Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Quan điểm, chính sách của đảng, nhà nước về đô thị hoá và tái định cư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.19 KB, 24 trang )

Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước
về đô thị hoá và tái định cư
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Mức sống
1.1.1.1. Khái niệm mức sống
Mức sống là một khái niệm được dùng khá phổ biến trong các nghiên
cứu để đánh giá mức độ đạt được về các điều kiện sống của dân cư. Tuy
nhiên, mức sống là một phạm trù kinh tế - xã hội rất rộng nên cũng có nhiều
quan niệm khác nhau.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì mức sống là “mức đạt được trong chi
dùng, hưởng thụ các điều kiện vật chất, tinh thần” [40 tr.1157]. Như vậy với
quan niệm này thì mức sống được hiểu là mức độ đạt được về các điều kiện
vật chất và tinh thần của dân cư.
Theo Mác thì “Mức sống dân cư không phải chỉ là sự thoả mãn nhu
cầu của đời sống vật chất mà còn là sự thoả mãn nhu cầu nhất định, những
nhu cầu được sản sinh bởi chính những điều kiện xã hội mà trong đó con
người đang sống và trưởng thành” [23]. Nghĩa là ngoài đòi hỏi về những
điều kiện vật chất, con người ta còn hướng tới những nhu cầu xã hội. Những
nhu cầu xã hội được sản sinh từ chính những điều kiện xã hội nên đương
nhiên nó luôn thay đổi theo sự phát triển của những điều kiện xã hội. Điều
đó cũng chứng tỏ rằng mức sống không phải là phạm trù nhất thành bất biến
mà luôn biến đổi theo thời gian và không gian nhất định.
Trên những quan điểm chung đó, Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa
ra khái niệm mức sống vừa khái quát vừa cụ thể như sau:
Mức sống là phạm trù kinh tế - xã hội đặc trưng mức thoả
mãn nhu cầu về thể chất, tinh thần và xã hội của con người. Được


thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu số lượng và chất lượng của
điều kiện sinh hoạt và lao động của con người. Một mặt, mức sống


được quyết định bởi số lượng và chất lượng của cải vật chất và
văn hoá dùng để thoả mãn nhu cầu của đời sống; mặt khác, được
quyết định bởi mức độ phát triển bản thân nhu cầu của con người.
Mức sống không chỉ phụ thuộc vào nền sản xuất hiện tại mà còn
phụ thuộc vào quy mô của cải quốc dân và của cải cá nhân đã
được tích luỹ. Mức sống và các chỉ tiêu thể hiện nó là do tính chất
của hình thái kinh tế - xã hội quyết định [15, tr. 973].
Như vậy, mức sống là trình độ thoả mãn nhu cầu toàn diện, thường
xuyên tăng lên của dân cư. Mức sống dân cư còn cho ta biết mức độ (cái
được xác nhận là nhiều hay ít trên một thang độ nào đó) về các điều kiện
sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhóm dân cư đó [25].
Nếu so với khái niệm đời sống thì mức sống có ý nghĩa cụ thể hơn.
Phạm vi ngữ nghĩa của từ đời sống thường được sử dụng một cách khá
chung chung, ý nghĩa bao hàm rộng. Mặc dù vậy, để đánh giá về đời sống
thì các nhà nghiên cứu lại không thể tách rời với việc đo lường, đánh giá
mức sống.
Mức sống cũng có quan hệ gần gũi với khái niệm chất lượng cuộc
sống, bởi chất lượng cuộc sống được hiểu là điều kiện sống làm cho con
người thoả mãn các nhu cầu về tinh thần và vật chất. Như vậy, mức sống và
chất lượng cuộc sống đều có đặc trưng liên quan đến mức độ hưởng thụ các
giá trị vật chất và tinh thần của con người, trong đó mức sống thường thiên
nhiều về mặt "lượng" của đời sống còn chất lượng cuộc sống thiên nhiều về
mặt "chất" của đời sống. Chất lượng sống phải đo lường bằng những chỉ báo
cụ thể về mức sống vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại,…) và tinh thần (hưởng thụ
văn hoá, nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tự do chính trị,…)


1.1.1.2. Biến đổi mức sống
Mức sống là một phạm trù có tính lịch sử, chịu sự thay đổi về thời
gian và khác nhau trong không gian. Trong một quốc gia hay ở từng vùng,

mức sống thường biến đổi cùng với sự biến đổi của điều kiện sống, đặc biệt
là trình độ phát triển sản xuất trong mỗi thời kỳ. Thời bao cấp, chiến tranh,
mức sống trung bình chỉ là có đủ những nhu cầu tối thiểu, thiết yếu nhất để
duy trì sự sống như ăn: 13kg lương thực/tháng, mặc: 4m 2 vải một
người/năm. Song hiện nay, nức sống trung bình phải đủ ăn, đủ mặc, có nhà
ở, có phương tiện đi lại và phương tiện gia dụng bằng mức sống khá giả
trước kia. Như vậy nghiên cứu về mức sống phải nghiên cứu trong tính lịch
sử và cụ thể của nó.
Không chỉ làm rõ khái niệm "mức sống", luận văn còn phải làm rõ
khái niệm "biến đổi mức sống" (BĐMS). Song để có cơ sở nhận thức rõ hơn
về khái niệm BĐMS phải bắt đầu từ khái niệm biến đổi. Biến đổi là gì? Biến
đổi như thế nào? Theo Từ điển tiếng Việt “Biến đổi là sự thay đổi so với cái
trước đó” [37, tr.89]. Sự thay đổi đó có thể tăng hoặc giảm, từ dạng này sang
dạng khác, từ hình thái này sang hình thái khác.
Vậy biến đổi mức sống là sự thay đổi mức độ thoả mãn các nhu cầu
về thể chất, tinh thần và xã hội của người dân. Vì biến đổi mức sống là một
quá trình kinh tế - xã hội nên để xác định nó, mỗi phép đo đều cần ít nhất hai
thời điểm khác nhau. Điểm mốc mà tác giả lựa chọn để so sánh, làm sáng tỏ
sự biến đổi mức sống của người dân là sau khi đối tượng được giải toả, di
dời và sinh sống ở khu TĐC so với mức sống thời gian trước di dời. Khoảng
thời gian sau TĐC được lựa chọn để nghiên cứu ít nhất là từ hơn 6 tháng trở
lên. Những hộ gia đình mới chuyển vào khu TĐC với thời gian dưới 6 tháng
chưa đủ thời gian cần thiết để đánh giá về những biến đổi mức sống của họ.


