Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TRIẾT lý NHÂN SINH NHO GIÁO và ẢNH HƯỞNG của nó đối với lối SỐNG của NGƯỜI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.84 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN TẶNG

TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS,TS Ngô Ngọc Thắng

HÀ NỘI - 2010
1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc là một nước lớn, có lịch sử văn hóa lâu đời và ảnh hưởng sâu, rộng trên thế giới. Nền văn
hoá Trung Hoa cổ đại là chiếc nôi của nền văn minh phương Đông, nó hàm chứa bao giá trị tinh thần bí ẩn,
độc đáo và hữu ích. Những giá trị tiềm tàng ấy đã, đang và sẽ thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
văn hoá không những ở nước ta mà còn trên phạm vi cả thế giới. Ngày nay, đã có nhiều cuộc Hội thảo bàn
về triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của nó được tổ chức nhiều ở các nước, như: Trung Quốc, Nhật
Bản, Singapo, Việt Nam... Các ấn phẩm về triết lý nhân sinh Nho giáo Trung Hoa cổ đại được dịch và phát
hành rộng rãi ở nhiều quốc gia, như: Anh, Pháp, Nga, Mỹ... Tựu trung lại, mục tiêu của việc này là nhằm
nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan hơn vai trò của triết lý nhân sinh Nho giáo trong các học thuyết


triết học Trung Hoa cổ đại với quá trình phát triển nhân loại trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, có những diễn biến thuận, nghịch vô cùng phức tạp trên mọi mặt của đời sống
xã hội. Trước những vấn đề lối sống, đạo đức đang diễn ra phức tạp trong xã hội ta hiện nay lại đặt ra câu
hỏi, phải chăng chúng ta có một thời kỳ quá coi nhẹ những giá trị nhân sinh truyền thống; đã gạt bỏ đi nhiều
những nhân tố tốt đẹp mà nếu biết sáng tạo và phát huy đã có thể góp phần củng cố cuộc sống gia đình, hoàn
thiện các quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh cộng đồng để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng lâu đời và sâu sắc của nền văn hoá Trung Hoa cổ đại. Đặc
biệt là tư tưởng nhân sinh Nho giáo đã được những nhà lãnh đạo, quản lý sử dụng như là tư tưởng chủ đạo
trong kiến trúc thượng tầng xã hội suốt thời kỳ phong kiến và cho đến hôm nay, nó vẫn còn tồn tại hiện hữu
và tiếp tục tác động trên mọi mặt của đời sống xã hội. Ngày nay, chúng ta tìm hiểu những tư tưởng nhân sinh
Nho giáo không phải chỉ để thấy được sự vĩ đại của những triết gia mà mục đích thiết thực hơn là để coi
trọng giáo dục đạo lý làm người trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng - văn hoá Việt Nam người ta thường nói đến sự du nhập và vai trò của Nho
giáo, Phật giáo, Đạo giáo trong lịch sử tư tưởng, văn hoá của dân tộc. Nhưng về cội nguồn của sự gắn bó,
giao thoa, ảnh hưởng của ba đạo mới chỉ là những nhận định, nghiên cứu mang tính chất tổng quan. Vì vậy,
nghiên cứu triết lý nhân sinh Nho giáo Trung Hoa cổ đại để tiếp tục làm rõ những nhận định này sẽ giúp cho
chúng ta có hướng tiếp thu, kế thừa, phát huy văn hoá truyền thống một cách đúng đắn hơn.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, các phạm trù: trung, hiếu, đức, nhân, tâm, lợi... đã xuất hiện khá phổ biến
trong cuộc sống hàng ngày, trên nhiều lĩnh vực nhưng nội hàm những giá trị và sự tiếp biến của nó còn ít
người hiểu một cách tường tận và sâu sắc. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần đánh giá đúng giá trị
tiềm ẩn trong kho tàng văn hoá truyền thống, góp phần vào xây dựng lối sống, nếp sống mới mang đậm đà
bản sắc dân tộc. Cho nên, tôi chọn vấn đề triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với lối sống
của người Việt Nam làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trung Quốc là quê hương của những tư tưởng đặc sắc, uyên thâm và bí ẩn mà cho đến nay, nhân loại
vẫn đầy ngưỡng mộ và khâm phục. Vì vậy, vấn đề tư tưởng - văn hóa Trung Hoa cổ đại nói chung, triết lý
nhân sinh Nho giáo nói riêng đã thu hút nhiều sự tranh luận, quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả.
Trên thế giới một số nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo nhưng vẫn đạt được một số kết quả khả quan về
ổn định xã hội và phát triển kinh tế do biết phát huy những mặt tích cực của Nho giáo, từ công cuộc đổi mới

đất nước hiện nay đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa của dân tộc, nhiều

