Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM, TIÊU CHUẨN CỦA CÁN BỘ,CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ; KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNGCHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.13 KB, 18 trang )

KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM, TIÊU CHUẨN CỦA CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ; KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

1. Khái niệm, vị trí vai trò, đặc điểm, tiêu chuẩn của cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã
a) Khái niệm cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Nước ta khi bước vào thời kỳ mới vừa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, vừa xây dựng và hoàn chỉnh Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa
tiến hành xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chính vì vậy,
chúng ta cần phải xây dựng cán bộ, công chức có chất lượng đồng bộ, phù hợp
với những yêu cầu mới đặt ra, đặc biệt là cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
Để làm được điều đó trước hết chúng ta cần phải làm rõ khái niệm về cán
bộ, công chức chính quyền cấp xã.
Quan niệm về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
* Quan niệm về cán bộ: Từ cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta
khoảng mấy chục năm gần đây; được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp. Từ đó đến nay thuật ngữ cán bộ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực
khác nhau, có nhiều từ điển có khái niệm cán bộ và được hiểu với nhiều nghĩa
khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, nhưng tựu chung lại có thể quan
niệm một cách chung nhất: "Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai
trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt
động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp
phần định hướng sự phát triển của tổ chức" [38, tr.20].
* Quan niệm về công chức:
Nhiều quốc gia quan niệm công chức là những nhân viên công tác, được
hưởng lương từ ngân sách, bị quy định bởi quy chế hoặc luật công chức, là người
làm việc trong hệ thống chính quyền nhà nước.


Công chức là bộ phận rất quan trọng trong nền hành chính quốc gia. Tuy


nhiên, do đặc điểm cấu trúc của hệ thống chính trị nước ta nên quan niệm về công
chức ở Việt Nam cũng có đặc thù.
Trong một số nghị quyết của Đảng cũng như một số văn bản pháp quy, mặc
dù chưa ra định nghĩa rõ ràng nhưng đã có đề cập đến khái niệm về công chức.
Theo Pháp lệnh cán bộ công chức 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và
2003) thì công chức được hiểu là:
Công dân Việt Nam, trong biên chế do được Nhà nước tuyển dụng,
bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên, làm việc liên tục trong
các cơ quan nhà nước, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã
hội hoặc trong lực lượng vũ trang mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; được xếp vào ngạch
bậc và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [46, Điều 1].
Qua gần 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và
quan trọng về kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định về chính trị và hiện nay đang đứng
trước yêu cầu đổi mới của sự phát triển. Đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao chất
lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn cũng được đặt ra.
Công chức là những người được Nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được
giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc cơ quan đơn
vị thuộc quân đội nhân dân hay công an nhân dân mà không phải là hạ sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, được phân loại theo chế độ đào tạo, ngành chuyên môn,
được xếp vào một ngạch hành chính trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước [26, tr.18].
Trên cơ sở đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX xác định: Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ
chuyên trách và cán bộ không chuyên trách.
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động
làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm: Cán bộ giữ chức vụ



qua bầu cử và cán bộ chuyên môn được ủy ban Nhân dân tuyển chọn; đội ngũ này
có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà
nước. Cán bộ, công chức cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch công
chức ở cấp trên.
Tại Điểm g, h Khoản 1, Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 26/2/1998 (được ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua ngày 29/4/2003) quy định: Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức
vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban Nhân dân; Bí thư,
Phó Bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn,
những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc
ủy ban Nhân dân cấp xã được gọi là cán bộ, công chức trong biên chế nhà nước; được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Trên cơ sở lý luận về chính quyền (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân);
cán bộ, công chức cũng như các quy định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
thì cán bộ công chức chính quyền cấp xã hiện nay bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau đây gọi
chung là cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm có các chức vụ sau đây:
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
Cán bộ chuyên trách là những người dành phần lớn thời gian làm việc cho
công việc của mình để thực hiện nhiệm vụ và trọng trách mà nhân nhân dân giao
phó.
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã), gồm có
các chức danh sau đây:
+ Trưởng ban công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy).
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng;