Đối với Thành phố Đà Nẵng, năm 1997 là một mốc khá trọng đại vì được
tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng để trở thành thành phố trực thuộc
trung ương. Đây cũng là thời điểm mà thành phố triển khai mạnh mẽ các
chương trình, dự án quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị.
Vì vậy, nhóm dân cư thuộc diện TĐC trong khoảng thời gian từ năm 1997

đến năm 2004 trở thành đối tượng nghiên cứu của luận văn.
1.1.1.3. Các chỉ báo đo lường sự biến đổi mức sống của nhóm dân
cư sau tái định cư ở Đà Nẵng
Mức sống là một phạm trù kinh tế - xã hội rất rộng, vì vậy đánh giá sự
biến đổi mức sống phải dựa trên các chỉ báo về thu nhập, chi tiêu, nhà ở, đồ dùng
lâu bền, mức độ hưởng thụ (khả năng tiếp cận) các dịch vụ đô thị cơ bản...
Trước hết, là chỉ báo về thu nhập. Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên
để đo lường mức sống. Ở đây thu nhập thực tế thường được tính theo bình
quân đầu người/tháng. Ở Đà Nẵng, bình quân đầu người/tháng được tính
theo 5 mức rất nghèo, tạm đủ, trung bình, khá giả, giàu như sau:
- Nhóm hộ nghèo

:Từ 150.000đ trở xuống/đầu người/tháng

- Nhóm hộ tạm đủ

:Từ

trên

150.000đ

-

300.000đ/đầu

:Từ

trên


300.000đ

-

600.000đ/đầu

người/tháng
- Nhóm hộ trung bình
người/tháng
- Nhóm hộ khá giả

:Từ trên 600.000đ-1.200.000đ/đầu người/tháng

- Nhóm hộ giàu

:Từ

trên

1.2000.000đ

trở

lên/đầu

người/tháng
Sự phân chia này được dựa trên định mức chuẩn nghèo ở khu vực đô
thị của Tổng cục thống kê.
Thu nhập là chỉ tiêu rất quan trọng để đo lường mức sống, song nếu
căn cứ thuần tuý vào mức thu nhập bình quân đầu người/tháng thì sự nhận



biết về mức sống dân cư sẽ chưa thật đầy đủ và chính xác.

Một mặt do

mức thu nhập của người dân sau TĐC có sự dao động rất lớn, do tình trạng
thu nhập không ổn định trong môi trường hoạt động kinh tế của người dân
TĐC gây ra.
Mặt khác, các hộ dân TĐC phải trang trải những chi phí lớn cho việc
làm nhà, tạo lập những điều kiện vật chất cần thiết ở nơi cư trú mới nên phần
đông đang là những con nợ. Phần chi tiêu cho đời sống gia đình họ trở nên
eo hẹp khi phải dành dụm phần thu nhập để trả nợ.
Vì vậy, đánh giá mức sống cần phải xem xét về một số chỉ báo khác
như, chi tiêu cho các nhu cầu cơ bản (ăn, mặc, ở, đi lại) và khả năng tiếp cận
các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế, vui chới giải trí,…).
Ở đây, phần chi tiêu chủ yếu tập trung cho các nhu cầu thiết yếu như
ăn, mặc, ở, đi lại… Trong đó, số lượng các khoản chi và cơ cấu của chúng
cũng là những yếu tố phản ánh mức sống và chất lượng sống của từng hộ
dân cũng như của cả cộng đồng dân cư này.
Ngoài ra, nhu cầu và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội như giáo
dục, y tế, vui chới, giải trí cũng là những chỉ báo cần phải đo lường. Mức
sống của cộng đồng dân chuyển cư tăng lên hay giảm đi một phần phụ thuộc
mức độ thuận tiện và khả năng tiếp cận những dịch vụ xã hội này. Tỷ lệ
người đánh giá mức tiếp cận của dịch vụ khá lên, như cũ hay giảm đi so với
trước chuyển cư là những chỉ báo đo lường mức sống của nhóm xã hội này.
1.1.2. Nhóm xã hội
Nhóm xã hội là những bộ phận cơ bản, hữu cơ cấu thành nên xã hội.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Nhóm xã hội là khái niệm xã hội
học chỉ một tập hợp người liên kết với nhau bởi các dấu hiệu hình thức hoặc

bản chất được điều chỉnh bởi những thiết chế có những giá trị chung và ít
nhiều biệt lập với các tập hợp người khác” [15, tr.264].


Như vậy không phải bất cứ một tập hợp người nào cũng là một nhóm.
Theo quan niệm xã hội học thì nhóm phải là một tập hợp người mà đặc
trưng quan trọng nhất là họ cơ bản có chung hệ thống giá trị và chuẩn mực
xã hội, nhờ đó họ có khuôn mẫu hành vi cơ bản giống nhau. Khoa học xã
hội học đã dựa trên những tiêu chí này mà xem xét sự khác biệt giữa nhóm
công nhân với nông dân, nông dân với trí thức hoặc nhóm phân chia theo
các tiêu chí khác nhau như nghề nghiêp, tuổi tác, vùng sinh sống, giới, dân
tộc,…
Nhóm là một khái niệm rất rộng và phức tạp. Theo số lượng các thành
viên và điều kiện tác động lẫn nhau trong nhóm, các nhóm xã hội được chia
làm nhóm nhỏ và nhóm lớn.
Nhóm lớn là nhóm mà các thành viên liên kết nhau bởi điều kiện
khách quan chung, xác định sự tồn tại của họ một cách vững chắc như giai
cấp, tầng lớp, dân tộc, đảng phái chính trị, nghề nghiệp ...
Nhóm nhỏ là nhóm người tồn tại trong khoảng không gian và thời
gian xác định, được liên kết bởi các quan hệ thực tế của các thành viên của
nhóm, thực hiện trên cơ sở giao tiếp như các đội sản xuất, lớp học, gia đình,
nhóm bạn bè.
Dựa vào tính chất, mức độ tổ chức có nhóm chính thức và nhóm
không chính thức... Nhóm chính thức là tập hợp người có mối liên hệ được
quy chuẩn hoá thông qua những thiết chế xã hội xác định. Còn nhóm không
chính thức là những nhóm hình thành tự phát trong đó các quan hệ của các
thành viên nhóm không được thiết chế hoá. Hiện nay, trong nhiều ngành
khoa học xã hội, thuật ngữ nhóm được dùng với hai nghĩa: nhóm quy ước và
nhóm thực.
Nhóm quy ước là những nhóm do người ta lập ra theo những dấu hiệu

