Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG tác lập và QUẢN lý dự án đầu tư đổi mới CÔNG NGHỆ và THIẾT bị xây DỰNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.4 KB, 25 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU
TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG

I. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ XÂY
DỰNG GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH HÀ NỘI

1. Đôi nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Hà Nội (tên giao dịch quốc tế là
CCIC ) là doanh nghiệp Nhà nước loại I, được thành lập theo quyết định số
702/QĐUB, ngày 31 tháng 5 năm 1996 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội,
trên cơ sở đổi tên và bổ sung nhiệm vụ cho Công ty khảo sát thiết kế GTCC Hà
Nội ( tên cũ của công ty).
- Chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng số 254/BXD – CSXD do Bộ Xây dựng
cấp ngày 11 tháng 12 năm 1998.
- Đăng ký kinh doanh số 100637, 305688 và 305689 do Uỷ ban kế hoạch ( Sở Kế
hoạch và đầu tư ) thành phố Hà Nội cấp ngày 13 tháng 4 năm 1995 và ngày 16
tháng 9 năm 1995.
-

Công ty bao gồm 2 xí nghiệp trực thuộc là xí nghiệp xây lắp và xí nghiệp khảo
sát và 8 đội sản xuất, mỗi xí nghiệp có một giám đốc và một phó giám đốc; mỗi
đội sản xuất đều có đội trưởng để điều hành đội sản xuất. Cả hai xí nghiệp trực
thuộc được phép hạch toán độc lập, có con dấu riêng, có tài khoản tại ngân
hàng. Các đơn vị trực thuộc vẫn phải gửi hoá đơn lên để công ty hoạch toán.
Quy định cụ thể về việc sử dụng tài khoản của hai xí nghiệp như sau:


- Xí nghiệp xây lắp:
+ Đối với những hợp đồng kinh tế về tư vấn, khảo sát – thiết kế: Giám đốc công
ty ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản thu chi của công ty và hạch toán
đối với xí nghiệp xây lắp theo đúng quy chế hạch toán và khoán sản phẩm nội


bộ ban hành ngày 5 tháng 4 năm 1999.
+ Đối với những hợp đồng kinh tế về thi công xây lắp: Giám đốc công ty uỷ
quyền cho Giám đốc Xí nghiệp xây lắp ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài
khoản của xí nghiệp. Xí nghiệp tự hạch toán, làm nhiệm vụ đối với Nhà nước và
thực hiện trách nhiệm tài chính đối với Công ty theo quy chế ban hành ngày 5
tháng 4 năm 1999.
Trong trường hợp chủ đầu tư yêu cầu phải sử dụng tài khoản của công ty trong
hợp đồng kinh tế thì Giám đốc uỷ quyền cho Giám đốc Xí nghiệp sử dụng tài
khoản của Công ty để thanh toán, quyết toán với chủ đầu tư.
- Xí nghiệp khảo sát
+ Đối với những công trình được giao theo Kế hoạch Pháp lệnh ( A1) và các
công trình do công ty tự khai thác ( A2): Giám đốc công ty trực tiếp ký hợp
đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản của Công ty. Xí nghiệp khảo sát thực hiện
nhiệm vụ sản xuất theo đúng phiếu giao việc của Công ty. Việc hạch toán và
phân bổ lợi ích với Xí nghiệp được thực hiện theo đúng quy chế đã ban hành
ngày 5 tháng 2 năm 1999.
+ Đối với công trình do xí nghiệp tự khai thác ( A3): Giám đốc công ty uỷ
quyền cho giám đốc Xí nghiệp khảo sát ký hợp đồng trực tiếp với chủ đầu tư
bằng khoản thu của Xí nghiệp. Xí nghiệp tự hạch toán, làm nhiệm vụ đối với
nhà nước và thực hiện trách nhiệm tài chính đối với Công ty theo quy chế ban
hành ngày 14 tháng 4 năm 1999.
Cả hai xí nghiệp đều có bộ phận nghiệp vụ chuyên ngành kế hoạch nghiệp vụ để
giúp Giám đốc Xí nghiệp quản lý hạch toán theo chế độ chính sách hiện hành
cũng như các quy định của Công ty. Các xí nghiệp phải làm văn bản báo cáo
định kỳ hàng tháng và hàng quý tình hình thu – chi theo nghiệp vụ quản lý tài
chính của đơn vị cho phòng Tài vụ của Công ty để tổng hợp thành báo cáo
chung trình các cơ quan quản lý doanh nghiệp.
Các khoản chi phí để duyệt đề cương, hội họp, duyệt quyết toán về các nội dung
khảo sát trong Hợp đồng kinh tế đối với các công trình A1, A2 đều do Công ty