+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội;
Công chức cấp xã làm công tác chuyên môn, giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực như: văn phòng, thống kê; an ninh; quân sự; địa
chính, xây dựng; tài chính, kế toán; văn hóa, xã hội; tư pháp, hộ tịch; ngoài ra
những công chức này công thực hiện các nhiệm vụ khác khi được thường trực Uỷ
ban nhân dân cấp xã giao.
Ở chính quyền cấp xã, ngoài chức danh cán bộ chuyên trách, công chức còn
có đội ngũ cán bộ không chuyên trách và cán bộ thôn, bản bao gồm:
+ Phó trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy).
+ Phó chỉ huy trưởng quân sự.
+ Cán bộ Kế hoạch- Giao thông- Thuỷ lợi- Nông, Lâm, Ngư nghiệp.
+ Cán bộ Lao động-Thương binh-Xã hội.
+ Cán bộ Dân số- Gia đình và Trẻ em.
+ Thủ quỹ- Văn thư- Lưu trữ.
+ Cán bộ phụ trách đài truyền thanh
+ Cán bộ quản lý Nhà văn hoá.
+ Trưởng thôn, bản, tổ dân phố.
+ Công an viên ở thôn, bản, tổ dân phố.
Cán bộ không chuyên trách ở cấp xã là những người không làm công việc
thường xuyên, liên tục, không hưởng lương từ ngân sách của nhà nước. Những
người này họ được hưởng phụ cấp hàng tháng do Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau:
Khái niệm cán bộ chính quyền cấp xã: Cán bộ chính quyền cấp xã là công
dân Việt Nam trong biên chế; được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, gồm
những người được bầu giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều



hành thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Khái niệm công chức chính quyền cấp xã: Công chức chính quyền cấp xã là
công dân Việt Nam trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, được
tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân
cấp xã thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Khái niệm cán bộ, công chức chính quyền cấp xã: Cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã là công dân Việt Nam, trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách
nhà nước theo quy định của pháp luật, làm việc tại Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân cấp xã do được bầu để giữ chức vụ, hoặc được tuyển dụng giao giữ chức
danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Để nâng cao hiệu lực hoạt động của chính quyền cấp xã cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã không những cần phải có nhiệt tình cách mạng, có phẩm chất tốt,
đạo đức tốt mà còn cần phải có tri thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực
công tác để hoàn thành nhiệm vụ.
b) Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin đã từng nêu cao vai trò của
người cán bộ. Lênin chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được
quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong
trào" [16, tr.473].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến cán bộ, coi đây là vấn đề then
chốt. Người khẳng định: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình
của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng"
[21, tr.269].



Khẳng định vị trí, vai trò của người cán bộ, đòi hỏi người cán bộ phải có
những đức tính tốt, Hồ Chí Minh cũng không cực đoan cho rằng cán bộ chỉ có tính
tốt hay toàn tính tốt, mà cán bộ trước hết cũng là con người, có thể có cả tính xấu.
Nhưng người cán bộ phải biết nhận biết, sửa chữa, loại bỏ tính xấu, phát triển tính
tốt của mình; đồng thời Hồ Chí Minh cũng không cho rằng cán bộ là nhân tố quyết
định tất cả, mà "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân"[21, tr.197],
còn vai trò quyết định của cán bộ là ở chỗ nhận thức được để đi trước, làm gương,
lãnh đạo.
Vai trò hết sức quan trọng của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng còn thể
hiện ở chỗ: nếu thiếu họ thì không có cách mạng, mục tiêu đề ra không thể hoàn
thành, cán bộ có vai trò quyết định đối với công việc “Muôn việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [20, tr.240].
Cán bộ, công chức có vị trí, vai trò quan trọng đối với cơ quan, tổ chức. Cán
bộ, công chức là thành viên, phần tử cấu thành tổ chức bộ máy. Cán bộ, công chức
có quan hệ mật thiết với tổ chức và quyết định mọi sự hoạt động của tổ chức. Hiệu
quả hoạt động trong tổ chức, bộ máy phụ thuộc vào cán bộ. Cán bộ, công chức tốt
sẽ làm cho bộ máy hoạt động nhịp nhàng, cán bộ, công chức kém sẽ làm cho bộ
máy tê liệt "Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt" [21, tr.54].
Đối với công việc "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém" [21, tr.269, 240].
Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng nhận định: "Cán bộ là nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [12, tr.34].
Vốn quý nhất của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là cán bộ. Cán bộ là một
trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của sự
nghiệp cách mạng. Lênin chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành



được quyền thống trị nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những
lãnh tụ chính trị, người đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào” [16, tr.478]. Năm 1922, khi đã giành được chính quyền, Lênin khẳng
định: "Nghiên cứu con người, tìm ra những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then
chốt, nếu không thế thì tất cả mệnh lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy lộn" [17,
tr.449].
Để xây dựng đất nước Việt Nam độc lập có chủ quyền với mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hồ Chí Minh cũng đã
khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và công việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém" [21, tr.273].
Đảng ta luôn coi cán bộ có vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách mạng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) khẳng định trong công cuộc đổi mới
đất nước thì:
Cán bộ hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới. Cán bộ nói
chung có vai trò rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí nền tảng
cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chất lượng và hiệu quả thực thi
pháp luật một phần được quyết định bởi sự triển khai ở cơ sở. Cấp cơ sở
là cấp trực tiếp gắn với quần chúng; tạo dựng phong trào cách mạng
quần chúng. Cơ sở xã, phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan
trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn [13,
tr.21].
Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có một ví trí vô cùng quan trọng trong
hoạt động quản lý điều hành ở cơ sở. Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là
người đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo đúng
chính sách và thẩm quyền được giao. Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là
những người hàng ngày trực tiếp tiếp xúc với dân, đưa chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống và biến thành hành động
cách mạng của quần chúng.



Chất lượng và số lượng tùy thuộc vào quá trình tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và tự rèn luyện một cách chủ động, sáng tạo của từng cá nhân và các cấp uỷ
Đảng, chính quyền, Đoàn thể. Quan điểm này được thể hiện rõ trong các nghị quyết
của Đảng; đặc biệt gần đây nhất Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) nhấn mạnh:
Tích cực trẻ hóa và từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức cơ
sở. Phấn đấu từ nay đến năm 2005 có khoảng 70-80% cán bộ chuyên trách giữ
chức vụ qua bầu cử được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn quy định; khoảng
80% cán bộ, công chức chuyên môn có trình độ trung cấp trở lên đối với
đồng bằng, sơ cấp trở lên đối với miền núi [15].
Trên thực tế cán bộ, công chức chính quyền cấp xã hàng ngày cọ sát với thực
tiễn rất phức tạp thuộc nhiều lĩnh vực nên họ cần phải có bản lĩnh, có bề dày kinh
nghiệm và hiểu biết. Song họ lại ít được đào tạo, bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ và
thông tin về chính sách pháp luật. Việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với
họ cũng chưa tương xứng. Thực tế này là một trong những nguyên nhân làm hạn
chế năng lực trình độ quản lý điều hành của cán bộ, công chức chính quyền ở cơ sở.
Như vậy, cán bộ, công chức là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là
nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Ngoài những vị trí, vai trò trên cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
còn có vị trí, vai trò thể hiện những phương diện sau đây:
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã vừa là người đại diện Nhà nước,
vừa là người đại diện cộng đồng, vừa là người cùng làng, cùng họ, vừa là người
dân, là người gần gũi dân, sát dân nhất cho nên họ là người trực tiếp nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng tình cảm của dân để phản ánh lên các cấp chính quyền để các cấp
chính quyền đặt ra chính sách đúng. Thực tế cho thấy, ở đâu mà cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã gần dân, hiểu dân, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của
dân thì ở đó các cấp chính quyền sẽ đề ra chính sách đúng, ngược lại ở đâu mà cán
bộ chính quyền cấp xã quan liêu, hách dịch, cửa quyền thì sẽ đề ra chính sách
không phù hợp.



- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, phổ
biến đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cho nhân dân và
vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách, pháp luật đó trong cuộc
sống. Là người tiên phong gương mẫu trong việc thực hiện chính sách pháp luật và
xây dựng gia đình văn hóa ở khu dân cư.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người trực tiếp giải quyết những
yêu cầu, những thắc mắc về lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người am hiểu các phong tục
tập quán, truyền thống dân tộc của địa phương, họ là người tập hợp được khối
đại đoàn kết toàn dân ở cơ sở, là người phát huy tính tự quản của cộng đồng dân
cư.
Tóm lại, cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người có vị trí, vai trò
quan trọng trong việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện phát huy tính tự quản trong cộng
đồng dân cư.
c) Đặc điểm của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người gần dân, sát dân,
biết dân, trực tiếp triển khai đường lối của Đảng, chính sách pháp lụât của Nhà
nước vào dân, gắn bó với nhân dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có tính ổn định thấp so với cán bộ,
công chức nhà nước cấp trên.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có tính chuyên môn hoá thấp, kiêm
nghiệm nhiều.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người đại diện cho quần chúng
nhân dân lao động ở cơ sở. Vì vậy cán bộ, công chức luôn bám sát dân, gần dân, lắng
nghe ý kiện nguyện vọng của nhân dân từ đó có những cách thức tiến hành công việc
phù hợp và đảm bảo cho lợi ích chính đáng của nhân dân.



- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người trực tiếp giải quyết tất cả
các yêu cầu, quyền lợi chính đáng từ nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người xuất phát từ cơ sở
(người của địa phương), họ vừa trực triếp tham gia lao động lao động sản xuất, vừa
là người đại diện cho nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước, giải quyết
các công việc của nhà nước. Do đó xét ở khía cạnh nào đó cán bộ, công chức cấp xã
bị chi phối, ảnh hưởng rất nhiều bởi những phong tục tập quán làng quê, những nét
văn hóa bản sắc riêng đặc thù của địa phương, của dòng họ.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã do dân bầu ra (có nơi chiếm 60%)
chính vì vậy số lượng thường xuyên bị biến động do hết nhiệm kỳ nhân dân lại bầu
những đại diện mới.
- Cán bộ, công chức cấp xã cả nước hiện nay rất đông (gần bằng số lượng
cán bộ, công chức hành chính của trung ương và 64 tỉnh thành cộng lại). Tuy nhiên
về chất lượng lại rất yếu, độ tuổi tương đối già, chính vì vậy nó là những nguyên
nhân dẫn đến hiệu quả giải quyết công việc không cao.
d) Tiêu chuẩn của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Tiêu chuẩn cán bộ, công chức là vấn đề rất quan trọng trong công tác cán
bộ. Đó là cơ sở để tiến hành tổ chức, xem xét, đánh giá, lựa chọn, bố trí sắp xếp và
sử dụng cán bộ; đó cũng là cơ sở để bản thân mỗi người cán bộ phấn đấu, tự rèn
luyện, hoàn thiện mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi cán bộ phải là người "Có
nhiều trí tuệ hơn một chút, nhiều sự phân minh trong tư tưởng hơn một chút… và
kiến thức rộng" [19, tr.389], và yêu cầu người cán bộ "Không nấp sau một chế độ
quan liêu giấy tờ, không ngại thừa nhận những sai lầm của mình bằng cách sửa
chữa những sai lầm ấy"[19, tr.35].
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đánh giá rất
cao vị trí, vai trò của người cán bộ, đồng thời cũng đòi hỏi ở người cán bộ phải có
những tiêu chuẩn nhất định, phải tự giác rèn luyện mình về mọi mặt, không ngừng