2


nhà nghiên cứu đã đi sâu vào tìm hiểu về Nho giáo ở Việt Nam, nêu ảnh hưởng của nó trong các lĩnh vực:
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, giáo dục… Và đặc biệt những vấn đề của Nho giáo được đem ra bàn luận,
như: Vì sao Nho giáo lại có sức sống dai dẳng hàng ngàn năm ở các nước Phương Đông; Nho giáo là học
thuyết chính trị - xã hội hay là học thuyết về đạo đức, nhân sinh; Về trung - hiếu - lễ và ảnh hưởng của nó đối
với lối sống như thế nào… Liên quan đến lĩnh vực này có các công trình của những tác giả:
Cuốn: Triết lý nhân sinh của Lê Kiến Cầu. Tác giả đã trình bày một cách logic, khoa học, phân tích khá
cụ thể các vấn đề nhân sinh, ý nghĩa nhân sinh trên các bình diện khác nhau, như ý nghĩa nhân sinh, vấn đề
nhân sinh và nhân sinh quan, qua đó giúp cho độc giả có thể rút ra những suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề
của bản thân một cách hiệu quả. Tuy nhiên, tác giả đề cập vấn đề nhân sinh qua các câu hỏi nhỏ rồi tự trả lời
các câu hỏi đó dưới dạng thảo luận vấn đề.
Cuốn: Nho giáo, ảnh hưởng của nó - vấn đề của ngày xưa và ngày nay ở nước ta của cố Phó Giáo sư
Trần Đình Hượu. Trong đó tác giả đã hệ thống hoá quá trình hình thành và phát triển của Nho giáo một cách
khái quát, phân tích những giá trị truyền thống ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân, chỉ ra những mặt tích
cực cũng như hạn chế của Nho giáo. Từ đó đưa ra những nhận định đối với sự tồn tại của Nho giáo trong
trong lịch sử.
Cuốn: Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam của Đào Duy Anh. Đây là công
trình nghiên cứu công phu, trong đó tác giả đã phân tích những ảnh hưởng của Nho giáo trên bình diện chính
trị, văn hoá, xã hội... và từ đó đưa ra nhận định riêng về ảnh hưởng của những giá trị Nho giáo đối với văn
hóa nước ta.
Cuốn: Bàn về Nho giáo của Nguyễn Khắc Viện, trong đó tác giả đã nêu những mặt tích cực cũng như
hạn chế của Nho giáo; Bàn về những điều tâm đắc của mình khi nghiên cứu, tìm hiểu Nho giáo, đánh giá cao
đạo làm người và vấn đề đối nhân xử thế của Nho giáo.
Ngoài ra còn phải kể đến: Nguyễn Đăng Duy với Nho giáo với văn hóa Việt Nam; Vũ Khiêu với Nho
giáo và đạo đức, Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam; Nguyễn Tài Thư với Nho học và Nho học ở Việt
Nam và vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ; Nguyễn Hùng Hậu với triết lý trong văn hóa phương Đông;

Vũ Khiêu với Nho giáo và gia đình; Quang Đạm với Nho giáo xưa và nay; Hà Thúc Minh với Đạo Nho và
văn hóa Phương Đông; Trần Thị Hồng Thúy với Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt
nam truyền thống.
Bên cạnh việc phân tích những ảnh hưởng của Nho giáo, nhiều tác giả còn đặt ra vấn đề kế thừa và phát
huy những giá trị tích cực, khắc phục tiêu cực, góp phần xây dựng lối sống của người Việt Nam hiện nay.
Bài viết của Tiến sĩ Cung Thị Ngọc (1997) "Vấn đề nhận thức trong triết lý nhân sinh của Trang Tử"
Tạp chí Triết học, số 11; "Một vài nét về triết lý nhân sinh của Trang Tử trong văn hoá phương Đông" Tạp
chí Triết học, số 5 (2001). Trong hai công trình trên tác giả đã phân tích, đánh giá về bản chất, đạo đức, vai
trò của con người trong xã hội, vũ trụ, qua đó chỉ ra sự đồng nhất và khác biệt giữa triết lý nhân sinh của
Trang Tử với hệ thống triết học đương thời nói riêng và phương Đông nói chung một cách khái quát.
Đề tài khoa học cấp Phân viện (2002): "Ảnh hưởng của Nho giáo đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay" do Tiến sĩ Vũ Trọng Dung làm chủ nhiệm, trong đó tác giả đã làm rõ những tư tưởng cơ bản của
Nho giáo và sự tiếp biến tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam. Tác giả cũng đã chứng minh những nhận định về
ảnh hưởng của Nho giáo đối với nước ta trong quá khứ và hiện tại. Từ đó đưa ra một hệ thống các quan điểm
có ý nghĩa phương pháp luận đối với việc xây dựng con người mới, văn hoá mới trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay.