nhất định để nghiên cứu. Chẳng hạn, trong phân tích kết quả những nghiên


cứu xã hội học, chúng ta có thể phân chia các đối tượng khảo sát thành
những nhóm một cách có chủ định theo: tuổi, trình độ học vấn, nghề
nghiệp...
Nhóm thực là nhóm được dùng cho tập hợp người tồn tại trong thực
tế, nơi mà mọi người tập hợp cùng nhau, liên kết với nhau bằng một dấu
hiệu chung nào đó [6, tr. 161].
Xã hội tác động đến cá nhân thông qua nhóm, vì vậy việc nghiên cứu
ảnh hưởng của nhóm với tư cách là yếu tố trung gian giữa cá nhân và xã hội
là yêu cầu cần thiết và tất yếu trong việc nhận thức về con người và xã hội.
Nhóm dân cư bị ảnh hưởng bởi các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, quy
hoạch và chỉnh trang đô thị ở Đà Nẵng trong khoảng thời gian từ năm 1997
đến nay là nhóm xã hội mà luận văn quan tâm nghiên cứu. Họ có đặc trưng
chung là cùng bị ảnh hưởng bởi các dự án phát triển của thành phố nên phải
giải toả di dời và tạo lập cuộc sống mới trong các khu TĐC.
Để có cái nhìn sâu hơn về cơ cấu xã hội của nhóm cư dân thuộc diện
giải toả, TĐC, trong quá trình phân tích, tác giả cũng sẽ phân chia các đối
tượng theo các nhóm quy ước như: giàu, nghèo, tuổi, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, giới tính,...
1.1.3. Giải toả, đền bù và tái định cư
1.1.3.1. Giải toả: Cũng như khái niệm đền bù, TĐC, khái niệm giải
toả được sử dụng phổ biến trong các Nghị định, Quyết định, Thông tư của
Chính phủ, của các bộ ngành và địa phương nhằm quy định trách nhiệm
của Nhà nước, của các chủ dự án cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của các
tổ chức, cá nhân trong diện bị ảnh hưởng bởi các dự án an ninh, quốc
phòng, kinh tế - xã hội...
Theo nghĩa gốc, giải toả là sự từ bỏ, làm cho nó thoát khỏi [40,
tr.726].



Khái niệm giải toả được đề cập đến trong nghiên cứu này chính là nói
đến việc phá, dỡ những kết cấu cũ đang trở thành những chướng ngại để giải
phóng mặt bằng, tạo điều kiện cho việc triển khai các dự án xây dựng cơ sở
hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội nào đó.
1.1.3.2. Đền bù
“Đền bù: Trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao” [40, tr.623]; hay
Đền bù: “Trả lại đầy đủ, tương xứng với sự mất mát hoặc sự vất vả” [37, tr.300].
Như vậy, theo nghĩa chung nhất, đền bù là việc thay thế các tài sản bị
mất bằng hiện vật hoặc bằng tiền.
Với hàm nghĩa nói trên, khái niệm đền bù (hay bồi thường) thường
được sử dụng trong các văn bản luật để quy định trách nhiệm bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng hay
phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Ở Đà Nẵng, trong những năm qua, chính quyền thành phố đã thường
xuyên tiến hành đền bù, giải phóng mặt bằng nhằm thực hiện các dự án quy
hoạch phát triển đô thị. Phương thức đền bù được thành phố Đà Nẵng vận
dụng trong việc giải phóng mặt bằng là hoàn trả bằng tiền khi người dân bị
mất đất và bị hư hại các tài sản khác. Người dân trong diện giải toả được đền
bù bằng tiền và được quyền ưu tiên mua lại đất theo khung giá mà thành phố
quy định cho các khu quy hoạch (tức là các khu dành cho TĐC).
1.1.3.3. Tái định cư
- Theo nghĩa rộng, “Tái định cư là một quá trình bao gồm đền bù các
thiệt hại về đất đai và tài sản di chuyển, TĐC, ổn định và khôi phục cuộc sống
cho những người bị thu hồi đất để xây dựng các dự án. Tái định cư còn bao
gồm các hoạt động nhằm hỗ trợ cho những người bị ảnh hưởng do việc thực
hiện các dự án gây ra, khôi phục và cải thiện mức sống, tạo điều kiện phát triển



các cơ sở sản xuất kinh tế, văn hoá, xã hội của hộ và cộng đồng” [14, tr.193194].
Như vậy, TĐC là một quá trình bao hàm từ việc đền bù (bồi thường)
cho các thiệt hại về tài sản và ổn định cuộc sống bị xáo trộn do dự án phát
triển gây ra. Đây là quá trình giúp người dân di chuyển và hỗ trợ họ tạo lập
lại nơi ở mới, khôi phục cuộc sống và đảm bảo tăng nguồn thu nhập của họ.
- Theo nghĩa hẹp, TĐC được dùng chỉ sự di chuyển của các hộ gia
đình tới định cư ở nơi ở mới.
Peter R. Burbridge cũng cho rằng “Tái định cư là chỉ việc lập cư của
các cá nhân, các nhóm hộ gia đình hoặc toàn bộ một làng, một xã” [3, tr.13].
Đây là cách hiểu thông thường trong đời sống xã hội, song khái niệm
TĐC theo quan niệm này chỉ có hàm nghĩa chỉ nơi cư trú mới mà người dân di
dời đến, tức là chỉ nói tới hình thức lập cư mà chưa chú trọng đến quá trình lập
cư đó.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả vừa sử dụng khái niệm TĐC theo
nghĩa hẹp để xác định không gian nghiên cứu, vừa đồng thời và chủ yếu sử
dụng khái niệm TĐC theo nghĩa rộng tức là quan tâm đến đối tượng TĐC là
những cá nhân, hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi các dự án quy hoạch, xây dựng
cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị với tất cả những yếu tố có liên quan như:
đền bù, hỗ trợ di dời và điều kiện sinh sống tại các khu TĐC của thành phố.
1.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC ÁP DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU
LUẬN VĂN

