Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

khắc phục tình trạng bất bình đẳng giới và thực hiện bình đẳng giới thực chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.13 KB, 12 trang )

bình đẳng MỤC LỤC

Trang
* LỜI MỞ ĐẦU
I.KHÁI QUÁT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI THỰC CHẤT
VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY
1. Khái niệm………………………………………………………2
2. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
2.1 Chủ thể ban hành những biện pháp thúc đẩy
giới…………………………………………………….. 3
2.2 Nội dung các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới………….... 3
II. BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG TỪNG LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG
1. Bình đẳng giới thực chất trong lĩnh vực chính trị………….

4

2. Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế………………………. .4
3. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong
lĩnh vực lao động………………………………………………… 4
4. Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo…………….5
III. ÁP DỤNG BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG
GIỚI THỰC CHẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thành tựu ………………………………………………………5
2. Hạn chế ……………………………………………………… 8
III. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI
THỰC CHẤT TẠI VIỆT NAM………………………………… 9

1



* LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, vấn đề bình đẳng giới đang được cả cộng đồng quốc tế đặc biệt
quan tâm. Bởi thực tế tình trạng bất bình đẳng giới đã và đang diễn ra phổ biến,
đây là một trong những nguyên nhân hạn chế quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân làm tăng đói nghèo, cản trở việc chăm
sóc sức khỏe dân cư, hạn chế các cơ hội tăng thu nhập và gây nên hàng loạt tổn
thất khác cho xã hội. Những nước tích cực thúc đẩy bình đẳng giới thường đạt
được tốc độ phát triển kinh tế xã hội cao và phát triển bền vững hơn. Việt nam là
một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỉ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động
kinh tế, là một trong những nước nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới, là
quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách giới trong
20 năm qua ở khu vực Đông Á. Tuy nhiên không phải vì những thành tựu đó mà
Việt Nam đã đạt được mục tiêu bình đẳng giới thực chất. Thực tế cho thấy thực
trạng bất bình đẳng giới, khoảng cách giới, phân biệt đối xử về giới ở Việt Nam
vẫn đang tồn tại trong đời sống xã hội, tiêu biểu như: định kiến giới, bạo lực gia
đình, bất bình đẳng về vị trí, vai trò của phụ nữ so với nam giới trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Để góp phần khắc phục tình trạng bất bình đẳng giới và thực
hiện bình đẳng giới thực chất, cần có những biện pháp thúc đẩy cần thiết và hiệu
quả.
I.KHÁI QUÁT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI THỰC CHẤT VÀ BIỆN
PHÁP THÚC ĐẨY
1. Khái niệm
Bình đẳng giới là theo khoản 3 điều 5 BLBĐG được hiểu là việc nam, nữ
có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của
mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về
thành quả của sự phát triển đó.
Khái niệm bình đẳng giới thực chất hiện nay chưa có văn bản quy định,
giải thích rõ ràng. Có thể hiểu bình đẳng giới thực chất là việc áp dụng, thi hành
bình đẳng giới trên thực tế, không phải trên giấy tờ hay lí thuyết. Những nguyên

tắc, biện pháp để thực hiện mục tiêu bình đẳng giới được thực hiện thực sự, triệt
để và hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng
giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có
sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy
năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định
như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp
thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt
khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được. Định nghĩa này được quy định tại khoản
6 điều 5 BLBĐG.
2


2. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
2.1 Chủ thể ban hành những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Chủ thể có thẩm quyền ban hành những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, được quy định tại khoản 2 điều 19
BLBĐG:
“ Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ có thẩm quyền quy
định biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới quy định tại khoản 1 Điều này, có trách
nhiệm xem xét việc thực hiện biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và quyết định
chấm dứt thực hiện khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được.”
Biện pháp khẩn cấp tạm thời được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà
nước trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.2 Nội dung các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là những biện pháp mang tính chất cấp
thiết để đẩy mạnh thực hiện bình đẳng giới trên thực tế. Biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới mang tính chất khẩn cấp tạm thời, được áp dụng sau khi các biện pháp
khác được thực thi mang lại hiệu quả không cao. Và biện pháp khẩn cấp tạm thời
được gỡ bỏ sau khi chúng đã đạt được mục đích đề ra. Pháp luật bình đẳng giới

có quy định về nội dung các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới như sau:
“ Điều 19. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
1. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ
hưởng;
b) Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam;
c) Hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam;
d) Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam;
đ) Quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều kiện,
tiêu chuẩn như nam;
e) Quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn như nam;
g) Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định tại khoản 5 Điều
11, khoản 2 Điều 12, khoản 3 Điều 13, khoản 5 Điều 14 của Luật này”.
Ngoài các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đã nêu trên do các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành để đảm bảo thực hiện bình đẳng giới trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, thì trong những lĩnh vực khác
nhau còn có những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới riêng, đặc thù phù hợp với
đặc điểm riêng của các quan hệ xã hội có khoảng cách giới, bất bình đẳng.
II. BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG TỪNG
LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG
1. Bình đẳng giới thực chất trong lĩnh vực chính trị

3


Luật bình đẳng giới quy định nam và nữ có quyền bình đẳng trong việc
tham gia quản lí Nhà nước hay tổ chức xây dựng các tổ chức cộng đồng, có quyền
ứng cử và tự ứng cử vào các cơ quan bộ máy Nhà nước cũng như cơ quan địa
phương. Để đảm bảo thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, luật bình

đẳng giới quy định những biện pháp thúc đẩy tại khoản 5 điều 11 như sau:
“ 5. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao
gồm:
a) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;
b) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ
quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.”
2.Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
Luật Bình đẳng giới đã quy định cụ thể bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế nói riêng. Đây cũng được coi là thành công cho việc thống nhất nhận thức và
thực hiện bình đẳng giới cho người dân trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên để thực
hiện bình đẳng giới thực chất thì cần phải có những biện pháp khả thi và đồng bộ.
Luật đã quy định rõ những biện pháp đó tại khoản 2 điều 12 BLBĐG :
“2. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
a) Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài
chính theo quy định của pháp luật;
b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật.”
Những quy định cụ thể về thuế, tài chính, khuyên nông, khuyến ngư được
cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như luật thuế, thuế thu nhập
cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, các chính sách khuyến khích nông
nghiệp….
3.Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
Luật Bình đẳng giới quy định: Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi
khi tuyển dụng lao động, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc, tiền công, tiền
thưởng, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác. Ngoài ra, nam, nữ còn
bình đẳng về cơ hội việc làm và quyền tự do lựa chọn việc làm; bảo đảm việc
làm, chống phân biệt đối xử. Đặc biệt, đối với lao động nữ là quyền được bảo vệ
sức khỏe, an toàn lao động. Khoản 3 điều 13 BLBĐG quy định các biện pháp
thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động:

“ 3. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao
gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;
b) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;

4


c) Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao
động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc
với các chất độc hại”.
4. Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
“5. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
bao gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo;
b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của
pháp luật.”
III. ÁP DỤNG BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI THỰC
CHẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Những thành tựu đạt được
Trước hết, cần khẳng định rằng BĐG và BĐGTC có mối liên hệ rất mật
thiết và đương nhiên, trong chừng mực nào đó chúng là một. Xét về bản chất
BĐG cũng chính là BĐGTC, khi mà mọi thứ giữa nam và nữ đều “ngang nhau”
và “như nhau”. Đây chính là mục đích mà Luật hướng tới và cũng là tham vọng
của các nhà làm luật. Không thể phủ nhận được những bước tiến của Việt Nam
trong việc thực hiện quyền bình đẳng giới. Thời gian qua, nhiều chương trình
thúc đẩy tiến bộ của phụ nữ, mô hình phòng chống bạo lực; vận động chính sách
về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ... của Việt Nam được bạn bè quốc tế
ghi nhận, trở thành điểm sáng trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, với 5/8 mục
tiêu cơ bản hoàn thành trước thời hạn, trong đó có mục tiêu về bình đẳng giới và