3


Luận án tiến sĩ "Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI
đến nửa đầu thế kỷ XIX)" của Nguyễn Thanh Bình, trong đó tác giả đã phân tích Nho giáo với tính cách là
học thuyết chính trị xã hội. Các vấn đề được tác giả bàn đến như: con người, vai trò của con người trong xã
hội, xã hội lý tưởng, chuẩn mực đạo đức... dưới góc độ chính trị - xã hội.
Đề tài khoa học cấp Cơ sở (2008): "Vấn đề con người trong các học thuyết Trung Hoa cổ đại và một số
ảnh hưởng của nó trong nền văn hoá Việt Nam" do Tiến sĩ Cung Thị Ngọc làm chủ nhiệm, trong đó tác giả
đã trình bày các tư tưởng về vấn đề con người trong các học thuyết Trung Hoa cổ đại và đưa ra nhận định để
chứng minh sự ảnh hưởng của tư tưởng đó trong nền văn hoá Việt Nam. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải
pháp để kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống trong xã hội ngày nay.
Bài viết "Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị nhân sinh truyền thống Việt Nam trong cuộc

sống xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay" (2008) của Phó Giáo sư,
tiến sĩ Lê Bỉnh. Tác giả đã đưa ra một số các giải pháp nhằm kế thừa và phát huy giá trị nhân sinh truyền
thống Việt Nam một cách khái quát trên luận điểm triết học Mác - Lênin, trong đó có sự kết hợp phát triển
kinh tế, tiến bộ xã hội và công bằng xã hội; chăm lo giáo dục, đạo đức cách mạng, giáo dục thẩm mỹ làm
trọng tâm. Đây là những giải pháp mang tính vĩ mô mà tác giả đề xuất trong bài viết của mình.
Bên cạnh đó cần phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả đánh giá rất cao vai trò của Nho
giáo cổ đại, trong đó đã đề cập ở mức độ khác nhau về triết lý nhân sinh và ảnh hưởng của nó đến lối sống
con người Việt Nam, như: Trần Văn Phòng, Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Lan Hương, Doãn Chính,
Nguyễn Tài Đông, Lê Văn Quán, Nguyễn Bằng Tường, Nguyễn Hữu Vui, Ngô Ngọc Thắng, Lương Gia
Tĩnh, Nguyễn Thị Minh Tâm, Lê Thị Thuỷ, Vũ Văn Hậu... Các công trình nêu trên được tôi kế thừa và sử
dụng như là chất liệu, là những ý kiến gợi mở cho sự nghiên cứu của mình.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu của luận văn
Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng nhân sinh Nho giáo Trung Hoa cổ đại; Chỉ ra những giá
trị, hạn chế và ảnh hưởng của nó; Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm kế thừa, phát huy giá trị nhân sinh
Nho giáo trong quá trình xây dựng lối sống của người Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Một là, hệ thống hoá những tư tưởng cơ bản của triết lý nhân sinh Nho giáo thông qua một số học thuyết
triết học Trung Hoa cổ đại.
Hai là, phân tích, đánh giá và chứng minh những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của triết lý nhân sinh Nho
giáo ở nước ta.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm kế thừa, phát huy giá trị nhân sinh Nho giáo đối với lối sống của
người Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trải qua quá trình phát triển lâu đời, ở Trung Hoa cổ đại đã hình thành nên hệ thống triết học với nhiều
trường phái khác nhau, hàm chứa những giá trị triết lý nhân sinh rất sâu sắc. Với khuôn khổ của một luận
văn thạc sĩ triết học, tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu về triết lý nhân sinh Nho giáo cổ đại thông qua một số học
thuyết triết học tiêu biểu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu chủ yếu những triết lý nhân sinh Nho giáo trong các học thuyết triết học Trung
Hoa cổ đại thông qua một số triết gia tiêu biểu.

4


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm kim chỉ nam cho việc phân tích, đánh giá, chứng minh những tư tưởng nhân sinh Nho giáo cổ đại và
mức độ ảnh hưởng của nó.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó chủ yếu vận dụng
phương pháp luận duy vật lịch sử. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp khác, như: hệ thống, phân
tích, so sánh, tổng hợp nhằm tái hiện lại một cách chân thực và đánh giá khách quan những triết lý nhân sinh
Nho giáo thời kỳ tiên Tần.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sâu sắc hơn nhận thức về triết lý nhân sinh Nho giáo một cách có hệ thống
thông qua một số học thuyết triết học Trung Hoa cổ đại.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc kế thừa, phát huy những giá trị nhân sinh Nho
giáo vào xây dựng con người, gia đình văn hoá ngày nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy về môn Lịch sử
triết học - phần lịch sử phương Đông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO
1.1. Quá trình hình thành và biến đổi của Nho giáo
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc

- Về mặt xã hội: Xuân Thu - Chiến Quốc là hai giai đoạn lịch sử của xã hội Đông Chu. Sau khi Chu
Bình Vương lên ngôi do thế và lực không đủ sức chống cự lại sự xâm lược của giặc ngoại tộc, nên đã dời đô
từ Hạo Kinh về Lạc Ấp. Lúc này, nhà Chu không thể giữ được chế độ cai trị như cũ. Các nước chư hầu
không phục tùng vương mệnh, cống nạp mà còn lộng quyền xưng danh nhà Chu để thôn tính lẫn nhau. Xuân
Thu (770 - 403 tr.CN) có hơn một trăm nước, đến thời Chiến Quốc (403- 221 tr.CN) còn có bảy nước, trong
đó Tần là quốc gia hùng mạnh nhất.
- Về mặt kinh tế: Trong nông nghiệp việc sử dụng công cụ bằng sắt ngày càng rộng rãi; Quan hệ trao
đổi sản phẩm lao động xã hội được lưu thông; tiểu, thủ công nghiệp ngày càng mở rộng. Sự phát triển của
các ngành, nghề này không hoàn toàn phụ thuộc vào quyền sở hữu đất đai của nhà nước. Chế độ tư hữu
ruộng đất được nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
- Về mặt chính trị: Một lực lượng kinh tế tư hữu mới ra đời là một thế lực đối chọi với chế độ công hữu
đất đai nhà Chu. Tương ứng với cơ sở kinh tế mới đó là lực lượng chính trị mới - Thế lực địa chủ ở các địa
phương thuộc các nước chư hầu nhà Chu. Xu hướng chính trị của các thế lực mới này là thâu tóm quyền lực,
tập trung uy quyền và mở rộng sự bành trướng thống trị.
- Về mặt tư tưởng, văn hóa: Những tác phẩm có giá trị văn hóa lớn như: Kinh thi gồm 305 bài thơ mang
tính tập thể của nhiều thế hệ, của nhiều tầng lớp khác nhau, nó phản ánh các lĩnh vực khác nhau trong đời
sống xã hội. Bên cạnh đó còn có bộ Sở từ. Đó là tác phẩm của Khuất Nguyên (343 – 227 tr.CN) – là tập dân
ca của nước Sở, trong đó thể hiện tình cảm yêu nước thương dân, sự bình dị gần gũi với nhân dân lao động

5


của Khuất Nguyên. Chính những tác phẩm trên chứa đựng tri thức về văn hóa làm chất liệu xây dựng nên
nền móng cho sự nảy nở tư tưởng triết lý nhân sinh Nho giáo.
Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ của bách gia chư tử, bách gia tranh minh. Chính trong quá trình trăm
nhà cùng tranh luận, nó đã đẻ ra nhiều tư tưởng vĩ đại, trên các lập trường của các giai tầng khác nhau. Đó là
bối cảnh góp phần hình thành nên hệ thống lý luận của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại.
1.1.2. Sự hình thành và biến đổi của Nho giáo
Trong bối cảnh loạn lạc, sự sa đọa của các thế lực cầm quyền khiến cho danh và thực không chính và
thuận, kỷ cương, phép nước, trật tự xã hội bị đảo lộn, nhất là nghi lễ truyền thống của nhà Chu. Nhằm duy trì

địa vị của giai cấp quý tộc thống trị và lễ nghĩa của nhà Chu trong xã hội, Nho giáo ra đời mà Khổng Tử
(551 – 479 tr.CN) là người khởi xướng. Đó là một hệ thống học thuyết, đạo lý bảo vệ và củng cố sự phục hồi
chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa của chế độ chiếm hữu nô lệ nhà Chu.
Dưới thời nhà Hán năm 206 tr.CN Nho giáo được lựa chọn và sử dụng như là vũ khí tinh thần và nó có
vị trí, vai trò cao nhất so với Đạo giáo và Phật giáo. Nho giáo thời kỳ này được nhấn mạnh ở tư tưởng thiên
mệnh, nghĩa, lễ ở tinh thần phục tùng của bề dưới đối với bề trên.
Dưới triều đại nhà Đường thì Nho giáo không chiếm vị trí trọng tâm trong xã hội mà nhường chỗ cho
Phật giáo. Đến thời nhà Tống Nho giáo lại chiếm một vị trí cao nhất trong xã hội. Hán Dũ kêu gọi các nhân
sĩ trở về với tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử, đề cao Mạnh Tử và trở thành ngọn cờ tư tưởng có ảnh
hưởng lớn trong xã hội. Từ thế kỷ XII, đời nhà Tống, dòng tư tưởng này được các nhà Nho phát triển, nổi bật
là hai anh em Trình Hạo (1032 - 1085), Trình Di (1033 - 1107). Nho giáo cho đến thời kỳ này đã trở thành
một hệ thống triết học, chính trị, đạo đức, xã hội hoàn chỉnh.
Dưới triều đại Nguyên Mông thống trị Trung Hoa, Nho giáo vẫn được suy tôn, được thể hiện ở công
việc giảng đạo và thi cử. Đến đời nhà Minh khoảng thế kỷ XVI thì Nho giáo được phát triển và biến đổi theo
hướng duy tâm cực đoan. Đến đời nhà Thanh, xã hội có nhiều thay đổi, văn hóa Trung Hoa và văn hóa
phương Tây có sự giao thoa, nên Nho giáo không được đề cao trong xã hội.
1.2. Một số nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh Nho giáo
1.2.1. Khái niệm về triết lý
Theo tác giả Nguyễn Tất Thịnh thì triết lý được hiểu: Là những điều được rút tỉa bởi trải nghiệm, như
một quan niệm nền tảng, cốt lõi trên cơ sở nhìn nhận điều gì là nguồn cội tâm thế, giá trị tinh thần, sức mạnh
ứng xử được phát biểu ngắn gọn, xúc tích - Như một tín điều, làm kim chỉ nam cho cách xử thế, hành động
hay lối sống của một cá nhân hay một cộng đồng. Triết lý biểu hiện dưới khía cạnh:
- Con người có sự suy tư duy nhất trong mục đích của mình.
- Con người biết suy tư, đó là niềm tự hào của nhân loại.
- Sự bế tắc của con người trong suy tư.
1.2.2. Khái niệm về nhân sinh
Nhân sinh không chỉ bao gồm cuộc sống của con người và sinh mệnh của con người mà gồm cả nhân
tính nữa. Nhân sinh được biểu hiện ở khía cạnh sau:
Thứ nhất, về mặt sinh mệnh của con người. Đó chính là yếu tố cơ bản duy trì sự sinh tồn của con người.
Thứ hai, cuộc sống của con người. Mục đích của cuộc sống không chỉ là làm tốt cho mình mà còn làm