1.2.1 Lý thuyết về biến đổi xã hội
Mọi xã hội đều tồn tại trong trạng thái vận động và phát triển không
ngừng. Biến đổi xã hội (BĐXH) là một quá trình, một thuộc tính tất yếu của xã
hội.
Ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau, mỗi khoa học có quan điểm khác
nhau về BĐXH. Theo quan điểm của xã hội học thì BĐXH là khái niệm chỉ



sự khác biệt về phương diện xã hội của thời điểm hiện tại so với thời điểm
trước đó của một hệ thống xã hội, trọng tâm là sự biến đổi của cơ cấu xã hội.
Sự khác biệt về phương diện xã hội được nói tới ở đây là sự thay đổi
của các dạng hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội, các hệ
thống phân tầng xã hội. Không phải mọi sự thay đổi nào đó diễn ra trong xã
hội đều được coi là BĐXH, mà chỉ có những thay đổi có ảnh hưởng sâu sắc
tới đa số cá nhân trong xã hội, sự thay đổi các cơ cấu, tổ chức, các tầng lớp
xã hội... mới được coi là sự BĐXH.
Sự BĐXH rất phức tạp và có thể diễn ra dưới nhiều hình thức và mức
độ khác nhau: có biến đổi phát triển tức là diễn ra theo chiều hướng tích cực,
tiến bộ, phù hợp với mong muốn của xã hội. Có biến đổi suy thoái, diễn ra
theo chiều hướng xấu, xã hội lâm vào bế tắc với những xung đột, đổ vỡ, thay
đổi xã hội [39, tr.255-256].
Theo một số nhà nghiên cứu thì sự BĐXH là tổ hợp của rất nhiều
nguyên nhân chứ không phụ thuộc duy nhất vào một yếu tố đơn lẻ. Sự tương
tác phức tạp của nhiều yếu tố - cả yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài đã
tạo nên sự biến đổi. Các nhà lý thuyết hiện đại chú trọng các yếu tố: môi
trường vật chất (biến động của thiên nhiên), công nghệ, sức ép dân số, giao
lưu văn hoá... để lý giải những BĐXH.
Quan niệm biến đổi tổng hợp còn khẳng định sự biến đổi có thể đi lên,
có thể là đi xuống, thậm chí bị huỷ diệt. Sự biến đổi cũng thường mang tính
chu kỳ. Trên thực tế, mỗi lý thuyết đều có quan điểm luận giải khác nhau về
sự biến đổi xã hội mà trong đó mỗi lý thuyết đều có hạt nhân hợp lý về nhận
thức cũng như dự báo quá trình biến đổi xã hội. Để nhận thức một cách đầy
đủ quá trình biến đổi xã hội nói chung và biến đổi mức sống của người dân
sau TĐC nói riêng không thể không chú ý tới các yếu tố hợp lý này. Luận


văn sẽ cố gắng tích hợp các yếu tố hợp lý nói trên để có cái nhìn đa diện, đa
chiều về những yếu tố tác động đến mức sống và dự báo xu hướng biến đổi

mức sống của người dân trong quá trình đô thị hoá.
Theo lý thuyết về sự BĐXH có hai quá trình có thể xảy ra: sự biến đổi
từ từ- tiến hoá và sự biến đổi nhảy vọt- cách mạng. Nghiên cứu những biến
đổi về mức sống của nhóm dân chuyển cư ở một thành phố như Đà Nẵng có
thể xem xét sự biến đổi dưới cả hai quá trình này song sự biến đổi này có thể
xem xét nhiều hơn dưới góc nhìn tiến hoá.
Các nhà xã hội học đại diện tiêu biểu cho quan điểm tiến hoá là A.
Comte (1798-1857) và H.Spencer (1820-1883). Các ông cho rằng, BĐXH là
sự tăng trưởng và phát triển của xã hội (cả vật chất lẫn trí tuệ) cùng năng
suất lao động xã hội. Đó là quá trình tiến hoá tất yếu của mọi xã hội cùng
với quá trình tích luỹ tri thức và khoa học công nghệ của con người [39,
tr.256].
Theo A. Comte, mọi xã hội đều tuần tự biến đổi qua ba giai đoạn:
thần học, siêu hình và thực chứng. A.Comte cho rằng trí tuệ là động lực, sức
mạnh duy trì và phát triển xã hội; đến lúc nào đó khoa học sẽ thống trị xã
hội. Như vậy có thể dự báo được sự BĐXH dựa trên sự phát triển của tri
thức nhân loại.
H.Spencer thì cho rằng, xã hội sẽ phát triển từ một xã hội có cấu trúc
và trình độ giản đơn, thấp kém tiến dần lên các mức phát triển phức tạp, cao
hơn. Trong quá trình này, một xã hội có thể biến đổi một cách tích cực (thích
ứng) hay tiêu cực (không thích ứng) và sự lựa chọn này sẽ gắn kết với số
phận của nó [22, tr.4], nghĩa là các cá thể, các phân hệ, các nhóm xã hội yếu
kém không thích nghi được với tiến trình phát triển xã hội sẽ bị, loại bỏ dần.


Như vậy, theo quan điểm này thì BĐXH là “sự tiến hoá một chiều” [6,
tr.252], tất cả các xã hội đều tiến hoá từ hình thức đơn giản đến phức tạp, hình
thức sau bao giờ cũng tiến xa hơn những hình thức trước của nó.
Nhìn chung, hạt nhân hợp lý của lý thuyết này là khẳng định đặc trưng
cơ bản của BĐXH, đó là tiến bộ xã hội. Đô thị hoá nhằm kiến tạo lại môi

trường sống dân cư là hoạt động mang tính tất yếu của sự phát triển xã hội.
Xem xét sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC ở Đà Nẵng phải
được đặt trong quá trình vận động, phát triển chung đó mới nhận thức được
bản chất vấn đề.
Ở đây, biến đổi mức sống, một mặt phải xem xét đầy đủ các yếu tố tạo
thành về cả vật chất lẫn tinh thần và mặt khác là các chiều hướng biến đổi
thuận và nghịch của quá trình này. Trên cơ sở đó mà đánh giá tổng hợp sự
biến đổi.
1.2.2. Lý thuyết xung đột
Luận điểm gốc của thuyết xung đột cho rằng, do có sự khan hiếm các
nguồn lực (đất đai, nguyên vật liệu, tiền tài, địa vị ...) và do sự phân công lao
động và sự bất bình đẳng trong phân bổ nguồn lực, quyền lực nên quan hệ
giữa các cá nhân, các nhóm xã hội luôn nằm trong tình trạng mâu thuẫn,
cạnh tranh với nhau vì lợi ích [17, tr. 232]. Theo quan niệm của Mác và
Ăngghen thì “toàn bộ sự phát triển của xã hội loài người từ ngày đầu của
thời đại văn minh cho đến tận ngày nay diễn ra trong một mối mâu thuẫn
thường xuyên giữa giai cấp bóc lột, áp bức với giai cấp bị bóc lột, bị áp bức”
[16, tr.232]. Nghĩa là, chính mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp là
nguồn gốc và động lực của sự biến đổi, phát triển lịch sử xã hội loài người.
Các lý thuyết xung đột đã giải thích BĐXH như là hệ quả của cuộc
đấu tranh giành ưu thế giữa các giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau trong


