Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Chất dân tộc miền núi trong tập truyện ngắn “hoa bay cuối trời” của cao duy sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.67 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA VĂN – XÃ HỘI
----------

Bài thảo luận

Môn: Văn học dân tộc thiểu số
Đề tài:

Chất dân tộc miền núi trong tập truyện ngắn
“Hoa bay cuối trời” của Cao Duy Sơn
Giảng viên:

Nguyễn Kiến Thọ

Nhóm sinh viên thực hiện:

Tủm tỉm

Lớp:

Cử nhân Văn K6

Thái Nguyên, tháng 04 năm 2012
1


MỞ ĐẦU
Với Cao Duy Sơn, đề tài dân tộc, miền núi chỉ là một trong rất nhiều đề tài
khác của đời sống xã hội. Tìm tòi và sáng tạo phản ánh con người của mọi mặt đời


sống xã hội trong văn học là trách nhiệm của nhà văn. Song có một thực tế là nếu
không “thuộc” nó thì đừng vội dấn thân. Đột phá trong sáng tạo là vấn đề luôn thôi
thúc người cầm bút, làm thế nào để thoát ra khỏi vỏ bọc cũ, tạo nên cách viết mới
là một câu chuyện dài. Đối với văn học hướng về mảng đề tài dân tộc, miền núi,
người viết cần phải “thuộc” đời sống tâm hồn và văn hoá đặc trưng vùng miền.
Người dân tộc, miền núi nay đã khác xưa rất nhiều. Họ có đầy đủ những yếu tố cần
thiết sống trong xã hội hiện đại như tất cả mọi vùng quê khác trên đất nước. Để
phản ánh một cách sinh động và chân thực trước tiên phải tiếp cận, nắm bắt và
chuyển hoá nó bằng ngôn ngữ hiện đại, tạo nên những mẫu hình nhân vật vừa hiện
đại vừa mang đậm cốt cách tâm hồn của người dân tộc miền núi. Đây có lẽ là vấn
đề còn thiếu trong văn học đề tài dân tộc miền núi. Cách nào để đột phá, tạo nên
hình thức thể hiện mới, phản ánh sinh động đời sống, con người miền núi hiện nay
sao cho hay và hấp dẫn là tuỳ vào tài năng của người viết” .
Chính vì có ý thức sâu sắc như thế nên ngòi bút của Cao Duy Sơn đã phác thảo
nên những bức tranh sinh động về cuộc sống ở vùng cao miền núi phía Bắc. Ở đó,
có những vỉa tầng văn hoá truyền thống dân tộc dày đặc được hun đúc qua hàng
trăm thế hệ. Trong đội ngũ nhà văn là người dân tộc thiểu số Việt Nam. Cao Duy
Sơn là cây bút trẻ có bút lực sung mẫn ở mảng đề tài viết về người dân tộc miền
núi.
Để có thể khám phá vào tận bề sâu những vỉa tầng văn hóa của dân tộc mình, Cao
Duy Sơn tâm niệm: "Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài miền núi".

2


NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Các khái niệm.


1.1.1. Khái niệm dân tộc
Dân tộc là cộng đồng những người cùng chung một lịch sử, nói chung một
ngôn ngữ, sống chung trên một vùng lãnh thổ và có chung một nền văn hoá.
1.1.2. Khái niệm dân tộc thiểu số.
Dân tộc thiểu số là dân tộc có số dân ít (có thể từ hàng trăm, hàng nghìn cho
đến hàng triệu) cư trú trong một quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc, trong đó có
một dân tộc có số dân đông nhất.
1.1.3.Khái niệm văn học dân tộc thiểu số.
Là khái niệm dùng để chỉ bộ phận văn học viết về đề tài dân tộc thiểu số của
các nhà văn, nhà thơ bao gồm cả các tác giả là người đa số và các tác giả là người
dân tộc thiểu số.
=> Chất dân tộc miền núi là những đặc trưng cơ bản, những yếu tố bên trong
tạo nên nét văn hóa riêng của dân tộc miền núi so với các dân tộc khác.
1.2. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Cao Duy Sơn.
1.2.1. Vài nét về tiểu sử.
Nhà văn Cao Duy Sơn là người con của miền núi dân tộc Tày, tên thật là
Nguyễn Cao Sơn, sinh năm 1956 sinh ra và lớn lên ở thị trấn Cô Sầu tại Trùng
Khánh, Cao Bằng.
Học xong phổ thông, nhà văn lên đường vào chiến trường, khi giải ngũ trở
về, vì có chút chữ nghĩa, xin vào làm ở Sở Văn hóa của tỉnh. Một lần đi dự trại
sáng tác, nhà văn đã viết truyện ngắn đầu tiên và đã được in ở tạp chí Văn nghệ
Quân đội (năm 1984). Truyện có tên là "Dưới chân núi Nục-Vèn".