nâng cao phẩm chất, năng lực để xứng đáng với vị trí, vai trò của mình. Đưa ra
những tiêu chuẩn đó đối với cán bộ là Hồ Chí Minh xuất phát từ những yêu cầu
khách quan của cách mạng chứ không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của mình. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về những tiêu chuẩn ấy mang tính toàn diện và đầy đủ, gồm các
tiêu chuẩn về đạo đức, phẩm chất năng lực, về trình độ lý luận, về phong cách và
phương pháp của người cán bộ.
Trong bất kỳ một hệ thống công chức nào, tiêu chuẩn công chức theo ngạch
hay theo vị trí việc làm đều có vai trò rất quan trọng. Đó là cơ sở để tuyển dụng, bố
trí sử dụng, đào tạo bồi dưỡng. Tiêu chuẩn cũng là căn cứ để mỗi công chức yên
tâm làm việc theo chức trách được giao, xác định hướng phấn đấu, nâng cao trình
độ và khả năng làm việc, các cấp quản lý cũng căn cứ vào đó để tạo điều kiện cho
cán bộ, công chức có cơ hội được học tập, bồi dưỡng. Thực hiện việc công chức
hóa cán bộ, công chức cấp xã, Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 04/2004/QĐBNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối
với cán bộ, công chức cấp xã. Quy định đã xác định rõ chức trách, nhiệm vụ của
từng chức vụ, chức danh trong cán bộ, công chức cấp xã. Để thực hiện được chức
trách, nhiệm vụ được giao đòi hỏi cán bộ, công chức cấp xã phải đáp những tiêu
chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể.
* Tiêu chuẩn chung:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ở địa phương.
- Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, công tâm, thạo việc, tận tụy với
dân, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ
chức kỷ luật trong công tác. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân
dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ học vấn, chuyên môn, đủ năng lực
và sức khỏe để làm việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.



* Tiêu chuẩn cụ thể:
Tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ, công chức cấp xã là căn cứ để các địa phương
thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch, bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi
dưỡng, xếp lương, nâng bậc lương và các chế độ, chính sách khác. Tiêu chuẩn cụ
thể của cán bộ, công chức cấp xã được xác định theo từng chức vụ, chức danh như
sau:
- Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân:
+ Tuổi đời: Do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định, nhưng tuổi
tham gia lần đầu phải đảm bảo làm việc ít nhất hai nhiệm kỳ.
+ Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học.
+ Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với
khu vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương
đương trình độ sơ cấp.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên đối với khu
vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn (tương
đương trình độ sơ cấp trở lên), nếu tham gia giữ chức vụ lần đầu phải có trình độ trung
cấp chuyên môn trở lên. Đã qua lớp bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước, nghiệp
vụ quản lý kinh tế, kiến thức và kỹ năng hoạt động đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân:
+ Tuổi đời: Do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng tuổi
tham gia lần đầu phải đảm bảo làm việc ít nhất hai nhiệm kỳ.
+ Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp Phổ thông trung học.
+ Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với
khu vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương
đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên đối với
khu vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
tương đương trình độ sơ cấp trở lên, nếu tham gia giữ chức vụ lần đầu phải có trình



độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đã qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước,
quản lý kinh tế.
- Đối với công chức Tài chính - Kế toán:
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và
đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận
chính trị với trình độ tương đương sơ cấp trởlên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp Tài
chính Kế toán trở lên. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay,
tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn Tàichính - Kế toán; nếu mới được
tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trungcấp Tài chính - Kế toán trở lên. Phải qua
bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước sau khi tuyển dụng. ở khu vực đồng bằng
và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch
+ Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và
đô thị; tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận
chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp
Luật trở lên và phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã sau khi được
tuyển dụng. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu
được bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ tư pháp cấp xã; nếu mới được tuyển dụng
lần đầu phải có trình độ trung cấp luật trở lên. Phải qua bồi dưỡng quản lý hành
chính Nhà nước sau khi được tuyển dụng, ở khu vực đồng bằng và đô thị phải
sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Địa chính - Xây dựng



+ Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và
đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phảI được bồi dưỡng lý luận
chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trìnhđộ trung cấp Địa
chính hoặc trung cấp Xây dựng trở lên. Với công chức đang công tác ở khu vực
miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn Địa chính hoặc
xây dựng; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp Địa chính
hoặc xây dựng trở lên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng về quản lý đất
đai, đo đạc bản đồ, quản lý hành chính Nhà nước. ở khu vực đồng bằng và đô thị
phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Văn phòng - Thống kê.
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và
đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận
chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp
Văn thư, lưu trữ hoặc trung cấp Hành chính, trung cấp Luật trở lên. Với công
chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến
thức chuyên môn về một trong các ngành chuyên môn trên; nếu mới được tuyển
dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp của một trong ba ngành chuyên môn
trên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước
(nếu chưa qua trung cấp hành chính). Ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử
dụng được kỹ thuật tin học phục vụ công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Văn hoá - Xã hội
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.



+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và
đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận
chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng phải đạt trung cấp về văn
hoá nghệ thuật (chuyên ngành) hoặc trung cấp quản lý Văn hoá - Thông tin hoặc
trung cấp nghiệp vụ Lao động - Thương binh và xã hội trở lên. Với công chức
đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn về một trong các ngành chuyên môn trên; nếu mới được tuyển dụng
lần đầu phải có trình độ trung cấp trở lên về một trong các ngành chuyên môn nêu
trên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước và
ngành chuyên môn còn thiếu liên quan tới nhiệm vụ được giao. Sử dụng thành thạo
các trang thiết bị phù hợp với ngành chuyên môn. Ở khu vực đồng bằng và đô thị
phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác.
- Đối với công chức Trưởng Công an xã.
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng, tốt
nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp lý
luận chính trị trở lên ở khu vực đồng bằng, có trình độ tương đương sơ cấp lý luận
chính trí trở lên ở khu vực miền núi.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng phải đạt trình độ tương đương
trung cấp chuyên môn ngành công an trở lên. Với công chức đang công tác ỏ khu vực
miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn ngành công an,
nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải được bồi dưỡng chương trình huấn luyện
trưởng công an xã theo quy định của Công an cấp trên. Sau khi được tuyển dụng phải
qua bồi dưỡng quản lýhành chính Nhà nước. Sử dụng thành thạo các trang thiết bị phù
hợp với ngành chuyên môn.



- Đối với công chức Chỉ huy trưởng Quân sự
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và
đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khuvực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp lý
luận chính trị trở lên ở khu vực đồng bằng, có trình độ tương đương sơ cấp lý luận
chính trị trở lên ở khu vực miền núi.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng phải đạt trình độ tương
đương trung cấp về quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên. Đối với công
chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn ngành quân sự; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải tương đương
trung cấp quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên. Sau khi được tuyển dụng
phải qua bồi dưỡng quản lý Nhà nước về quốc phòng cấp xã. Sử dụng thành thạo
trang, thiết bị phục vụ công tác chuyên môn.
Ngoài những tiêu chuẩn cụ thể trên, những cán bộ, công chức cấp xã công
tác tại các nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phải biết ít nhất tiếng của
một dân tộc thiểu số.
1.1.2. Khái niệm chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Theo Từ điển tiếng Việt thì chất lượng hiểu ở nghĩa chung nhất là "cái tạo
nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc" [25, tr.44].
Đối với một con người sống trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chất lượng của cá nhân đó được hiểu là tổng hợp những phẩm chất nhất định về
sức khỏe, trí tuệ, khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí,
niềm tin, năng lực; luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng và tham gia một cách
tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu chất lượng đối với mỗi
người trong xã hội nói chung vốn đã cao thì yêu cầu đối với chất lượng cán bộ,
công chức càng cao hơn - đòi hỏi người cán bộ, công chức có những trình độ phẩm