những xã hội có phân chia giai cấp. Đặc biệt lý thuyết macxit về BĐXH
mang tính tích cực hơn khi nhấn mạnh khả năng của con người có thể ảnh
hưởng tới số phận riêng của họ thông qua các hoạt động chính trị - xã hội.
Nhất là khi cách mạng khoa học và công nghệ thông tin phát triển ở trình độ
cao đã làm cho vai trò, động lực của con người càng trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết.
Quan điểm xung đột rõ ràng cho ta một cách nhìn sâu sắc, khi xem xét

và giải quyết các mâu thuẫn, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nhóm xã hội với
nhau, giữa các tổ chức và cá nhân trong vấn đề phân chia lợi ích. Với cộng
đồng dân cư phải di dời, giải toả, lý thuyết xung đột giúp chúng ta đi sâu,
xem xét những xung đột trong bản thân người dân TĐC trước những lựa
chọn quyết định có liên quan đến đời sống gia đình, đồng thời còn nhằm lý
giải sự chênh lệch về lợi ích giữa người dân bị thu hồi đất phải di dời với lợi
ích của các chủ dự án.
Chuyển đổi nơi cư trú tất yếu dẫn đến chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp,
thu nhập và như vậy có sự phân định mức sống giữa các nhóm xã hội khác
nhau. Có thể khẳng định, tính năng động của hộ gia đình phần nào ảnh
hưởng đến mức sống. Những hộ năng động, có kiến thức, có năng lực, thích
ứng nhanh với môi trường mới, lựa chọn được phương thức làm ăn mới thì
sớm ổn định cuộc sống. Điều này, một phần nào, làm phân hoá giàu nghèo
tăng và cũng làm tăng sự bất bình đẳng giữa các nhóm hộ có cơ cấu nghề
nghiệp khác nhau. Đây là những yếu tố giúp cho việc nhìn nhận một cách
sâu sắc hơn những biến đổi diễn ra trong cộng đồng dân chuyển cư đã được
nghiên cứu.
1.2.3. Tiếp cận theo lý thuyết hệ thống


Lý thuyết hệ thống được áp dụng trong nghiên cứu xã hội đã coi xã
hội là một hệ thống với tập hợp những yếu tố liên hệ với nhau, tạo thành
sự thống nhất ổn định và tính chỉnh thể. Hệ thống này có những thuộc tính
và những quy luật tích hợp [5, tr.20]. Nguyên lý tính chỉnh thể là nguyên
lý xuất phát đồng thời là nguyên lý trung tâm của lý thuyết hệ thống. Nó
cho thấy đặc trưng cơ bản nhất của hệ thống là tính thống nhất chỉnh thể.
Tính thống nhất của hệ thống còn là sự thống nhất trong đa dạng hay gọi
đó là nguyên lý tính phức thể. Hệ thống là một thể phức tạp, đa cấu trúc,
đa chức năng, phức tạp về các loại quan hệ. Trong cấu trúc có hệ thống
đóng khác với hệ thống mở; hệ thống thuần nhất khác với hệ thống không

thuần nhất; Hệ thống điều khiển với hệ thống bị điều khiển. Còn trong chức
năng có những phạm trù thể hiện hành vi, hành động, hoạt động nhằm duy
trì hệ thống; trong quan hệ có quan hệ vĩ mô khác quan hệ vi mô, quan hệ
bên trong (nội tại) khác với quan hệ bên ngoài...
Lý thuyết hệ thống trong xã hội học gắn liền với tên tuổi Talcott
Parsons - nhà xã hội học người Mỹ.
Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một trục toạ độ 3
chiều: cấu trúc - chức năng - kiểm soát. Tức là hệ thống nào cũng có cấu trúc
của nó, hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự biến đổi vừa trao đổi
với môi trường xung quanh, hệ thống có khả năng điều khiển và tự điều
khiển [17, tr.204].
Parsons đã đưa ra sơ đồ nổi tiếng về hệ thống chức năng xã hội, viết
tắt là AGIL. Trong đó gồm bốn loại yêu cầu chức năng hợp thành: (A) thích
ứng với môi trường; (G) Hướng đích - huy động các nguồn lực để đạt mục
tiêu; (I) Liên kết, phối hợp các hoạt động; (L) Duy trì khuôn mẫu để tạo ra
sự ổn định , trật tự.


Tương ứng với sơ đồ trên, trong hệ thống xã hội, người ta có tiểu hệ
thống kinh tế; tiểu hệ thống chính trị; tiểu hệ thống pháp luật và tiểu hệ
thống các giá trị, chuẩn mực xã hội được quy chuẩn thông qua các thiết chế
gia đình, nhà trường, tổ chức văn hoá, tôn giáo [17, tr.204].
Tương quan và tương tác AGIL sẽ đảm bảo trật tự, ổn định của hệ
thống xã hội.
Với những đặc trưng, tính chất nói trên, chúng ta có thể vận dụng
thuyết hệ thống vào nghiên cứu sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau
TĐC.
Trước hết coi mức sống như là tổng hợp của nhiều yếu tố thống nhất.
Tính chỉnh thể của mức sống thể hiện qua các yếu tố cấu thành như mức
sống vật chất và mức sống tinh thần. Trong đó mức sống vật chất thể hiện ở

mức ăn, ở, mặc, đi lại, học tập, chăm sóc sức khoẻ,… và mức sống tinh thần
thể hiện ở mức hưởng thụ các thành quả về văn hoá, nghệ thuật, nghỉ ngơi,
vui chơi, giải trí và các quyền tự do chính trị mà người ta được hưởng.
Đến lượt nó, mức sống lại chịu tác động của tổ hợp các yếu tố kinh tế
xã hội như nghề nghiệp, gia đình, địa vị xã hội, giới, học vấn và môi trường
xã hội. Nghiên cứu sự biến đổi về mức sống cần phải đặt trong tổng thể hệ
thống những yếu tố này.
Ngoài ra còn phải xem xét mức sống như một phạm trù có tính hệ
thống luôn luôn biến đổi và ngày càng được nâng cao. Khi xã hội phát triển,
mức sống cũng chuyển động theo đúng khả năng của mỗi cá nhân và gia
đình. Sự hướng đích của mọi sự phát triển là tạo ra sự cân bằng, hài hoà
trong hệ thống mức sống của từng nhóm xã hội và ảnh hưởng của nó đến các
phương diện khác của xã hội.