thực hiện. Khi quyết toán công trình, phòng Tài vụ lập báo cáo tổng hợp các chi
phí sản xuất, trình Giám đốc công ty xem xét để xác định phần trách nhiệm của
Xí nghiệp khảo sát theo nguyên tắc “Các chi phí sản xuất được phân bổ theo tỷ
trọng giá trị mà chủ đầu tư thanh toán cho tư vấn, thiết kế và cho khảo sát”. Đối
với các công trình lớn, phòng tài vụ và phòng kế hoạch – kỹ thuật cần hạch toán
đầy đủ các khoản Chi phí trong quá trình thực hiện Hợp đồng kinh tế để phân bổ
trách nhiệm đóng góp một cách hợp lý cho các đơn vị tham gia.
2. Thực trạng tình hình đầu tư ở Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng
GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH Hà Nội
Trong thời gian qua, với xu thế hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam
nói chung và tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC đã nhận thức được
rằng để nâng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng, để khai thác triệt
để các tiềm năng sẵn có, tạo điều kiện phát triển vốn với chủ trương phát triển
sản xuất kinh doanh thì không thể không có các hoạt động đầu tư. Do đó, trong
những năm gần đây, công ty đã tiến hành đầu tư vào các lĩnh vực sau:
- Đầu tư xây dựng cơ bản.
- Đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng
- Đầu tư vào nguồn nhân lực.

Biểu 1 : Tình hình đầu tư của công ty trong những năm qua.

Năm

Đơn vị

TổngmứcVĐT Triệu đồng

1997


1998

1999

2000

2001

2002

8434

7984

13285

19801

13857

11028

VĐT XDCB

-

900

1520


2400

1236

870

724

VĐT CN &

-

7500

6400

10800

18400

12800

10100


thiết bị XD
VĐT nhân lực

-


34

64

85

165

187

204

Tốc độ phát

%

-

94.66

166.4

148.0

69.9

79.6

triển liên hoàn
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC


Biểu trên cho thấy tình hình đầu tư thực tế của công ty luôn đạt ở mức cao suốt
từ năm 1998 cho đến nay. Đặc biệt vào các năm 1999 và 2000, tốc độ tăng
trưởng đã lên đến 166.4% và 148%. Nguyên nhân của sự tăng đầu tư mạnh
trong giai đoạn này là do năm 1997, công ty được đổi tên mới và bổ sung chức
năng nhiệm vụ ( tên cũ là Công ty khảo sát thiết kế GTCC Hà Nội ) nên công ty
đã tiến hành đâu tư rất mạnh trên các mặt Xây dựng cơ bản và máy móc công
nghệ. Trong giai đoạn này công ty đã tiến hành xây dựng thêm hai hạng mục
công trình lớn tại Hà Nội làm trụ sở cho xưởng Thiết kế đô thị 2 và Xưởng thiết
kế cầu đường 2 (thuộc Xí nghiệp khảo sát) và mở rộng trụ sở của Xí nghiệp Xây
lắp. Đồng thời công ty cũng mạnh dạn vay vốn ngân hàng để đầu tư mới nhiều
thiết bị thi công hiện đại để tạo cơ sở mở rộng sản xuất kinh doanh. Sang đến
năm 2001 cho đến nay, tình hình đầu tư vào xây dựng cơ bản và công nghệ thiết
bị thi công của Công ty giảm dần do đã tạo được một khối lượng tài sản cố định
tương đối đầy đủ. Thay vào đó, công ty lại tăng cường đầu tư vào nguồn nhân
lực của mình trên tất cả các mặt: chính trị ,tư tưởng cũng như những kiến thức
và tay nghề chuyên môn. Tuy nhiên cho đến thời điểm này, đội ngũ cán bộ có
tay nghề cao của công ty hãy còn rất mỏng, việc tiếp cận với công nghệ thi công
mới, hiện đại hãy còn nhiều bỡ ngỡ do trước đó chủ yếu sử dụng công nghệ thi
công từ Liên Xô cũ và các nước XHCN. Vì vậy, trong những năm gần đây, đầu


tư vào nguồn nhân lực lại càng được Công ty quan tâm sâu hơn nữa. Cụ thể là
công ty thường sử dụng những hình thức đầu tư vào nguồn nhân lưc bằng cách:
- Liên kết với một số trường đại học như Đại học Xây dựng, đại học Kiến Trúc,
Đại học GTVT... đầu tư cho sinh viên học tập để tiếp nhận khi ra trường.
- Tuyển chọn đội ngũ lao động trẻ, có trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn
cao đi đào tạo thời chuyên môn kỹ thuật ở nước ngoài.
- Thông qua các chuyên gia nước ngoài để đào tạo thực tiễn cán bộ, chuyên gia,
công nhân kỹ thuật của mình. Đây là một hình thức đầu tư nhanh, hiệu quả để bắt