nâng cao vị thế cho phụ nữ Việt Nam.
Nước ta vinh dự là quốc gia xóa bỏ khoảng cách bình đẳng giới nhanh nhất
trong khu vực, xếp thứ 43/141 nước trên thế giới. Những năm gần đây, "bình
đẳng giới" luôn được nhắc tới như một hoạt động không thể thiếu trong xã hội
tiến bộ, đặc biệt là một xã hội đang phát triển như Việt Nam. Phấn đấu vì mục
tiêu bình đẳng giới là việc làm thường xuyên, liên tục và nhất quán của Đảng ta
nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp phát triển đất nước.
2.1 Trong lĩnh vực chính trị
Trên cơ sở nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Hiến pháp và pháp luật về bình
đẳng giới, Chính phủ đã xây dựng một số mục tiêu cụ thể vì sự tiến bộ của phụ
nữ, trẻ em gái trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Thủ tướng chính
phủ đã vừa ra quyết đinh số 2351/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu tăng cường sự tham gia của phụ nữ
vào các vị trí quản lý, lãnh đạo. Các mục tiêu xác định rõ ràng về nội dung và thời
gian, Việt Nam phấn đấu tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy đảng giai đoạn 20162020 tăng từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu tham gia hội đồng nhân dân các cấp
giai đoạn 2011-2015 từ 30% trở lên, giao đoạn 2015-2020 đạt từ 35% trở lên.
Chính phủ đã tiến hành sơ kết, tổng kết đánh giá việc tổ chức thực hiện các mục
5


tiêu này theo định kỳ; kiểm tra những tác động, xu hướng trong suốt quá trình
thực hiện các mục tiêu phân bổ nguồn tài chính và nhân lực để thực thi các chính
sách, pháp luật hiện hành về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ.
Thực hiện biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị là
đảm bảo tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù
hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, Việt Nam đã có những bước đầu
thành công. Việt Nam hiện có 27,31% đại biểu nữ trong Quốc hội, cao nhất ở
châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế
giới; tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sĩ 33,95%; tiến sĩ 25,69%. %.
Tuổi thọ trung bình của phụ nữ Việt Nam là 73, cao hơn tuổi thọ của nam khoảng

3 tuổi. Nhiều cơ quan, đoàn thể đã chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ
nữ. Đã có những nhà lãnh đạo là nữ giới ở các cơ quan cao nhất của Đảng, Nhà
nước. Nhiều phụ nữ trở thành doanh nhân giỏi, nhà khoa học, nghệ sĩ tài năng...
Có thể thấy biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được áp dụng khá toàn diện
và mang lại hiệu quả cao trong lĩnh vực này.
2.2 Trong lĩnh vực kinh tế
Theo Báo cáo đánh giá tình hình giới ở Việt Nam, tháng 12/2006 của Ngân
hàng thế giới , Ngân hàng phát triển châu Á Vụ phát triển quốc tế Anh và cơ
quan phát triển quốc tế Canađa thì “Việt nam là một trong những nước dẫn đầu
thế giới về tỉ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, là một trong những nước
nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới, là quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh
chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á .
Trong số các doanh nghiệp toàn quốc, số doanh nghiệp có nữ làm giám đốc
chiếm 25%, đặc biệt có những thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ
này hơn 30%. Xuất phát từ sự ưu tiên cho phụ nữ ở nông thôn, những nơi có kinh
tế khó khăn, Việt Nam đã tổ chức rất nhiều chính sách ưu đãi cho vay lãi suất
thấp, hỗ trợ khuyến nông, khuyến lâm. Hoạt động này thu được nhiều tín hiệu khả
quan.
Là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các
hoạt động kinh tế, Việt nam được xem như một trong những nước tiến bộ hàng
đầu về lĩnh vực bình đẳng giới. Việt nam có những chính sách tương đối phù hợp
nhằm bảo đảm quyền bình đẳng cho phụ nữ và nam giới và đó có những tiến bộ
đáng kể nhằm giảm khoảng cách về giới cũng như cải thiện tình hình của phụ nữ
nói chung.
1.3 Trong lĩnh vực lao động
Bên cạnh những quy định của BLBĐG, Quyền bình đẳng trong lao động
giữa nam và nữ cùng các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đã được Luật lao
động quy định tại các điều 109, điều 110 và điều 111. Theo đó, luật quy định cụ
thể, chi tiết theo đúng tinh thần các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh
vực lao động như nghiêm cấm chủ sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử

6


với lao động nữ, yêu cầu tạo điều kiện thuận lợi cho nữ giới làm việc, học tập,
nâng cao trình độ tay nghề,…
Trong thời gian qua, Chính phủ cũng đã có nhiều chủ trương mà nhiều lao
động nữ là đối tượng thụ hưởng như chủ trương xây nhà cho người thu nhập thấp,
lao động di cư. Theo tổ chức phát triển Liên Hợp quốc, tỷ lệ nữ tham gia lao động
của Việt Nam là 68% và nam giới là 76%. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở
năm 2009 của TCTK thì tỷ lệ nữ tham gia lao động là 46,6% trong tổng số lao
động. Như vậy, tỷ lệ nữ Việt Nam tham gia lao động gần bằng nam giới. Đáng
chú ý là báo cáo “Bình đẳng giới và Phát triển” (Gender equality and
Development) của World bank được công bố mới đây thì tỷ lệ phụ nữ (30%)
tham gia lao động trong lĩnh vực dịch vụ lại cao hơn nam giới (26%). Có trên
20% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam do phụ nữ làm chủ, chủ yếu thuộc về khu
vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, chế biến nông sản, thủy sản. Nhiều tấm gương
phụ nữ trẻ làm kinh tế giỏi không những chỉ làm giàu cho bản thân mà còn đóng
góp được nhiều cho xã hội. Việt Nam được Liên Hợp Quốc công nhận là quốc gia
xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua tại khu vực Đông
Nam Á, là nước đứng đầu trong khu vực về xóa bỏ khoảng cách giới. Phụ nữ
chiếm 48% trong số tổng lao động có việc làm; trẻ em gái được đi học ngày càng
nhiều hơn...
1.4 Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng
cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số
người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011”
của UNDP, trình độ học vấn của phụ nữ Việt Nam (từ 25 tuổi trở lên) đã hoàn
thành chương trình giáo dục cấp 2 trở lên là 24,7% so với 28% là của nam giới.
Như vậy, mức độ chênh lệch giữa nam và nữ về giáo dục ở nước ta không nhiều.
Theo Kết quả chủ yếu của Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của Tổng cục

Thống kê (thì tỷ lệ biết chữ của nam giới là 96,2% và của nữ giới là 92,2% (từ 15
tuổi trở lên). Trang Wikipedia dẫn nguồn từ website Quốc hội thì tại Việt Nam,
cứ 100 cử nhân có 36 nữ, 100 thạc sĩ có 34 nữ, 100 tiến sĩ có 24 nữ. Để tôn vinh
các nhà khoa học nữ, 25 năm qua, giải thưởng Kovalevskaia đã trở thành một giải
uy tín lớn trong giới khoa học Việt Nam được trao cho hàng chục cá nhân, tập
thể. Từ năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ “Giải
thưởng Phụ nữ Việt Nam” nhằm khuyến khích và tôn vinh phụ nữ Việt Nam
trong các lĩnh vực. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong tất cả các cấp bậc
học được thu hẹp .
Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các
cấp học trước năm 2015. Các chương trình này đã tạo nhiều cơ hội học tập cho
phụ nữ hơn trước. Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ
nữ, đặc biệt là vai trò của giáo dục đối với xã hội, ngành GD&ĐT đã thực hiện
7