Tóm lại, sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC sẽ được lý
giải phần nào theo các nguyên lý của hệ thống, và thông qua đó để phân tích
những đặc điểm của sự biến đổi và những nhân tố tác động đến quá trình đó.
1.2.4. Tiếp cận theo lý thuyết di dân
Đã có nhiều quan niệm khác nhau về di dân, tuy nhiên có thể hiểu di
dân theo hai cấp độ sau đây:
Theo nghĩa rộng: Di dân là sự di chuyển của người dân trong không
gian và thời gian nhất định. Theo quan niệm này thì di dân là khái niệm chỉ
mọi sự vận động, dịch chuyển của dân cư.
Theo nghĩa hẹp: Di dân là sự di chuyển của dân cư từ một đơn vị lãnh
thổ này sang đơn vị lãnh thổ khác, nhằm xác lập nơi cư trú mới trong một
khoảng thời gian nhất định (Liên hợp quốc).
Như vậy, theo quan niệm này thì di dân được hiểu là sự di chuyển dân
cư gắn với việc thiết lập nơi cư trú mới. Đây cũng là quan niệm mà tác giả
sử dụng để nghiên cứu quá trình người dân di chuyển để tái lập lại nơi cư trú

mới trong quá trình thực hiện chủ trương di dời, giải toả nhằm chỉnh trang
đô thị ở Đà Nẵng.
Có nhiều cách phân loại các hình thức di dân khác nhau. Theo độ dài
thời gian cư trú, có các hình thức di dân lâu dài, tạm thời và chuyển tiếp.
Theo khoảng cách người ta phân biệt di dân xa hay gần, giữa nơi đi và
nơi đến. Trên bình diện chung có thể chia thành di dân quốc tế và di dân nội
địa. Ở hình thức di dân nội địa, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu có thể
chia ra di dân nội vùng và di dân ngoại vùng.
Theo tính pháp lý, người ta phân biệt di dân hợp pháp hay không hợp
pháp; di dân tự do hay có tổ chức; di dân tình nguyện hay bắt buộc. Tuỳ vào
mức độ can thiệp của chính quyền mà người ta phân chia di dân theo loại
này hay loại khác.


Di dời giải toả và TĐC đang là chủ trương lớn của thành phố Đà Nẵng
nhằm thực hiện quy hoạch, chỉnh trang đô thị (CTĐT). Đây cũng là xu
hướng tất yếu của quá trình đô thị hoá theo chiều sâu nhằm hướng tới một xã
hội văn minh hiện đại.
Quá trình di dời giải toả, tái lập nơi cư trú mới ở các khu TĐC của
một bộ phận dân cư ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay là hình thức di dân lâu
dài, thuộc diện di dân nội vùng có tổ chức, có kế hoạch. Người dân di chuyển
nơi ở trong phạm vi thành phố, theo kế hoạch giải toả di dời mà thành phố đã
định sẵn.
Di dân vốn mang bản chất kinh tế - xã hội sâu sắc, vì vậy để quá trình
di dân và TĐC đạt hiệu quả mong muốn thì vấn đề đặt ra là phải chú trọng
đến các mục tiêu kinh tế và xã hội. Do đó, động cơ di dân đến các khu tái
định được luận văn đặc biệt quan tâm xem xét.
Về các nguyên nhân di dân chủ yếu, trên cơ sở quan sát các hiện tượng
di dân trên thế giới, nhiều lý thuyết di dân đã được khái quát, trong đó phải kể
đến lý thuyết “lực hút - lực đẩy” do Ravenstein (1889) là người đầu tiên đưa ra.

Theo GS.TS. Tống Văn Đường thì khi phân tích các dòng di dân ở nước
Anh, Raventein cho rằng các yếu tố “lực hút” quan trọng hơn các yếu tố “lực
đẩy”. Ông nói rằng: “Các luật lệ tồi hoặc ngột ngạt, thuế khoá nặng nề, khí hậu
không thuận hoà, môi trường xã hội xung quanh không cởi mở, thậm chí có sự
cưỡng bức (trong buôn bán, vận chuyển nô lệ), tất cả những điều đó đã và đang
tạo ra các hình thức di dân, tuy nhiên không có loại hình thức di dân nào có thể
so sánh với khát vọng tiềm ẩn trong mỗi người đàn ông vươn lên “làm tốt hơn”
cuộc sống của chính họ về phương diện vật chất [10, tr.86]. Nghĩa là Raventein
cho rằng khát vọng vươn lên phía trước, hướng tới điều kiện sống tốt hơn,
thuận lợi, đó mới chính là thực chất động cơ di dân của phần lớn dân di cư.


Ngoài ra còn có các lý thuyết di dân mới lý giải các nguyên nhân di dân.
Chẳng hạn một vài lý thuyết điển hình như mô hình phân tích “chi phí - lợi ích”
trong quyết định di dân. Người di cư sẽ cân nhắc các yếu tố lực đẩy và các yếu
tố lực hút và họ sẽ di cư nếu như nhận thấy lợi ích có được nhiều hơn chi phí.
Chẳng hạn như anh thiếu việc làm hay thất nghiệp, mức sống thấp trong khi đó
ai di dân đến nơi ở mới có việc làm tốt hơn, thu nhập cao hơn... thì người ta dễ
dàng thực hiện quyết định di dân. Có thể nói, quyết định di dân còn phụ thuộc
vào một số biến số khác nữa, tuy nhiên trong đó các biến số kinh tế là chủ đạo
lý giải nguyên nhân di dân, sau đó là các cơ hội, phát triển cá nhân và ý thức
cộng đồng.
Như vậy các lý thuyết di dân đều chỉ ra yếu tố lợi ích, đặc biệt lợi ích
kinh tế là động cơ chính yếu tạo ra “lực hút” các dòng di cư đến các khu
định cư mới. Đây chính là căn cứ để đi vào phân tích sự biến đổi mức sống
của người dân sau TĐC, đồng thời cũng là cơ sở khoa học để tác giả đề xuất
các giải pháp nhằm ổn định và nâng cao mức sống cho người dân sau TĐC.
Đời sống của người dân ở các khu TĐC sớm ổn định và được nâng
cao là yếu tố quan trọng, quyết định sự ổn định chính trị - xã hội và là tiền
đề để thúc đẩy nhanh tiến trình phát triển đô thị hoá theo chiều sâu của Đà