3


Sau đó, thi vào Trường Viết văn Nguyễn Du và tốt nghiệp với cuốn tiểu
thuyết "Người lang thang". Cuốn này ngay sau đó đã đoạt giải A của Hội đồng
Văn học Dân tộc và Miền núi - Hội Nhà văn Việt Nam và giải Nhì của Hội Hữu

nghị Việt - Nhật. Học xong, Cao Duy Sơn trở lại quê nhà và thất nghiệp. Nhà văn
đã đi xin nhiều nơi nhưng không nơi đâu nhận.
Cuộc sống của nhà văn không thay đổi nếu không có sự gặp gỡ với người
bạn đồng môn là nhà văn Tạ Duy Anh, khi về Hà Nội, nhà văn Tạ Duy Anh viết
một bài về Cao Duy Sơn in trên báo Tiền Phong. Lãnh đạo tỉnh đọc được và sau
đó có lệnh điều nhà văn trở lại cơ quan cũ làm việc.
Hiện nhà văn Cao Duy Sơn là hội viên nhà văn Việt Nam, hội viên hội Văn
học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, tổng biên tập tạp chí văn hóa các
dân tộc. Cao Duy Sơn là một trong ít nhà văn người dân tộc thiểu số đã thành công
khi tạo được dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả.
1.2.2. Quá trình sáng tác của nhà văn.
Nhà văn Cao Duy Sơn từng được biết đến với các tác phẩm Người lang
thang (xuất bản 1992, đoạt giải A văn học thiểu số Hội Nhà văn Việt Nam năm
1993), Người săn gấu (1995), Cực lạc (1995), Những chuyện ở lũng Cô Sầu
(1996), Đàn trời, Hoa mận đỏ (tác phẩm đã được chuyển thể thành phim Khoả
nước sông Quy)…Nhà văn Cao Duy Sơn từng được 2 giải A Văn học thiểu số Việt
Nam, nhưng chỉ đến khi Ngôi nhà xưa bên suối (2008) mang giá trị vượt ra ngoài
các giải thưởng văn học trong nước với đề cử Giải thưởng Văn học ASEAN của
Hoàng Gia Thái Lan năm 2009, nhà văn Cao Duy Sơn mới được đóng dấu rõ rệt
“thương hiệu” là nhà văn chuyên về đề tài miền núi và văn chương của ông được
ví như “đặc sản”. Trên đà những thành tựu đã có, nhà văn Cao Duy Sơn vẫn tiếp
tục miệt mài sáng tạo. Tác phẩm mới nhất của Cao Duy Sơn mang tên Chòm ba
nhà, cùng thời gian với Ngôi nhà xưa bên suối. Với bản tính cẩn thận, đến bây giờ
cuốn tiểu thuyết mới cơ bản được hoàn thành và ra mắt bạn đọc.
4


Chương 2. CHẤT DÂN TỘC MIỀN NÚI TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN
“HOA BAY CUỐI TRỜI” CỦA CAO DUY SƠN
2.1. Nội dung phản ánh