kịp với nhu cầu lao động có trình độ cao của công ty.
Cho đến thời điểm hiện nay, về cơ bản lực lượng cán bộ chuyên môn kỹ thuật,
kỹ sư của công ty đã có thể đảm đương được hầu hết các công việc trong toàn
bộ dây chuyền sản xuất kinh doanh xây dựng hạ tầng giao thông. Tuy nhiên mức
độ linh hoạt và tinh xảo của các kỹ năng cũng như mức độ am hiểu về công
nghệ kỹ thuật tiên tiến trên thế giới của cán bộ và công nhân kỹ thuật hãy còn
hạn chế và đòi hỏi phải tiếp tục rèn luyện qua đào tạo thực tế thi công.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY
DỰNG CỦA CÔNG TY.

1. Đánh giá chung về hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây
dựng của công ty.
Máy móc và công nghệ xây dựng có tầm quan trọng đặc biệt đối với doanh
nghiệp xây dựng. Chính vì thế các doanh nghiệp đều coi đây là chìa khoá mở ra
và tạo đà cho chính sách, chiến lược phát triển doanh nghiệp. Thực trạng về đầu
tư mua sắm máy móc xây dựng có thể được phân theo các giai đoạn sau:


- Giai đoạn trước năm 1990: Thực tế hoạt động đầu tư mua sắm thiết bị của
doanh nghiệp thiết kế và xây dựng công trình giao thông chịu ảnh hưởng của cơ
chế tập trung bao cấp. Thị trường xây dựng về cơ bản chưa thực hiện cơ chế đấu
thầu, các công trình xây dựng chủ yếu được chỉ định thầu, hoặc bằng hình thức
giao nhiệm vụ theo kế hoạch của nhà nước, vì thế máy móc thi công cũng được
coi là một khâu đảm bảo kế hoạch của Nhà nước. Mặt khác do công nghệ xây
dựng đường chủ yếu từ Liên Xô và các nước XHCN và việc cung cấp máy móc
xây dựng qua thị trường này tương đối dồi dào bằng hình thức nhập khẩu theo
kế hoạch với tỷ giá quy đổi theo đồng rúp rất rẻ. Thế nhưng công ty chưa coi
việc mua sắm máy móc thiết bị xây dựng là một hình thức đầu tư, nhất là đầu tư
chiến lược. Tuy nhiên việc có được một nguồn thiết bị từ thị trường này cũng đã
tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong một số năm sau khi bắt đầu chuyển

sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhất là một số thiết bị làm
đất như máy ủi, lu, xe Ben tự đổ…
- Giai đoạn 1990 – 1993: Được coi là thời kỳ đệm của Công ty trong hoạt động
đầu tư.
Thời kỳ này do tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, bước đầu chuyển
sang cơ chế thị trường, do nhiều yếu tố khách quan về cơ chế, chính sách nên
các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào hệ thống cơ sở hạ tầng ngành Giao thông
chưa triển khai được. Việc xây dựng chủ yếu tập trung vào công tác duy tu, bảo
dưỡng, cải tạo bằng các nguồn vốn đầu tư trong nước là chính. Tuy đã nhìn thấy
được khả năng về các nguồn vốn đầu tư sẽ được huy động trong tương lai,
nhưng do hạn chế về năng lực tài chính, mặt khác do thiếu thông tin về thị
trường thiết bị máy thi công, thiếu thông tin về quy trình công nghệ thiết bị thi


công, nên hoạt động đầu tư mua sắm máy móc xây dựng trong giai đoạn này chỉ
mang tính thăm dò, cầm chừng, chưa trở thành mục tiêu cấp bách của Công ty.
- Giai đoạn từ năm 1993 đến nay: Có thể phân chia thời kỳ này thành 2 giai đoạn
để đánh giá thực trạng đầu tư mua sắm máy móc xây dựng của công ty. Giai
đoạn 1 từ năm 1993 đến năm 1996 và giai đoạn 2 từ năm 1996 đến nay.
+ Giai đoạn 1993 - 1996: Trong giai đoạn này, do chưa hiểu biết các tiêu
chuẩn về công nghệ thi công xây dựng hạ tầng giao thông và chưa am hiểu về
tính năng kỹ thuật, chất lượng, giá cả của các loại thiết bị trên thị trường phục
vụ cho yêu cầu thi công nên các dự án đầu tư chưa được xây dựng trên luận cứ
chặt chẽ, xác đáng, có cơ sở khoa học và thực tiễn mà chủ yếu dựa vào định
hướng chiến lược và những phán đoán mang tính chủ quan. Vì vậy, kết quả là
những dự án đầu tư vào mua sắm máy móc thiết bị thi công có giá trị lớn thường
không đem lại hiệu quả.
+ Giai đoạn 1996 đến nay: Do đã trải qua một quá trình thực tiễn, công ty đã
lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là đã rút ra được những kinh nghiệm quan trọng
trong lĩnh vực đầu tư đầu tư, nên trong giai đoạn này việc đầu tư của công ty đã