Nẵng nói riêng và cả nước nói chung trong những năm tới.
1.3. QUAN ĐIỂM CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ ĐÔ THỊ
HOÁ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ

1.3.1. Quan điểm về đô thị hoá
Đô thị hoá là quá trình mở rộng đô thị, biến nông thôn thành thành thị
tạo môi trường sống theo hướng văn minh, hiện đại nhằm thoả mãn ngày
càng tốt hơn nhu cầu phát triển của cá nhân và xã hội. Do vậy, đô thị hoá
vừa là xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử xã hội, vừa là thước đo trình
độ phát triển của mỗi quốc gia, mỗi địa phương.


Lịch sử hàng ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng các đô thị
thường đóng vai trò là các trung tâm kinh tế, chính trị, thương mại, văn hoá
và xã hội, là động lực của sự tiến bộ xã hội. Các đô thị luôn giữ vai trò là
đầu tàu dẫn dắt các cộng đồng nông thôn đi theo mình trên con đường tiến
bộ và văn minh. Theo dự báo của Liên hợp quốc, đến năm 2007, trên trái đất
chúng ta sẽ có tỷ lệ dân số sống ở các đô thị vượt quá con số 50%, tức là
phần lớn nhân loại đang và sẽ sống trong môi trường đô thị.
Nhận thức sâu sắc quy luật vận động phát triển của lịch sử, đồng thời
thấy được vai trò đầu tàu của đô thị trong việc phát triển kinh tế - xã hội,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm coi trọng đến chiến lược đô thị hoá và
lấy quan điểm phát triển bền vững với mục tiêu vì con người, lấy con người
làm trung tâm, xác định “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển” làm trọng.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: “Sớm quy
hoạch mạng lưới đô thị lớn, vừa và nhỏ trong toàn quốc phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển đô thị đi đôi với việc xây dựng đồng bộ và
quản lý các công trình công cộng (điện, cấp thoát nước, cây xanh...) [7, tr.214].
Nghĩa là không thể để quá trình đô thị hoá diễn ra một cách tự phát, xen lẫn

giữa cái được, cái mất mà phải dựa trên cơ sở đã được kế hoạch hoá trong
chiến lược phát triển, lâu dài của đất nước.
Theo Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII), phương hướng phát triển
đô thị nước ta là: "cải tạo, mở rộng, nâng cấp đô thị hiện có. Xây dựng Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ thành
những trung tâm lớn song tránh tập trung quá đông dân cư. Nâng cấp một số
đô thị loại vừa, trước hết là các đô thị nằm trên trục đường giao thông chính,
ở các cửa khẩu, các địa bàn kinh tế trọng điểm”. Đô thị hoá phải gắn liền với


mục tiêu là “tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời
sống nhân dân” [8, tr.90].
Trong quy hoạch phát triển mạng lưới đô thị ở Việt Nam, Đà Nẵng
được xác định là thành phố trung tâm về kinh tế, chính trị - văn hoá - xã hội
của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Kể từ khi trở thành đơn vị hành
chính trực thuộc Trung ương từ 1997, cấp uỷ và chính quyền thành phố đã
chủ trương đẩy mạnh công tác quy hoạch, tăng cường đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng một cách đồng bộ, xây dựng thành phố theo hướng văn minh
hiện đại.
Ngay từ năm 1997, các cơ quan chức năng đã đưa ra quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2010 với nội dung: xây
dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một đô thị hiện đại, văn minh, phát triển
trong thế ổn định và bền vững, có vị trí trung tâm của miền Trung và Tây
Nguyên về công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, tài chính, bưu chính
viễn thông, giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ trong mối quan hệ
với cả nước, khu vực ASEAN, mà trước tiên là các lãnh thổ phía tây: Lào,
Campuchia, Thái Lan, Mianma [35, tr.35].
Ngày 16/10/2003, Bộ Chính trị ban hành nghị quyết 33/NQ-TW về
xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH-HĐH đất
nước và đã xác định: Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong

những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền
Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ,
là thành phố Cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận
tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính viễn thông và tài chính - ngân
hàng; một trong những trung tâm văn hoá - thể thao, giáo dục - đào tạo về
khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược về quốc
phòng, an ninh của khu vực miền Trung và của cả nước.


Nghị quyết nói trên của Bộ Chính trị thực sự là một sự định hướng
chiến lược cho Đà Nẵng phát triển mạnh trong tương lai không xa.
1.3.2.Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về tái định cư
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về TĐC được thể hiện
qua các văn bản pháp lý liên quan đến đền bù thiệt hại và TĐC.
Nghị định 151 của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/4/1959
quy định về thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất là văn bản pháp quy đầu
tiên liên quan đến việc đền bù và TĐC bắt buộc ở Việt Nam. Nghị định này
đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản trong việc trưng dụng ruộng đất của nhân
dân cho việc xây dựng các công trình do Nhà nước quản lý.
Tuy nhiên, trước năm 1992, đất đai chưa được giao cho các hộ gia
đình sử dụng ổn định và lâu dài nên khi cần Nhà nước chỉ thu hồi lại mà
không nhất thiết phải đền bù hoặc chỉ đền bù cho chính quyền địa phương
hay tập thể đang sử dụng đất, mức đền bù các tài sản bị thiệt hại không được
quy định rõ ràng mà giải quyết theo thoả thuận.
Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 1993 và 2003
đã đặt cơ sở nền tảng pháp lý cho chính sách đền bù, TĐC ngày càng đi dần
đến sự hoàn chỉnh hơn để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đời sống.
Bản Hiến pháp sửa đổi được thông qua năm 1992 đảm bảo quyền dân
chủ của công dân, quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai và tài nguyên,
quyền sử dụng đất của các tổ chức và cá nhân; đặc biệt Hiến pháp 1992 còn

bao gồm việc công nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tư
nhân về tài sản và sản xuất.
Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 là những
văn kiện quan trọng làm cơ sở cho việc thực hiện đền bù và TĐC cho những
người bị mất nơi ở một cách không tự nguyện.