tương đối tốt vấn đề bình đẳng giới. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Đặng Huỳnh Mai đã
khẳng định vai trò to lớn của giới nữ: “chiếm hơn 70% đội ngũ toàn ngành, giới
nữ đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của sự nghiệp GD&ĐT nước nhà”.
Nhiều nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, được công nhận
chức danh Phó Giáo sư. Đặc biệt, nhiều học sinh nữ, sinh viên nữ tự khẳng định
vai trò của giới mình bằng cách tích cực học tập và rèn luyện, đạt kết quả xuất
sắc. Trong các kỳ tuyển sinh vào cao đẳng, đại học nhiều thủ khoa là học sinh nữ.
Còn trong các kỳ thi tốt nghiệp, nhiều sinh viên nữ nhận bằng cử nhân xuất sắc…
Trong năm 2012, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ Tổng Liên đoàn đă tổ chức 10
lớp tập huấn tại LĐLĐ tỉnh Bắc Kạn, Hà Giang, Ḥòa Bình, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Ninh Bình, Nghệ An, Khánh Hoà, Nam Định, Lâm Đồng, với sự tham dự của hơn
500 cán bộ công đoàn, gồm có các đồng chí là Chủ tịch, Phó Chủ tịch công đoàn
các LĐLĐ huyện, thị xã, CĐ ngành và công đoàn cơ sở trực thuộc LĐLĐ tỉnh về
công tác bình đẳng giới, lồng ghép giới trong hoạt động công đoàn; vai tṛò của

Công đoàn trong việc tham gia, giám sát thực hiện Luật Bình đẳng giới. Cùng với
đó cũng có tới 80% các LĐLĐ tỉnh, CĐ ngành đă tổ chức tập huấn cho cán bộ
công đoàn về nghiệp vụ công tác nữ công, giới, lồng ghép giới trong hoạt động
công đoàn Nghị quyết của Tổng Liên đoàn về công tác vận động nữ CNVCLĐ
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Hoạt động dạy nghề cho các chị em phụ nữ ở nông thông cũng có những
hiệu quả đáng kể với các lớp phổ biến, giảng dạy về khoa học kĩ thuật về nông,
lâm, ngư nghiệp đem đến những tri thức khoa học hiện đại. Hội phụ nữ kết hợp
với phòng dịch vụ khuyến nông địa phương xây dựng được nhiều tủ sách, mô
hình khuyên nông, lâm, ngư. Từ những mô hình đó xuất hiện nhiều tấm gương
sang trong việc làm giàu từ nông thôn.
2. Hạn chế
Thực thi các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, Việt Nam tuy đã đạt được
một số thành tựu trên con đường đấu tranh vì bình đẳng giới nhưng cũng đứng
trước nhiều thách thức, trong đó chủ yếu là khoảng cách giữa quy định của pháp
luật về bình đẳng giới và vấn đề thực thi luật trên thực tế.
Bà Nguyễn Thị Thu Hà, Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam đánh giá, sau 5
năm thực hiện Nghị quyết 11 về Công tác Phụ nữ thời kỳ CNH- HĐH đất nước,
thực hiện Luật Bình đẳng giới, công tác phụ nữ và bình đẳng giới đã đạt được
những bước tiến đáng khích lệ. Tuy nhiên, sự chuyển biến đó chưa xứng đáng với
tiềm năng và đóng góp của lực lượng cán bộ nữ. Một số chỉ tiêu về tỷ lệ nữ lãnh
đạo nhiều nhiệm kỳ chưa đạt và có xu hướng giảm như chỉ tiêu nữ tham gia Quốc
hội, nữ ủy viên BCH TW Đảng (chỉ đạt 8,57%), nữ ủy viên BCH Đảng bộ tỉnh
nhiệm kỳ này đạt 11,3%. Cán bộ nữ ở vị trí ra quyết định và hoạch định chính
sách chiếm tỷ lệ thấp. Đặc biệt, nhiều tỉnh, thành có tỷ lệ nữ trong quy hoạch cấp
8