cho cả nhân loại sống tốt hơn. Cuộc sống ở đây là cuộc sống nội tâm và cuộc sống ngoại tâm, cũng có thể
gọi là đời sống tinh thần và đời sống vật chất.
Thứ ba, phương hướng của con người, hướng về một mục tiêu nhất định.
1.2.3. Về cái sống và cái chết

6


Khổng Tử là người đã đặt cái sống trong quan hệ với cái chết. Đạo Khổng hướng về sự sống chứ không
phải hướng về cái chết. Tuy nhiên, khi phải đến với cái chết thì đạo Khổng luôn khuyên người ta tìm cái bất
tử, tìm cái vĩnh hằng trong cái chết.
Mạnh Tử cũng trình bày quan niệm của ông về sống - chết một cách hết sức rõ ràng: “Sống là điều mà
ta muốn, việc nghĩa cũng là điều mà ta muốn. Nếu không thể làm được cả hai điều đó thì ta bỏ sống để theo
nghĩa. Sống cũng là điều mà ta muốn, nhưng cái mà ta muốn lại còn hơn cả sống, cho nên ta không tham
sống một cách cẩu thả. Chết là cái mà ta ghét, nhưng cái mà ta ghét còn hơn cả cái chết, cho nên gặp hoạn
nạn ta không hề trốn tránh”.
1.2.4. Về bản tính con người
Khổng (551 - 479 tr.CN)- Mạnh (317 - 298 tr.CN) cho rằng, bản tính của con người do trời sinh ra, nó
vốn là thiện. Cái thiện được biểu hiện ở nhân - nghĩa - lễ - trí.
Còn Tuân Tử (298 – 238 tr.CN) cho rằng, bản tính con người là ác. Ông đã luận giải ác là vì con người
ta ai cũng có lòng ham lợi, ai cũng có dụng vọng. Đó là nguồn gốc của mọi tội ác. Bản tính của con người
cũng có thể thay đổi và cải tạo được. Đó là nhờ vào sự giáo hóa.
1.2.5. Về đạo đức
Các phạm trù nhân - nghĩa - trí - dũng - trung - hiếu luôn luôn xuyên suốt trong triết lý về đạo đức Nho
giáo. Trong đó, nhân là làm ơn cho người khác, là yêu người, yêu mọi người, nghĩa là quyết đoán hợp lẽ
phải, là nên làm, thích hợp là làm. Trí là tri nhân, dũng là hành nhân, làm điều có nhân, có hậu. Trung là
trung với vua, là sự bền vững của xã tắc. Hiếu là kính thờ, phụng dưỡng cha mẹ, anh em có quan hệ tốt với
nhau, hiếu cũng là nguồn gốc của nhân luân. Nho giáo quan niệm, chỉ có hiếu thì mới hữu ái; Từ hiếu thảo
với cha mẹ thì mới có thể chuyển lòng hiếu thảo ấy thành lòng trung đối với vua, hòa thuận với anh em thì có
thể chuyển hết hòa thuận ấy thành lòng kính thuận đối với bậc tôn trưởng.

1.2.6. Về hình mẫu con người
Quân tử là mẫu người lý tưởng về phẩm chất đạo đức xã hội và tư cách của người cầm quyền, ở họ hội
tụ đủ nhân - nghĩa - lễ - trí - tín; Là người nắm được thời mệnh, sống theo mệnh trời, nỗ lực chăm lo tu
dưỡng đạo đức, khiêm tốn, cẩn trọng. Họ có trách nhiệm kính trên nhường dưới, sống thân ái, hòa đồng với
mọi người.
1.2.7. Về sự tự học, trau dồi kiến thức cho bản thân
Nho giáo đề cao việc học tập, trau dồi kiến thức đối với bản thân. Theo Khổng Tử, con người sinh ra
vốn giống nhau, nhưng do việc học tập và tự rèn luyện khác nhau mà dẫn đến sự phân biệt người này với
người kia. Tuy nhiên, việc học ở đây là cải tạo “cái đạo” của con người cho hòa thuận với tự nhiên.
Học để làm quan, tham gia gánh vác công việc đại sự của quốc gia, để được thực hành những cái mà
mình đã được học. Đặc biệt đối với người quân tử trước tiên là phải biết tu trí, tu thân. Không tự tu được
thân, không thể giúp được đời, không thể làm tròn bổn phận của mình với thiên hạ.
Như vậy, theo nghĩa nào đó học ở đây là đến gần với trí, nếu không học và tự học thì dù có thiện tâm
đến đâu cũng bị cái ngu muội, phóng đãng, lầm lạc, cuồng bạo làm biến bản chất của con người, con người
sẽ tự đánh mất mình và trở thành nô lệ của chính mình.
1.2.8. Về giáo dục, phương pháp giáo dục
Giáo dục ở đây theo Nho giáo là giáo dục tâm tính, giáo dục thực hành và giáo dục nhân cách. Trong
đó, giáo dục tâm tính và giáo dục nhân cách có quan hệ gần gũi nhau, chúng đều thuộc về lĩnh vực giáo dục
đạo đức phẩm cách cho dân chúng. Giáo dục điều thiện cho dân để dân không làm điều ác, không phạm tội.
Giáo dục theo phương pháp:

7


+ Người học phải ham hiểu biết, phải độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình nhận thức. Người dạy
phải dạy phương pháp để người học tự mình tìm đến tri thức, học phải đi đôi với hành.
+ Học trong sách vở, học thầy, học trong cuộc sống.
+ Học theo phương pháp tiên vương.
Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO

ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
2.1. Con đường du nhập và sự tiếp biến những giá trị nhân sinh Nho giáo
2.1.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo vào Việt Nam bằng những con đường khác nhau: Thông qua con đường của những đoàn quân
xâm lược được trang bị hệ tư tưởng Nho giáo cổ đại; Thông qua con đường truyền giáo có tổ chức của đội
ngũ những quan chức người Trung Quốc được các triều đình phong kiến Trung Quốc phái sang thực hiện
ách thống trị ở Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc; Thông qua con đường giao thương theo đường biển; Thông qua
con đường của những cư dân tự do người Trung Quốc bất mãn với triều đình phong kiến Trung Quốc, có
hành động chống lại triều đình, nên đã di cư vào Việt Nam sinh sống. Trong số các con đường trên thì truyền
giáo có tổ chức của đội ngũ quan lại người Trung Quốc trong thời kỳ Bắc thuộc là con đường cơ bản và chủ
yếu.
2.1.2. Sự tiếp biến những giá trị nhân sinh Nho giáo
Nho giáo – những tư tưởng nhân sinh của nó chính thức được đón nhận từ triều đại nhà Lý. Những tư
tưởng nhân sinh Nho giáo được người Việt tiếp biến một cách sáng tạo, nó được thể hiện trên các giá trị:
- Về đạo đức cá nhân, gia đình và các mối quan hệ làng xã, cộng đồng.
- Những vấn đề dựng nước và giữ nước.
- Vấn đề xây dựng nhà nước để tổ chức và điều khiển công cuộc xây dựng nhà nước và giữ nước.
- Về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín…
2.2. Một số ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Nho giáo đối với lối sống của người Việt Nam
2.2.1. Trong quan niệm về cuộc sống, tổ tông và con cháu
Xã hội Việt Nam từ xa xưa đã được kết cấu theo mô thức gia đình, họ hàng, làng nước. Khi Nho giáo du
nhập vào Việt Nam, người Việt đã có truyền thống cúng giỗ tổ tiên. Đó là biểu hiện huyết thống, huyết thống
càng đậm đà bao nhiêu thì vương triều càng bền vững bấy nhiêu. Từ đó, huyết thống cũng là tiêu chuẩn để
xác định mức độ đậm nhạt, xa gần của đạo đức nhân ái.
Vấn đề trường tồn của dòng họ, của tổ tông nhỏ quan trọng thì vấn đề trường tồn của dòng họ lớn, của
đại tổ tông càng quan trọng biết nhường nào. Hầu như, đó là điểm đồng quy của tất cả những tư tưởng, mong
ước trong lịch sử Việt Nam. Từ Lý Công Uẩn, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Ngô Thì
Nhậm, Phan Bội Châu… Những nhà Nho đó dẫu thuận hay nghịch cảnh, đều đã trở thành bất tử. Triết lý
nhân sinh của Nho giáo mang màu sắc Việt Nam đã hun đúc cho họ thêm sức mạnh để “cùng trời đất cửu
trường” và “tính kế muôn đời cho con cháu” mai sau có được cuộc sống bình yên. Cho nên, người Việt

không hề do dự hy sinh cho sự nghiệp đấu tranh sinh tồn với tự nhiên cũng như chống giặc ngoại xâm giành
độc lập xây dựng cơ đồ cho muôn đời sau.
2.2.2. Trong quan hệ coi trọng sự ổn định cộng đồng, xã hội.
Đối với Việt Nam thì từ thời dựng nước cha ông ta luôn mong ước sự ổn định để phát triển. Chỉ trên cơ
sở ổn định, người Việt mới có điều kiện cố kết với nhau để tạo nên sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng
trong cuộc đấu tranh chống thiên tai, lũ lụt và chống giặc ngoại xâm. Hơn nữa, những tư tưởng nhân sinh
Nho giáo không những được dùng làm vũ khí tinh thần để duy trì sự ổn định nơi triều đình mà còn vừa ổn