Các Luật Đất đai nói trên đã xác định: đất đai thuộc quyền sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Các tổ chức và cá nhân không thể
sở hữu đất đai nhưng lại được giao quyền sử dụng đất và điều này lại tạo ra
cơ sở pháp lý cho quyền đền bù khi Nhà nước thu hồi đất.
Các đạo luật nói trên thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
trong việc thống nhất quản lý đảm bảo lợi ích chính đáng, hài hoà giữa Nhà
nước với người dân, đồng thời vừa là cơ sở để xác lập hệ chính sách đền bù,
TĐC... Hàng loạt các nghị định, thông tư được ban hành như: Nghị định
60/CP (1994): Quyền sở hữu đô thị; Nghị định 87/CP (1994): Quy định về
khung giá các loại đất; Nghị định 90/CP (1994): Đền bù thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất; Thông tư 15/LĐ-TB-XH (1995): Trợ cấp cho các gia đình
chuyển đến vùng kinh tế mới; Nghị định 22/CP (1998) về việc đền bù thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; đặc biệt là Nghị định 197/CP (2004) về
bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất đã và đang bảo đảm
quyền lợi thiết thực cho người dân. Hệ thống các văn bản pháp quy nói trên
đang tiến dần tới một chính sách TĐC hoàn chỉnh. Nếu các văn bản trước
năm 1998 chủ yếu chú trọng đến việc đền bù cho các thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất thì từ Nghị định 22/1998/NĐ-CP về sau, đặc biệt là Nghị định
197/2004/NĐ-CP đã có thêm nhiều điều khoản quy định về sự hỗ trợ cũng
như lập khu TĐC để tạo nơi ở mới và ổn định đời sống và sản xuất cho
người dân sau TĐC. Trong các nghị định này, chính sách hỗ trợ và TĐC đều
hướng tới mục tiêu bồi thường, hỗ trợ thoả đáng (tất nhiên là tuỳ theo điều

kiện cụ thể của từng địa phương) quyền lợi của người dân, từ khâu bồi
thường các thiệt hại về đất đai, tài sản đến khâu hỗ trợ di chuyển, ổn định
đời sống và sản xuất ở nơi TĐC.


Từ năm 1998 đến nay trong các nghị định của Chính phủ đã được bổ
sung thêm 2 chương mới là “chính sách hỗ trợ” và “tái định cư”.
Về chính sách hỗ trợ, trong các nghị định, Chính phủ đã có quy định
cụ thể mức hỗ trợ về di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất;
hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm và các hỗ trợ khác nhằm giúp
người dân TĐC sớm ổn định thu nhập và đời sống.
Về TĐC, các điều 28, 29, 30, 31 của Nghị định 22/1998/NĐ-CP đã
quy định về việc lập và tổ chức khu TĐC tập trung hoặc phân tán cho phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương; khu TĐC phải xây dựng phù hợp
với quy hoạch, tiêu chuẩn và quy chuẩn xây dựng; trước khi bố trí đất ở cho
các hộ gia đình, cá nhân, khu TĐC phải được xây dựng cơ sở hạ tầng thích
hợp, phù hợp với thực tế quy hoạch về đất ở, đất xây dựng của địa phương.
Đến Nghị định 197/2004/NĐ-CP, việc lập và bố trí TĐC lại được quy định
một cách cụ thể, chi tiết hơn. Đặc biệt đối với “điều kiện bắt buộc đối với
khu tái định cư” được điều 35 của Nghị định quy định một cách chặt chẽ, có
lợi cho cuộc sống của người dân sau TĐC như sau:“Trước khi bố trí đất ở
cho các hộ gia đình, cá nhân, khu TĐC phải được xây dựng cơ sở hạ tầng
đồng bộ đảm bảo đủ điều kiện cho người sử dụng tốt hơn hoặc bằng nơi ở
cũ” [4, tr.35]. Điều 36 còn quy định “các biện pháp hỗ trợ sản xuất...” Như
vậy, cùng với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ngày càng
mạnh mẽ, nhu cầu di dời giải toả để thực hiện các dự án phát triển ngày càng
tăng thì hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn
đề TĐC cũng ngày càng được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hơn. Mọi
quan điểm, chính sách đều hướng đến mục tiêu phát triển đất nước, mang lại
cuộc sống tốt đẹp hơn cho cá nhân và cộng đồng.

Trên cơ sở quan điểm, chính sách chung về TĐC của Đảng và Nhà
nước, UBND thành phố Đà Nẵng đã cụ thể hoá bằng những Quyết định


4503/1998; Quyết định 170/1999; Quyết định 141/2002; Quyết định
122/2003 và Quyết định 209/2004 ban hành quy định tạm thời về bồi
thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Các chế độ, chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC được thành phố
điều chỉnh theo hướng ngày càng đảm bảo lợi ích thiết thực cho đối tượng bị
ảnh hưởng bởi dự án. So với các quyết định ban hành tư năm 2003 về trước,
Quyết định 209/2004 đã có những quy định đem lại lợi ích hài hoà giữa Nhà
nước và nhân dân. Ví dụ, trước đây giá đất trong khu TĐC nhà nước bán lại
cho người dân quá cao so vơi giá mà người dân được đền bù khi giải toả thì
giờ đây đã được điều chỉnh phù hợp hơn; Hay chính sách hỗ trợ TĐC (hỗ trợ
di chuyển,thuê nhà ở, đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp…)đã được
thành phố quy định một cách rõ ràng,cụ thể. Đặc biệt, trong Quyết định
209/2004, thành phố còn có chính sách phân thêm các lô đất phụ cho những
hộ gia đình có diệm tích đất thu hồi lớn và đông nhân khẩu(tối đa là 5 lô).
Các quyết định nêu trên đều mang tinh thần chỉ đạo là hướng đến thực
hiện “Chủ trương của thành phố là tất cả các hộ dân sau khi giải toả, TĐC
phải có cuộc sống tốt hơn trước về mọi mặt, tuyệt đối không để hộ nào rơi
vào cuộc sống khó khăn hơn”. Đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan
trọng để đi sâu phân tích thực trạng những biến đổi về mức sống của nhóm
dân phải di dời, giải toả sau TĐC ở thành phố Đà Nẵng.



×