ủy rất thấp (dưới 15%). Phó Chủ tịch Hội Nguyễn Thị Thu Hà nhấn mạnh, một
trong những nguyên nhân của hạn chế trên là do hệ thống văn bản pháp luật về

bình đẳng giới, chính sách để tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển còn thiếu đồng
bộ, chưa đúng theo tinh thần Nghị quyết 11 về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và
bố trí, sử dụng cán bộ nữ.
Nghiên cứu của CEPEW về thực trạng phụ nữ tham chính tại 5 địa bàn
khảo sát là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Trà Vinh, Đắc Lắc cũng cho
thấy, mặc dù xu hướng chung là tỷ lệ phụ nữ tham gia chính trị có tăng lên song
khoảng cách giới về số và chất lượng trong tham chính vẫn tồn tại. Vị trí phụ nữ
giữ các vị trí quan trọng vẫn hạn chế (chủ yếu là cấp phó). Ví dụ, có 3/5tỉnh/TP
có nữ Phó Bí thư (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh); 5 tỉnh có Phó Chủ tịch
UBND là nữ; 2/5 tỉnh có ủy viên Ban Thườngvụ, Trưởng ban Tổ chức cán bộ là
nữ. Nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố tác động về mặt chính sách, các ảnh hưởng
thuận lợi cũng như các rào cản hạn chế phụ nữ tham chính. Rào cản chính trong
việc phụ nữ tham chính không phải do bất cập về năng lực hay động cơ mà là các
yếu tố về gia đình, quan niệm về vai trò giới. Việc các chính sách về độ tuổi, chỉ
tiêu, quy trình quy hoạch… không tính đến đặc thù giới càng làm cho việc tham
chính trở nên ít thuận lợi hơn với phụ nữ. Mặt khác, hạn chế về tổ chức bộ máy,
cơ chế phối hợp và năng lực thực hiện của bộ máy tham gia vào việc tăng cường
phụ nữ tham chính chưa đủ mạnh cả về nhân lực lẫn cơ chế phối hợp dẫn đến
nhiều chính sách và kế hoạch được đưa ra nhưng chưa đạt hiệu quả.
Không phải ngẫu nhiên mà năm nay Liên Hợp Quốc kêu gọi cả cộng đồng
thế giới cần phải trao thêm quyền cho phụ nữ và trẻ em gái đang sống ở các vùng
nông thôn trên khắp thế giới để xóa đói giảm nghèo. Thực tế cuộc sống cho thấy,
phụ nữ là lực lượng lao động nông nghiệp quan trọng, sản xuất ra phần lớn các
sản phẩm lương thực, tuy nhiên, vai trò, vị thế của họ chưa được đánh giá cao.
Phụ nữ và trẻ em gái ở khu vực nông thôn đang còn chịu nhiều thiệt thòi hơn nam
giới về cơ hội học tập, việc làm, tiếp cận thông tin và thụ hưởng các thành quả
của cuộc sống. Những điều này khiến không ít phụ nữ không thể tìm thấy hạnh
phúc thực sự cho cuộc đời mình. Với trách nhiệm làm vợ, làm mẹ, họ thường
dành rất nhiều thời gian để chăm lo cho gia đình. Điều này giải thích tại sao phần
lớn các chương trình đào tạo nghề, các khóa tập huấn nâng cao kiến thức chuyển