chất theo yêu cầu như nêu ở trên thì người cán bộ phải gương mẫu, đi tiên phong
về lý luận và thực tiễn, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước; giữ vững tiêu chuẩn và tư cách của người cán bộ.
Mỗi cán bộ, công chức không tồn tại một cách biệt lập mà phải được đặt
trong một chỉnh thể thống nhất của cả đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, quan
niệm về chất lượng cán bộ, công chức phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng
giữa chất lượng của từng cán bộ, công chức với chất lượng của cả đội ngũ. Chất
lượng của cả đội ngũ không phải là sự tập hợp giản đơn số lượng mà là sự tổng
hợp sức mạnh của toàn bộ đội ngũ. Sức mạnh này bắt nguồn từ phẩm chất vốn có
bên trong của mỗi cán bộ và nó được tăng lên gấp bội bởi tính thống nhất của tổ
chức; của sự giáo dục, đào tạo, phân công, quản lý, của kỷ luật.
Như vậy, có thể nói chất lượng cán bộ, công chức bao gồm:
- Chất lượng của từng cán bộ, công chức; cụ thể là phẩm chất chính trị, đạo
đức; trình độ năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng của từng cán
bộ, công chức là yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng của cả đội ngũ.
- Chất lượng của cả đội ngũ với tính cách là một chỉnh thể, thể hiện ở cơ cấu
đội ngũ được tổ chức khoa học, có tỷ lệ cân đối, hợp lý vì số lượng và độ tuổi bình
quân được phân bố trên cơ sở các địa phương, đơn vị và lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội.
Như vậy, các yếu tố cấu thành chất lượng cán bộ, công chức không chỉ bao
gồm một mặt, một khía cạnh nào đó, mà nó bao gồm cả một hệ thống, được kết cấu
như một chỉnh thể toàn diện từ chất lượng của từng cán bộ, công chức (đây là yếu
tố cơ bản nhất, tiên quyết nhất) cho đến cơ cấu số lượng nam nữ, độ tuổi, thành
phần cùng với việc bồi dưỡng, giáo dục, phân công, quản lý kiểm tra giám sát và
thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền
nhân dân.
Để nâng cao chất lượng của cán bộ, công chức, cần phải giải quyết tốt mối
quan hệ giữa chất lượng với số lượng cán bộ, công chức. Chỉ khi nào hai mặt này



quan hệ hài hòa, tác động hữu cơ với nhau thì mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của
cả đội ngũ. Trong thực tế chúng ta cần phải chống hai khuynh hướng, khuynh
hướng thứ nhất là chạy theo số lượng, ít chú trọng đến chất lượng dẫn đến cán bộ
nhiều về số lượng nhưng hoạt động không hiệu quả.
Khuynh hướng thứ hai, cầu toàn về chất lượng nhưng không quan tâm đến
số lượng. Khuynh hướng này là một nguyên nhân quan trọng làm cho tuổi đời bình
quân của cán bộ, công chức ngày càng cao, hẫng hụt về thế hệ.
Trong giai đoạn hiện nay thì cần hơn hết là phải coi trọng chất lượng của
cán bộ, công chức trên cơ sở bảo đảm số lượng hợp lý.
Từ những đặc điểm trên có thể khái niệm: Chất lượng cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã là một hệ thống những phẩm chất, giá trị được kết cấu như một
chỉnh thể toàn diện được thể hiện qua phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức,
trình độ năng lực, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức và cơ
cấu, số lượng, độ tuổi, thành phần của cả đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã.



×