thận trọng hơn. Các dự án đầu tư được lập đã trải qua một quá trình thực nghiệm
công tác quản lý, vận hành thiết bị của các dự án đầu tư trong giai đoạn trước.
Đồng thời, công ty cũng cẩn trọng hơn trong việc vận dụng để đảm bảo các yêu
cầu của kỹ sư tư vấn về chất lượng, chủng loại thiết bị phục vụ thi công công
trình. Hơn nữa, thị trường cung cấp thiết bị trong giai đoạn này cũng rất phong
phú, các nhà cung cấp thiết bị cũng phải cạnh tranh gay gắt để có thể bán được
hàng, do đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc lựa chon thiết bị
phù hợp, đúng với giá thị trường, phù hợp với năng lực của mình đồng thời đáp
ứng yêu cầu của chủ đầu tư.


Đánh giá chung từ năm 1993 đến nay: Công ty đã mở rộng được quy mô đầu
tư cả về số lượng, chất lượng, chủng loại thiết bị phục vụ thi công công trình,
chuẩn bị tiền đề cho giai đoạn tới nhưng hiệu quả đầu tư nói chung còn nhiều
hạn chế.
2. Thực trạng hoạt động đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng của
công ty
2.1. Về mặt quy mô.
Biểu 2: Quy mô đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng của doanh nghiệp

Năm

Đơn vị

1997

1998

1999


2000

2001

2002

VĐT

Tỷ VNĐ

7.5

6.4

10.8

18.4

12.8

10.1

Tốcđộphát

%

_

85.3


168.8

170.4

69.1

78.9

triểnliênhoàn

Nguồn: Báo cáo tổng kết của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC

Đồ thị biểu diễn tình hình đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng


Nhìn vào biểu 2 và qua đồ thị, nhìn chung tốc độ đầu tư mua sắm máy móc
thiết bị của công ty liên tục tăng từ năm 1998 đến năm 2000. Riêng từ năm
2001 cho đến nay, quy mô đầu tư cho máy móc xây dựng của công ty có bị
giảm sút. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không phải do công ty chưa chú ý
đến đầu tư mua sắm thiết bị trong hai năm trở lại đây, mà chủ yếu là do các
máy móc thiết bị của công ty cho đến giai đoạn này cũng đã tạm đáp ứng
được những yêu cầu công nghệ cơ bản và một số yêu cầu công nghệ cao, do
đó quy mô đầu tư vào máy xây dựng đã được giảm xuống. Cụ thể việc đầu tư
vào máy móc thiết bị qua các năm được thể hiện qua bảng sau:
Biểu 3: Các máy móc thiết bị được đầu tư từ năm 1993 đến nay
STT