giao khoa học kỹ thuật đều do nam giới tham gia. Do đó, phụ nữ nông thôn không
có nhiều cơ hội để học tập, nâng cao tay nghề. Điều này dẫn đến nguồn thu nhập
mà họ đóng góp vào việc cải thiện kinh tế gia đình không nhiều, do chỉ dựa vào
mùa vụ hoặc chăn nuôi nhỏ lẻ. Phần lớn phụ nữ nông thôn không có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật. Vì thế có tới gần 1/3 việc làm của phụ nữ là lao động gia
đình. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng trong gia đình, xã hội
khi hầu hết người đàn ông đảm nhận vai trò kinh tế trụ cột.

9


Lao động nữ chỉ được nhận 86% mức tiền lương cơ bản so với nam giới.
Tiền lương cơ bản của lao động nữ trong tổng thu nhập (71%) cũng chiếm tỷ
trọng nhỏ hơn so với nam giới (73%). Tiền công chiếm phần lớn trong cơ cấu thu
nhập. Lao động nữ trong mọi loại hình doanh nghiệp đều có mức lương cơ bản
thấp hơn so với lao động nam, chiếm khoảng 68% lương cơ bản của lao động
nam. Các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ trả lương tương đối bình đẳng hơn, và
các doanh nghiệp này không chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Lao động nữ được
hưởng các khoản trợ cấp theo các quy định của Luật lao động, nhưng không phải
tất cả lao động nữ đều được nhận. Tuy vậy, cho dù được nhận thêm các khoản
phụ cấp nhưng tổng thu nhập của lao động nữ vẫn thấp hơn lao động nam, vì tiền
lương cơ bản của họ thấp hơn lao động nam trong các doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã và công ty trách nhiệm hữu
hạn. Tính gộp cả tiền lương và các khoản trợ cấp bằng tiền của lao động nữ thì
tổng thu nhập của họ cũng chỉ tương đương với 87% so với tổng thu nhập của lao
động nam
III. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN BIỆN PHÁP THÚC
ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI THỰC CHẤT TẠI VIỆT NAM.
Nghị định số 48/2009/NĐ-CP của chính phủ quy định về các biện pháp
đảm bảo Bình đẳng giới đã đưa ra một số kiến nghị hoàn hiện các biện pháp thúc

đẩy bình đẳng giới tại điều 15 và điều 16 của nghị định. Trước những biến đổi
mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta như hiện nay, đặc biệt là cơ cấu của nền kinh tế
có nhiều thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, phát triển công nghiệp
và dịch vụ … Do vậy nhu cầu sử dụng và cơ cấu lại lực lượng lao động của nền
kinh tế là điều không thể tránh khỏi. Sẽ có khá nhiều lao động nông nghiệp phải
chuyển đổi sang hoạt động ở các lĩnh vực phi nông nghiệp trong khi đó, khu vực
công tiếp tục thu hẹp và các đơn vị kinh tế lớn (vốn trước đây sử dụng nhiều lao
động) thuộc sở hữu nhà nước sẽ chuyển dần sang cổ phần hoá. Trong một tương lai
có thể dự đoán được, phụ nữ tiếp tục phải mang trên mình gánh nặng bất cân đối
việc nhà trong khi vẫn phải cạnh tranh ở cùng một mức độ với nam giới trong tìm
kiếm việc làm, cũng như củng cố vị trì làm việc. Việc tạo ra một sân chơi bình
đẳng với nam giới trong lao động – việc làm là điều rất cần thiết mà nỗ lực của nhà
nước nên tập trung vào các vấn đề sau đây.
Thứ nhất, trước mắt cũng như lâu dài vấn đề nâng cao các kỹ năng, trình độ
chuyên môn kỹ thuật cho lao động nữ là yếu tố then chốt cần được ưu tiên bởi vấn
đề này được xem là một yếu tố chính hạn chế các cơ hội kinh tế của người phụ nữ.
Vấn đề này nếu được chú trọng sẽ giúp nâng cao vị thế của lao động nữ để có thể
từng bước cạnh tranh bình đẳng với nam giới. Đây là vấn đề quyền con người mà
nếu được giải quyết sẽ tăng cường khả năng của phụ nữ trong việc nâng cao vị trí,
quyền lực và tiếng nói của mình trong cả gia đình và xã hội.
10


