học phần: Phong trào Cần Vương.

Trang 19



×