2.1.1. Thiên nhiên
Thiên nhiên trong truyện ngắn Cao Duy Sơn là một trong những yếu tố
mang đậm màu sắc dân tộc miền núi. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều sống trong
những không gian thiên nhiên khác nhau mang những nét đặc trưng riêng của
mình. Nếu như chúng ta, những con người của đồng bằng sống trên những vùng
đất bằng phẳng, phì nhiêu, màu mỡ với những cánh đồng xanh ngút mắt, những
dòng sông đỏ nặng phù sa...thì trong sáng tác của Cao Duy Sơn ta thấy một không
gian thiên nhiên hoàn toàn đối lập, không gian của núi rừng mùa xuân bao trùm
hầu hết các tác phẩm. Thiên nhiên nơi đây là sự hòa quyện của suối, của núi rừng
lộng gió, sắc trắng tinh khiết của hoa đào, hoa mai. Đó là con suối Cun "hiền hòa
chảy" vào độ cuối hạ sang quá xuân trong truyện ngắn "Ngôi nhà xưa bên suối",
là con suối xuân "trong vắt và giá buốt" nơi Dình rửa vết thương cho Khơ, nơi gắn
bó biết bao những kỉ niệm yêu đương của hai người trong tác phẩm "Hoa bay cuối
trời". Ngoài ra còn thấy nhiều hình ảnh núi rừng với nét rất riêng của vùng núi "ở
vùng núi xuân đến dường như đậm đà và rét hơn mọi nơi". Mỗi độ xuân về mưa
bụi lất phất rắc trên những ngọn núi còn đẫm sương đêm tạo nên một khung cảnh
thiên nhiên vô cùng thơ mộng, huyền ảo "Mưa như bụi rắc xuống từ đỉnh núi len
khắp khe ngách, lối mòn, ken sương sướt quanh những gốc lê già trổ bông như
tuyết”. Không gian thiên nhiên ấy là không gian mùa xuân, của tình yêu, của “chợ
tình”. Trong Hoa bay cuối trời, hình ảnh ngọn núi Phjia Đán in đậm trong tâm trí
người đọc, khi thì tràn ngập sắc hoa trong không gian yêu đương lãng mạn, dấu
hiệu cho một mối tình cháy bỏng : “Không gian bỗng trở nên yên ắng, chỉ những
bông mận nở muộn như tuyết trắng bên những cành đào rực đỏ dưới chân núi khẽ

5


đưa trong gió xuân”, khi là không gian thấm đượm nỗi buồn “Lão Khơ đánh xe đi
về phía núi Phjia Đán, nơi có con suối và những cây đào cổ thụ đang trút lá
vàng”. Hình ảnh thiên nhiên lãng mạn cuối tác phẩm góp phần tô đậm cho tình yêu

của hai người. Thiên nhiên rừng núi là không gian sống của con người nơi đây, và
chính không gian ấy là một trong yếu tố quan trọng tạo nên tính cách, tâm hồn con
người họ, chất phác, nhiệt tình, phóng khoáng và đầy bản lĩnh trong cuộc sống, yêu
lãng mạn, thủy chung.
Bất kì ai, lần đầu tiên được đặt chân lên miền núi chắc hẳn sẽ không khỏi lạ
lẫm, choáng ngợp trước vẻ đẹp hoang sơ và đầy thơ mộng của thiên nhiên nơi đây.
Và nếu như ai đó chưa từng một lần đặt chân tới đây thì qua truyện ngắn của Cao
Duy Sơn tâm hồn sẽ được phiêu du qua những ngọn núi bồng bềnh sương khói,
hòa lẫn trong sắc xanh của rừng xanh bạt ngàn, sắc trắng của hoa đào và sắc đỏ của
hoa mận. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp góp phần tạo
nên vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước con người Việt Nam.
2.1.2. Con người
2.1.2.1. Ngoại hình của con người miền núi trong tập truyện ngắn “Hoa bay
cuối trời”
Các nhân vật trong tập truyện được Cao Duy Sơn miêu tả dưới góc độ đời
tư, có số phận riêng và một sự tự ý thức. Nhân vật của ông thường khoẻ khoắn,
mạnh mẽ, có cuộc sống nội tâm phong phú, phức tạp dữ dội, nhưng lại lặng lẽ kín
đáo. Hầu hết các nhân vật trung tâm trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn đều là
những con người nhỏ bé, bình dị như bao con người đang sống quanh chúng ta.
Việc chọn những con người nhỏ bé và bất hạnh làm nhân vật trung tâm, khám phá,
khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ ẩn kín đằng sau những manh áo rách,
những ngoại hình dị dạng, những nghề nghiệp khốn cùng .… Nhà văn không chỉ
biểu hiện sự am hiểu sâu sắc về một bộ phận người bao giờ cũng đông đảo nhất