Loại thiết bị

Năm


Nguồn gốc

mua

xuất xứ

Số lượng

1

Máy khoan UKB – 25

1993

Liên Xô

1 bộ

2

Khoan máy SH – 30

1993

Trung Quốc

1 bộ

3


Máy nén tam liên

1994

Trung Quốc

2 chiếc

4

Máy cắt ứng biên

1994

Trung Quốc

2 bộ

5

Thiết bị thí nghiệm cơ đất

1994

Liên Xô

1 bộ



6

Thiết bị thí nghiệm đầm chặt tiêu chuẩn

1995

Việt Nam

1 chiếc

7

Máy thuỷ bình kiểm tra độ lún NI 004

1995

Thuỵ Sỹ

1 chiếc

8

Máy đo toàn đạc Delta

1996

Đức

3 chiếc


9

Súng kiểm tra bê tông Schimidt

1997

Đức

6 chiếc

10

Máy dò cốt thép

1998

Đức

2 bộ

11

Máy khoan lấy lõi bê tông DR – 1305B –

1998

Mỹ

1 bộ


4 SOILTEST
12

Thiết bị siêu âm bê tông

1999

Anh

1 bộ

13

Trạm trộn bê tông ASphalt

1999

Nhật

2 chiếc

14

Máy rải bê tông Asphalt

1999

Nhật

2 chiếc


15

Trạm trộn cấp phối CB138

2000

Nhật Bản

1 chiếc

16

Máy rải cấp phối

2000

Nhật Bản

1 chiếc

17

Máy rải hỗn hợp bê tông nhựa

2000

Nhật Bản

1 chiếc


18

Máy khoan lấy lõi bêtông

2000

Nhật Bản

1 chiếc

19

Máy ủi 108CV

Nhật Bản

2 chiếc

20

Xe tưới nhựa DRGM

2000

Nga

5 chiếc

21


Máy san Tital

2000

Đức

3 chiếc

22

Máy lu rung VV 113

2000

Sec

8 chiếc

23

Máy lu rung DY

2000

Nga

10 chiếc

24


Máy lu bánh sắt

2001

Trung Quốc

6 chiếc

25

Máy đầm bàn

2001

Nhật

3 chiếc

26

Máy ủi DZ 171

2001

Nga

4 chiếc

27


Máy ủi DZ 42

2001

Nga

2 chiếc

28

Máy xúc lốp gầu lật T018

2001

Trung Quốc

4 chiếc

29

Máy xúc lốp gầu lật T030

2001

Việt Nam

2 chiếc

30


Máy trộn bê tông xi măng B521

2002

Hàn Quốc

6 chiếc

31

Máy trộn vữa

2002

Đức

2 chiếc

32

Thiết bị đóng cọc DJ2

2002

Pháp

1 chiếc

33


Cẩu K162

2002

Trung Quốc

3 chiếc

2000


34

Xe téc nước KAMAZ

2002

Nga

7 chiếc

35

Máy bơm cao áp

2002

Hàn Quốc


4 chiếc

36

Xe vận tải KAMAZ 5320 và 5425

2002

Nga

4 chiếc

37

Xe ben tự đổ KPAZ 256 và MAZ 5549

2002

Nga

5 chiếc

Nguồn: Hồ sơ dự thầu của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC năm 2001 Hạ tầng kỹ
thuật khu liên hợp thể thao quốc gia Mỹ Đình – Mễ Trì ( 110 ha) – giai đoạn 1

2.2. Về mặt chất lượng công nghệ
Chất lượng công nghệ thiết bị được đầu tư phụ thuộc vào khả năng tài chính
của công ty, yêu cầu của công trình và phụ thuộc vào chiến lược phát triển
đồng thời phải phù hợp với định hướng Công nghiệp hoá - hiện đại hoá của
đất nước. Đó chính là vấn đề đầu tư chiều sâu tăng năng lực thiết bị của

doanh nghiệp. Có thể tóm tắt tình hình đầu tư máy móc và công nghệ xây
dựng của công ty về mặt chất lượng trong những năm qua như sau:
- Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 1995: Tỷ lệ các thiết bị mới, chất lượng
cao, công nghệ hiện đại đã tương đối cao. Công ty đã bắt đầu chú trọng đến
việc đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thi công để tăng cường sức cạnh tranh
của chính mình.
- Giai đoạn từ năm 1996 đến nay: Tập trung đầu tư các thiết bị có công nghệ
hiện đại nhưng chủ yếu là các thiết bị đã qua sử dụng. Đầu tư theo hướng
này đem lại hiệu quả tương đôi cao cho đơn vị, vì theo yêu cầu của Nhà
nước, loại thiết bị này phải là thiết bị được sản xuất từ năm 1990 trở lại đây,
có chất lượng không nhỏ hơn 75% và có giá trị sử dụng bằng 50 – 60% so
với thiết bị mới cùng loại, đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu của chủ đầu tư.
Với con đường đầu tư như vậy, công ty đã có thể tiết kiệm được một khoản


tiền khá lớn mà vẫn đảm bảo đựơc yêu cầu công nghệ vì các máy móc còn
tương đối mới, do đó thời hạn thu hồi vốn đầu tư giảm và khả năng thu hồi
vốn được tăng cao rõ rệt.
Đối với một số dự án thắng thầu có thời gian xây dựng dài, giá cả dự thầu
hợp lý, doanh nghiệp đã tận dụng lợi thế để có thể đầu tư mua sắm từng
bước các thiết bị có công nghệ tiên tiến hiện đại, tạo thế cho sự phát triển
lâu dài, nhất là đối với một số dự án thi công cầu, đường, kè bờ sông…
2.3. Về mặt kinh tế xã hội.
Hiệu quả tổng thể của hiệu quả đầu tư vào máy móc thi công được thể hiện ở:
- Thực hiện thi công các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng với yêu cầu chất
lượng kỹ thuật cao, đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư và yêu cầu phát triển
kinh tế của đất nước.
- Nâng cao giá trị sản lượng và doanh thu xây lắp của công ty, từ đó tạo tiền đề để
công ty có thể nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng các hoạt động đầu tư phát
triển

- Tạo công ăn việc làm ổn đinh, thường xuyên và lâu dài cho người lao động. Tạo
ra một môi trường làm việc năng động, sáng tạo, phát huy được sức mạnh tổng
thể của toàn bộ đội ngũ cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. Nâng cao
trình độ tay nghề của công nhân, trình độ kỹ thuật của các kỹ sư, các kiến trúc
sư và của cán bộ quản lý thông qua các chương trình đạo tạo và đào tạo lại ở cả
trong nước và quốc tế. Qua đó gián tiếp nâng cao chất lượng lao động của cán
bộ công nhân viên của công ty nói riêng và của cả nước nói chung.
- Tạo ra lợi nhuận cao, từ đó đảm bảo khả năng tái đầu tư và nâng cao sức cạnh
tranh của công ty trên thị trường xây dựng.