8


định nơi dân cư tạo nên sự gắn bó trung thành của tổ chức bộ máy cai trị với triều đình và sự gắn bó của từng
cá nhân với cộng đồng xã hội. Về lối sống thì coi trọng và trọng vọng những quan lại có lối sống, việc làm
có đạo đức, biết đề cao chuẩn mực đạo đức cao hơn chuẩn mực tài năng. Về quan hệ láng giềng thì các triều
đại phong kiến luôn thực hiện chính sách thân thiện, không xâm hại đến nhau.
2.2.3. Trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội.
Người Việt sống hài hòa cho nên trong quan hệ gia đình và xã hội luôn man tính mềm dẻo linh hoạt thể
hiện truyền thống coi trọng tình người, coi trọng quan hệ bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình và
ngoài xã hội. Thực tế, người Việt chỉ sử dụng chữ trung trong những tình cảnh mà tôn vinh cho những ông
vua anh minh hết lòng vì dân, vì nước chứ không dung thứ cho những vị vua thiếu tinh thần yêu nước, yêu
dân tộc và không có khả năng trị vì đất nước. Hiện nay, mối quan hệ cha – con, người Việt cũng không đề
cao vị trí, vai trò của người cha đến thái quá làm cho người cha biến thành gia trưởng mà luôn luôn đặt vị trí,
vai trò công lao của người cha và người mẹ ngang bằng nhau giúp đỡ lẫn nhau.
2.2.4. Trong tư tưởng lấy dân làm gốc
Triết lý coi trọng dân được tiếp biến trong điều kiện, hoàn cảnh của xã hội Việt Nam, luôn được gắn với
truyền thống yêu nước, thương nòi, coi trọng tính cộng đồng và luôn được các triều đại phong kiến hưng
thịnh hết sức quan tâm. Sự quan tâm đó được thể hiện ở mối quan hệ gắn bó giữa triều đình với nhân dân
như cá với nước và sức mạnh của nhân dân luôn luôn được thể hiện thông qua những cuộc chiến tranh giữ
nước, đồng thời sau mỗi thắng lợi đã giành được, các triều đại phong kiến Việt Nam đều có chính sách
khoan thư sức dân; miễn thuế cho dân ở những nơi gặp khó khăn trong nhiều năm và tạo điều kiện cho dân

phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần thông qua khai khẩn đất hoang, mở trường, mở lớp
để nâng cao dân trí cho dân.
2.2.5. Trong quan niệm về nhân ái.
Khi du nhập vào Việt Nam triết lý về lòng nhân ái đã thấm sâu trong các quan hệ từ quan hệ trong gia
đình đến xóm làng, cộng đồng xã hội. Trong nhân ái của người Việt thì chữ tình và chữ nghĩa được đề cao..
Nhân ái không những chỉ biểu hiện trong đời sống vợ chồng, biểu hiện trong quan hệ gia đình mà còn biểu
hiện trong quan hệ làng xóm, láng riêng với nhau. Hơn nữa, lòng nhân ái không chỉ bó hẹp trong cộng đồng
người Việt mà cả với kẻ thù đi xâm lược.
2.2.6. Trong quan niệm về giáo dục, nuôi dưỡng con người.
Giáo dục để cho con người sống có nhân, sống một cách khiêm tốn, biết nhường nhịn, không tham lam,
không đòi hỏi, không cạnh tranh, chăm làm điều lành và khoan thứ. Giáo dục và nuôi dưỡng con người để
cho con người biết đạo làm người, thái độ ứng xử của con người với gia đình, bạn bè và xã hội. Người Việt
thừa nhận việc cần thiết giáo dục văn và hạnh, lấy việc nêu gương từ nhân cách của người dạy làm cốt lõi. Giáo
dục là đào tạo con người toàn diện về văn, hạnh, mặt khác giáo dục là để xã hội có phong tục tốt đẹp, trật tự
trên dưới ổn định.
2.2.7. Những hạn chế và tiêu cực của tư tưởng nhân sinh Nho giáo
- Những tư tưởng nhân sinh Nho giáo lại quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú
trọng đến việc tự cung, tự cấp mà quên đi sự trao đổi mua bán, kìm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến
quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị.
- Những tư tưởng nhân sinh Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến cái
mới ưu việt hơn bị tiêu diệt. Những tư tưởng nhân sinh đưa con người hướng đến cái nội tâm, mà không
hướng con người ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên và cải tạo thiên nhiên.

9


- Vấn đề trọng nam khinh nữ, hướng về với quá khứ và cho rằng đời này không bằng đời xưa cả về kinh
nghiệm lẫn tri thức.
Chương 3
GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP

CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO ĐỐI VỚI LỐI SỐNG
CỦA NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Hướng tiếp cận kế thừa, phát huy những giá trị triết lý nhân sinh Nho giáo
Thứ nhất, kế thừa có chọn lọc để phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Xét về bản chất, kế thừa có
chọn lọc những giá trị nhân sinh Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới đất nước chính là quá trình giải quyết mối
quan hệ biện chứng giữa cái truyền thống và cái hiện đại. Cái truyền thống nói chung, trong đó có những giá
trị nhân sinh Nho giáo, nó đóng vai trò là hình thức trung gian quan trọng của cái được kế thừa trong đời
sống xã hội, là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới. Trong quá khứ
cũng như hiện tại, những giá trị nhân sinh không chỉ là cái phát sinh, phản ánh những điều kiện kinh tế xã hội
mà nó còn là động lực nội sinh của sự phát triển. Kế thừa có chọn lọc trước hết là để xây dựng lối sống của
con người Việt Nam trong xã hội hiện đại, sau đó là để phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó,
chúng ta cần phải có quan điểm biện chứng trong việc khai thác các giá trị nhân sinh Nho giáo.
Thứ hai, kế thừa gắn liền với đổi mới phát triển, phát triển phải dựa trên những chuẩn mực mới. Theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kế thừa trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy, bao giờ
cũng gắn với những biến đổi về chất, vì nó là mắt khâu trong quá trình phát triển, thể hiện mối liên hệ tất yếu
giữa cái cũ và cái mới. Xã hội chủ nghĩa khác cơ bản về chất so với xã hội phong kiến. Những giá trị nhân
sinh mà có tác dụng thúc đẩy và ảnh hưởng lớn đến định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó cần phải được xây
dựng trên cơ sở chuẩn mực mới - Tức là xuất phát từ những giá trị có ý nghĩa đối với cá nhân, dân tộc và cả
loài người.
Thứ ba, kế thừa phát triển, tiếp thu tinh hoa giá trị nhân sinh, là sự biểu hiện sâu sắc của văn hóa, sự
phát triển của tư tưởng nhân sinh Việt Nam không nằm ngoài quy luật phát triển của văn hóa. Chúng ta đang
sống trong thời đại của quá trình toàn cầu hóa, có sự tiếp biến về những giá trị văn hóa nói chung và những
giá trị nhân sinh nói riêng là tất yếu. Bao giờ cũng vậy, sự tiếp biến đó là một quá trình có lọc bỏ và tiếp thu.
Đây là vấn đề có tính quy luật. Để kế thừa và tiếp thu những giá trị nhân sinh Nho giáo một cách hợp lý,
chúng ta phải chủ động xây dựng những chuẩn mực giá trị nhân sinh mới, có tính định hướng đúng trong các
chính sách kinh tế xã hội, tạo ra môi trường văn hóa, lối sống lành mạnh. Đó chính là động lực góp phần xây
dựng lối sống của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy những giá trị triết lý nhân sinh Nho giáo
3.2.1. Đề cao tinh thần tự học, coi trọng hiền tài, coi trọng việc dạy và học theo tinh thần "học
không biết chán, dạy không biết mỏi".

3.2.2. Đề cao sự tu dưỡng, rèn luyện và trau dồi đạo đức cá nhân.
3.2.3. Phát huy tư tưởng đề cao đạo đức, giáo dục từ gia đình.
3.2.4. Phát huy truyền thống yêu nước, thương nòi.
3.2.5. Cần phải nâng cao kỷ cương phép nước, trú trọng quy ước cộng đồng.
3.2.6. Xây dựng mẫu người lý tưởng làm mục tiêu phấn đấu cho mọi người.
3.2.7. Xây dựng gia đình văn hóa trên cơ sở đảm bảo cho các thành viên trong gia đình bình đẳng
với nhau.
3.2.8. Nâng cao vai trò của pháp luật với việc giáo dục đạo đức trong đời sống xã hội.
KẾT LUẬN

10


Khi tìm hiểu toàn bộ hệ thống triết lý nhân sinh Nho giáo trong một số học thuyết triết học tiểu biểu
Trung Hoa cổ đại, ta có thể thấy, vấn đề được các hiền triết quan tâm nhất, tập trung nhất là vấn đề thuộc về
con người. Tuy, nó có sự khác nhau về tính chất, nhưng tư tưởng chủ đạo xuyên suốt từ đầu đến cuối thể
hiện rõ ràng con người luôn luôn là trung tâm của xã hội và vũ trụ.
Với tinh thần khách quan khoa học, chúng ta cần phải suy nghĩ sâu sắc hơn để khai thác những giá trị
nhân sinh Nho giáo trong cuộc sống hội nhập quốc tế. Vậy, chúng ta khai thác như thế nào?. Ở đây, chúng ta
phải xử lý tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Truyền thống là
cơ sở của hiện đại và hiện đại không xoá sạch truyền thống; đồng thời cái truyền thống chỉ tồn tại khi nó
được chọn lọc, kế thừa, phát huy thông qua cái hiện tại.
Trong quá trình hội nhập, chúng ta đang phải đối mặt với một thực tế đó là những giá trị nhân sinh tốt
đẹo của dân tộc đang có nguy cơ mai một dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hoá. Chính vì vậy, tham gia
vào quá trình toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta cần phải chọn lọc, kế thừa và phát huy những giá trị nhân sinh
truyền thống của dân tộc nói chung của Nho giáo nói riêng làm vốn trong thời kỳ hội nhập. Đây là yêu cầu
bức thiết cần phải được các ngành, các cấp, các địa phương, đặc biệt là cách thức giáo dục của mỗi gia đình
và ý thức của mỗi cá nhân con người tự giác để góp phần xây dựng lối sống mới của con người Việt Nam.

11




×