6


trong xã hội mà còn bộc lộ một trái tim yêu thương, cảm thông, xót xa đến tận
cùng với bao đau khổ của kiếp người.
Trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, tác giả đã khắc họa hình ảnh những chàng

trai của núi rừng với nét đẹp thô sơ, khỏe khoắn, rắn rỏi và đầy bản lĩnh. Môi
trường thiên nhiên của núi rừng đã rèn luyện cho họ khỏe như con trâu tơ đực
chưa vực cày. Đó là hình ảnh nhân vật Khơ trong Hoa bay cuối trời. Chúng ta còn
ấn tượng với đôi cánh tay của Phủ, “Cánh tay rất to, rõ những múi cơ gồng lên
cuồn cuộn, gạt những bắp bắp chân giày xéo trên mặt đất đổ rạp như gạt những
bẳng nước rỗng”, “không thấy mặt người, vẫn bắp tay cuồn cuộn đó vươn tới
chặn Khơ lại. Khơ cảm giác bàn tay mình bị kẹp chặt trong cục gỗ ép mía. Những
ngón tay cộm chai cuốn một vòng làm cánh tay Khơ muốn gẫy”, và sự nhanh nhẹn
như con hổ vồ mồi của Sìu trong Song sinh.Chính cách miêu tả này đã làm cho
ngoại hình của các nhân vật trở nên sống động, rõ nét và đầy ấn tượng.
Bên cạnh đó là hình ảnh những người con gái miền núi rất xinh đẹp thường
được so sánh với những hình ảnh, sự vật, hiện tượng rất gần gũi, quen thuộc trong
cuộc sống của người dân miền núi, như khi miêu tả nhân vật Dình trong truyện
ngắn Hoa bay cuối trời: “Mặt nàng đẹp như bông đào trong nắng. Nụ cười bẽn
lẽn, mắt chớp như cánh vẫy của loài bướm hoa. Trong bộ quần áo Nùng xanh cổ
vịt, viền nách bằng vải láng coóng màu đen, toàn thân nàng khẽ run trong hoàng
hôn se lạnh…Nàng tên Dình, tuổi mười bảy. Mà sao có người trời cho làn da
trắng quá thế! Mịn như mỡ đông, tươi mát như sương loang mặt hồ”. Họ đẹp đến
nỗi khiến các chàng trai phải “đơ mặt, mắt như dính vào dáng uyển chuyển”.
2.1.2.2 Tính cách, tâm hồn nhân vật
Qua tập truyện ngắn Hoa bay cuối trời của Cao Duy Sơn, ta thấy hầu hết
hình tượng con người miền núi đều có những phẩm chất tốt đẹp, nên có thể xếp
những con người ấy vào thế giới nhân vật chính diện. Trong thế giới nhân vật
chính diện ấy có nhân vật nổi bật lên bởi vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách trong trẻo đến
7


gần như tuyệt đối được thể hiện qua các mối quan hệ, đặc biệt là trong tình yêu. Họ
yêu thẳng thắn nhưng không kém phần lãng mạn, sâu sắc, mãnh liệt và thủy chung.
Nhân vật Dình trong truyện Hoa bay cuối trời là một cô gái có tấm lòng cao cả,