III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG
NGHỆ THIẾT BỊ XÂY DỰNG.

1. Hệ thống tổ chức công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công
nghệ và thiết bị xây dựng của công ty.
Trên cơ sở định hướng chiến lược, nhiệm vụ kế hoạch giao hàng năm, từ dự
án của công ty, từ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty, giám đốc sử
dụng các cơ quan chức năng của mình lập dự án đầu tư. Các công trường sản
xuất, các đội sản xuất là đầu mối sử dụng thiết bị xây dựng được đầu tư.
Nhóm chuyên viên kiêm nhiệm dự án là đơn vị cơ sở để đánh giá hiệu quả
đầu tư, là đầu mối trực tiếp quản lý dự án, hoàn trả vốn vay.
Trong những năm qua, hệ thống tổ chức này đã góp phần quan trọng giúp
cho các doanh nghiệp xây dựng giao thông trong lĩnh vực lập và quản lý dự
án đầu tư. Tuy nhiên, nó vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập gây ảnh hưởng
đến chất lượng của công tác lập dự án cũng như hiệu quả của công tác quản
lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây dựng của công ty.
Sơ đồ tổ chức quản lý dự án của công ty được thể hiện như sau:



Hệ thống tổ chức của Công ty về lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công
nghệ và thiết bị xây dựng
Sở GTCC - Hà Nội
Tổng Giám đốc
PGĐ phụ trách KT
PGĐ phụ trách KD
Kinh tế kế hoạch
Tổ chức hành chính
Kế toàn tài vụ
Dự án đấu thầu
Tư vấn đầu tư
Các xưởng thiết kế
sát
Thẩm định tư vấn giám
công
Kỹ thuật công nghệ thi
Cơ giới vật tư
Nhóm chuyên viên kiêm nhiệm dự án
Các phòng chức năng
Các đội sản xuất
Công trường xây dựng


2. Thực trạng thực hiện trình tự, nội dung lập và quản lý dự án đầu tư đổi
mới công nghệ và thiết bị xây dựng


Cả 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư
đều đã được công ty quan tâm thực hiện đầy đủ.
- Đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư :

Đã thực hiện các bước quy định của quá trình lập dự án bao gồm nghiên cứu cơ
hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án.
Trong đó giai đoạn nghiên cứu cơ hội đầu tư được đặc biệt quan tâm qua việc
nghiên cứu về tình hình cung cầu trên thị trường xây dựng. Tuy nhiên, cũng do
ảnh hưởng của thị trường nên các kết quả trong giai đoạn này thường được lập
trên cơ sở những định hướng chung nhất của công ty nhiều hơn là bám sát tình
hình thực tiễn.
Xét riêng về công tác lập báo cáo nghiên cứu khả thi, đối với các dự án dài hạn
thường được thực hiện đầy đủ, ví dụ như dự án đầu tư vào thiết bị đóng cọc DJ2
vào năm 1999 với tổng mức vốn đầu tư là 2678 triệu đồng. Còn đối với các dự
án đầu tư phục vụ trực tiếp cho một công trường cụ thể hoặc cho một dự án lớn
đã thắng thâù thì thường xuất phát từ nhiệm vụ cấp bách để ra quyết định đầu
tư, và trong một số trường hợp thường không tuân thủ các bước nhất là công tác
thẩm định dự án. Do biến động của thị trường cung cấp vốn cho dự án đầu tư
nên ngoài việc phụ thuộc vào mục tiêu đầu tư và thị trường xây dựng, trình tự