Thứ hai, tiếp tục thực hiện đổi mới mạnh mẽ hơn nữa khuôn khổ pháp lý
nói chung (cả xây dựng chính sách, thực hiện chính sách) đặc biệt là các chính
sách có liên quan trực tiếp đến lao động – việc làm, đào tạo nghề, chống phân biệt
đối xử với phụ nữ… Sự phân biệt đối xử tồn tại đương nhiên vì phụ nữ phần lớn
đang làm những công việc có tay nghề thấp và cho thu nhập thấp, điều đó hạn chế
các cơ hội, trong đó các cơ hội đào tạo, thăng tiến như tham gia bầu cử hay được
đề bạt, chỉ định vào những vị trí có quyền ra quyết định đối với những phụ nữ có

năng lực là không nhiều.
Thứ ba, nghiên cứu, xem xét lại sự khác biệt tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ
để tạo sự bình đẳng hơn trong các cơ hội nghề nghiệp, cơ hội thăng tiến của phụ
nữ, để phụ nữ có khả năng cạnh tranh bình đẳng với nam giới, phát huy tối đa
nguồn lực cho sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, thúc đẩy giáo dục, cơ hội tiếp cận giáo dục góp phần giảm bất bình
đẳng giới trong nhận thức xã hội nói chung. Hiện nay phụ nữ vẫn phải mang gánh
nặng bất cân đối việc nhà trong khi vẫn dành lượng thời gian khá tương đồng với
nam giới để làm việc kiếm sống. Vấn đề này làm cho định kiến giới tồn tại dai
dẳng, là một trong những căn nguyên cơ bản của bất bình đẳng giới, cần ưu tiên
giải quyết vấn đề này vì nó có tác động tới số lượng người rất lớn – đại đa số dân
cư.
Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thông, nâng
cao nhận thức về bình đẳng giới.
Thứ sáu, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Quốc gia Vì sự
tiến bộ của Phụ nữ và hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và năng lực của
Hội Phụ nữ các cấp.
Thứ năm, bản thân chị em phải tự lực tự cường phấn đấu để vươn lên, rèn luyện
theo các tiêu chí: có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo,
có lối sống văn hoá, có lòng nhân đạo để khẳng định mình.
* KẾT LUẬN
Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới chính là sự kế thừa các quy định thể
hiện chính sách ưu tiên đối với phụ nữ và bổ sung một số nội dung xuất phát từ
tình hình thực tế về khoảng cách giới. Đây cũng là những biện pháp “đặc biệt tạm
thời” để thúc đẩy bình đẳng giới thực chất ở Việt Nam, phù hợp với quy định về
"các biện pháp đặc biệt tạm thời" được quy định tại Điều 4 của Công ước
CEDAW mà Việt Nam là thành viên. Trong thời kỳ quá độ tiến tới bình đẳng giới
thực chất, việc ban hành các biện pháp này và đánh giá mức độ thực hiện là cần
thiết.


11


Danh mục tài liệu tham khảo
-

/>

Quốc hội nước CHXHCNVN, Luật bình đẳng giới năm 2006. Hà nội,
NXB Lao động – Xã hội năm 2007
Nghị định số 48/2009/NĐ-CP của chính phủ quy định về các biện pháp
đảm bảo Bình đẳng giới
Bộ luật lao động
Bộ luật bình đẳng giới
TẠP CHÍ CỘNG SẢN ĐIỆN TỬ SỐ 19 (187) NĂM 2009 - TRƯƠNG
THỊ MAI – Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã
hội của Quốc hội

12



×