đầu tư còn phụ thuộc vào sự biến động của việc huy động vốn, và nhiều khi còn
phụ thuộc vào chính yêu cầu của nhà cung cấp vốn.
Trong thực tiễn có trường hợp giai đoạn chuẩn bị đầu tư và giai đoạn thực hiện
đầu tư được tiến hành song song với nhau. Thậm chí giai đoạn thực hiện đầu tư
được thực hiện trước rồi hoàn tất các thủ tục về tình tự đầu tư sau do yêu cầu
của tiến độ thi công công trình. Điều này một mặt có thể đáp ứng được tiến độ
thi công, nhưng mặt khác là do chỉ tính đến yêu cầu trước mắt nên sẽ chịu ảnh
hưởng trực tiếp của các yếu tố sau khi kết thúc dự án.
- Đối với giai đoạn thực hiện đầu tư:
Việc tiến hành các thủ tục, các bước cũng còn nhiều yếu tố tác động. Đối với
các dự án đã xác định được địa chỉ lắp đặt dựa trên hợp đồng xây lắp cụ thể,
công việc tiếp nhận, xây dựng, lắp đặt các cơ sở bảo quản thường đựoc chuẩn
bị trực tiếp nhằm phục vụ kịp thời cho việc thi công công trình, nhưng thông

thường việc chuẩn bị tổ chức đào tạo thợ vận hành, chuyên môn kỹ thuật
không kịp thời nên ảnh hưởng đến việc phát huy hiệu quả sử dụng máy của
giai đoạn vận hành.
Đối với các dự án đầu tư chưa xác định rõ địa điểm sử dụng máy mà chỉ
nhằm làm tăng năng lực của thiết bị của doanh nghiệp và phục vụ cho các


công trình mang tính ước đoán thì có điều kiện chuẩn bị về lực lượng công
nhân kỹ thuật vận hành nhưng thường khó thực hiện các yếu tố đảm bảo.
Trong giai đoạn này, công ty tuy có quan tâm đến hình thức đấu thầu thiết bị
xây dựng, nhưng chủ yếu là vận dụng hình thức chào hàng cạnh tranh hoặc
chỉ định thầu và nhằm vào việc hợp lý hoá thủ tục phục vụ cho vay vốn và
công tác thanh tra kiểm tra của cơ quan chủ quản, cơ quan pháp luật là chính.
-

Đối với giai đoạn quản lý vận hành:
Tuy bản thân việc thực hiện đúng các trình tự trong giai đoạn này cũng rất
quan trọng nhưng hầu hết các doanh nghiệp chưa xác định được một sơ đồ
mạng về các bước thực hiện trên tất cả các lĩnh vực quản lý vận hành, từ việc
quản lý thời gian, quản lý chất lượng, quản lý chi phí và các chương trình
quản lý rủi ro. Thêm vào đó, việc đánh giá kiểm tra hiệu quả sử dụng trong
trình tự quản lý dự án không được xem xét thường xuyên và đầy đủ.
Kết luận: Về cơ bản, công ty đã quan tâm đến trình tự, nội dung lập và
quản lý dự án đầu tư, thực hiện tương đối tốt đối với các dự án phục vụ
trực tiếp cho các công trình xây dựng, các dự án đã thắng thầu. Tuy nhiên,
vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập đối với các dự án đầu tư theo định hướng
chiến lược. Các bước trong trình tự lập dự án đầu tư và các nội dung trong
dự án đầu tư về cơ bản đã được đề cập đến nhưng chưa đầy đủ và chưa



đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư
chung của toàn công ty.
3. Thực trạng phân tích tài chính dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết
bị xây dựng.
Phân tích tài chính là một nội dung quan trọng trong công tác lập dự án. Nhận
thức được việc này, công tác lập dự án của công ty cũng đã rất quan tâm việc
tính toán các chỉ tiêu tài chính và thông qua đó để đánh giá tính khả thi của
dự án. Để xem xét thực trạng của việc phân tích tài chính trong dự án đầu tư
đổi mới công nghệ và máy xây dựng của công ty, ta xem xét cụ thể một dự án
đầu tư vào dây chuyền rải bê tông cấp phối của Nhật Bản năm 2000. Dây
chuyền này bao gồm:


Biểu4 : Những thiết bị chính được đầu tư trong dây chuyền .

Tên máy

Đơn vị tính

Sốlượng

Đơn giá

Thành tiền

1000đ

1

5.674.950


5.674.950

Trạm trộn cấp phối

-

1

2.675.050

2.675.050

Máyrải hỗn hợp bêtông

-

1

1.675.508

1.675.508

Máy khoan lấy lõi bê tông

-

1

1.897.712


1.897.712

Máy ủi 108CV

-

2

87. 800

175. 600

Thành tiền

-

Máy rải bêtông cấp phối

nhựa

12.098.820

Nguồn: Dự án đầu tư dây chuyền rải bê tông cấp phối Nhật Bản năm 2000

Cơ sở để tính toán các chỉ tiêu
Giá trị doanh thu :
Với dây chuyền trang thiết bị trên, tính trên cơ sở sử dụng được 70% công
suất thiết kế, đơn giá tính theo đơn giá khu vực Hà Nội (giá 393/KT – XD)
vì công ty chủ yếu thi công các công trình trên địa bàn thành phố Hà Nội thì

sản lượng thực hiện của dây chuyền một năm có thể đạt được như sau (tính
khái toán các thành phần công việc chủ yếu của làm đường mới).


Biểu 5: Sản lượng thực hiện của dây chuyền rải bêtông cấp phối Nhật Bản
thực hiện được trong một năm (70% công suất)
Đơn vị tính: 1.000 đ
Tên công việc
Đào khuôn đường

ĐV

Khối lượng

Đơn giá

Thành tiền

m3

9.251,7

40

370.068

2700

60


162.000

Đắp nền lớp đáy kết m3
cấu mặt đường
Đắp cát hạt thô

m3

9.251,7

55

508843.5

Làm đường thảm

m2

16.515

23

3.798.450

m2

5.966

20


1.193.200

m2

15.602

185

2.886.370

Mặt đường mềm kết m2

1.760

185

325.600

2.100

170

357.000

bêtông asphalt KCI
Làm đường thảm
bêtông asphalt KCII
Làm đường thảm
bêtông asphalt KCIII


cấu loại 3
Mặt đường cứng

m2

Tổng giá trị doanh thu

9601531.5

Nguồn: Dự án đầu tư dây chuyền rải bê tông cấp phối Nhật Bản năm 2000

Cơ sở tính toán chi phí
- Chi phí nguyên vật liệu: Tính theo khối lượng nguyên vật liệu thực tế trong một
năm và theo bảng khối lượng dự kiến (biểu 5 ). Giá nguyên vật liệu lấy theo giá
khu vực Hà Nội quý II năm 2000.


- Chi phí nhân công: Theo định mức 58/BXD – VKT và các quy định chế độ
lương, phụ cấp hiện hành.
- Chi phí máy: Trên cơ sở giá ca máy 57/BXD – VKT trong đó
• Khấu hao cơ bản: 20% giá trị trung bình năm
• Khấu hao sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ: 6% giá trị trung bình một năm
• Năng lượng, nhiên liệu theo định mức tiêu hao từng loại thiết bị, lấy theo khối
lượng thi công thực tế (12% Tổng chi phí nguyên vật liệu )
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: 66,5% chi phí nhân công
- Thuế doanh thu 4%
- Lãi định mức 11% (theo tiêu chuẩn thi công đường)
Biểu 6: Giá trị chi phí được tính toán cụ thể trong bảng sau:
Đơn vị: 1000đ


Tên công việc

Đơn

Khối

vị

lượng

Đơn giá

I. Chi phí vật liệu

Thành tiền

3.124.180,4

Đất, cát tại công trường

m3

18.000

42,00

756.000

Đá lớp cấp phối


m3

5.800

186,00

1.078.800

Nhựa bitum

kg

15.300

3,500

53.550

Đá lớp base

m3

2.400

142,20

341.280

Bêtông cấp phối


Tấn

1.220

298,70

364.414

Bột đá

kg

11.720

21,00

246.120

Vật liệu khác

%

10

2.840.164

284.016,4

II.Chi phí nhân công


%

15

3.124.180,4

468.627,06


III. Chi phí máy

3.471.852,77

Khấu hao cơ bản

%

20

11275480

2.255.096

Sửa chữa lớn, sửa chữa

%

6

11275480


676.528,8

Nhiên liệu

%

12

3.124.180,4

374.901,65

Chi phí khác

%

5

3306526.45

165.326,3

IV. Chi phí quản lý

%

66,5

468.627,06


311.637

V. Thuế, lãi định mức

%

11

7.376.297,23

811.392,7

nhỏ

VI. Tổng chi phí

8.187.689,93

Nguồn: Dự án đầu tư dây chuyền rải bê tông cấp phối Nhật Bản năm 2000

Các nội dung được đề cập đến trong dự án bao gồm
- Tổng mức đầu tư (1000Đ)
+ Giá mua dây chuyền thiết bị:

12.098.820

+ Chi phí lắp đặt:

26.660


+ Chi phí lập và thẩm định dự án:

52.700

+ Giá trị còn lại:

850.000

- Cơ cấu vốn đầu tư
+ Vốn tự có (trích từ quỹ đầu tư phát triển)
+ Vốn vay:

79.360

12.098.820

-

Vốn vay tín dụng ưu đãi với lãi suất 7.8%/năm

-

Thời gian vay: 5 năm (thời hạn ân hạn 1 năm)

-

Nguồn vốn để trả vốn vay ngân hàng hàng năm được lấy từ
• Quỹ khấu hao hàng năm ( khấu hao đều 5 năm )



• Lợi nhuận sau thuế vốn
- Tỷ suất chiết khấu r
• Nguồn vốn vay ngân hàng: 7.8%
• Nguồn vốn tự có: 10%

Tỷ suất chiết khấu r =

(0,078*12.098.820)+ (0.1* 79.360)
12.098.820 + 79.360

= 0.078



×