khi biết đôi chân bị tật nguyền suốt đời cô đã hy sinh tình yêu của mình bởi cô
không muốn người yêu nhìn thấy mình, phải khổ vì mình. Ếm và Sinh trong truyện
ngắn Chợ tình là một đôi tình nhân yêu nhau như không đến được với nhau, nhưng
không vì thế mà họ hết yêu mà ngày càng hướng về nhau, ngay cả khi đã có mái
ấm riêng của mình. Cứ đến phiên chợ tình hàng năm họ lại hẹn nhau, họ ngồi thầm
thì tâm sự với nhau chuyện ngày xưa và cả ngày nay. Và khi một người đã mất đi,
âm dương cách biệt nhưng tình yêu của họ vẫn sắc son, chung thủy như ngày nào.
Tương tự, trong tập truyện này ta còn bắt gặp mối tình rất trong sáng nhưng cũng
không kém phần cảm động của Khơ và Dinh.
Bên cạnh những con người có phẩm chất tốt đẹp là hình tượng con người tha
hóa. Tuy xuất hiện không nhiều nhưng vẫn mang một ý nghĩa nghệ thuật đặc biệt.
Dù chỉ xuất hiện trong một truyện ngắn nhưng đã chứng tỏ cái nhìn về cuộc sống
và con người của nhà văn không đơn giản một chiều. Ở đây bên cạnh tính truyền
thống với sự phân chia nhân vật thành chính diện và phản diện thật rành mạch,
chúng ta bắt gặp sắc màu hiện đại trong cái nhìn nghệ thuật của nhà văn. Bởi thiện
và ác nằm ngay trong mỗi con người.
Chỉ với một hình tượng con người tha hoá và sám hối trong truyện ngắn
Hòn đá bi màu trắng nhưng Cao Duy Sơn đã khắc họa nên một kiểu nhân vật vừa
đáng thương vừa đáng sợ. Dồ ban đầu là một con người chất phác, hiền lành, cũng
có những ước mơ, nhất là anh muốn đem tài năng kéo đàn Nhị của mình để phục
vụ cho đời sống tinh thần của bà con nhân dân. Anh đã có một thời kì đỉnh cao khi
mà cuộc sống dường như quá tốt đẹp, tiếng đàn của anh đã trở thành một món ăn
không thể thiếu với bà con nơi đây và cũng nhờ tiếng đàn mà anh đã có một mái
ấm thật hạnh phúc, vợ xinh đẹp, con ngoan ngoãn. Cứ tưởng cuộc đời anh sẽ chỉ đi
8


trên một con đường thẳng vậy nhưng một trận bão lớn đã ập đến khiến anh không
thể đứng dậy, tài năng của anh không được người ta chú ý như trước, vợ thì ngoại
tình và kể từ đây cuộc đời anh đã đổ theo một hướng khác. Anh luôn có những suy

nghĩ tiêu cực, hành động nóng nảy, thiếu suy nghĩ và trong một lần không tự chủ
được bản thân anh đã mắc tội đánh người, đốt nhà, gây hậu quả nghiệm trọng.
Cuối cùng, sau khi trở về từ nhà tù thăm lại ngôi nhà xưa anh đã nhận ra những lỗi
lầm của mình, những giọt nước mắt ăn năn khi đọc được lá thư của người con trai,
anh thật sự hối hận. Qua câu chuyện này, nhà văn muốn đưa ra một triết lí: cuộc
sống vốn đầy bất trắc và thử thách, con người trong hành trình số phận của mình
đều có thể mắc lỗi lầm. Điều quan trọng hơn là phải biết đứng dậy từ lỗi lầm ấy.
2.1.3. Phong tục tập quán
Đọc truyện ngắn Cao Duy Sơn ta thấy ở đó cả một nền văn hóa đậm chất
dân tộc miền núi với những phong tục tập quán đẹp đẽ. Đó là tục tranh đầu pháo
trong Lễ hội pháo hoa trong truyện ngắn Hoa bay cuối trời, hay Chợ tình của
người miền núi, tục khai vài xuân (Súc Hỷ), tục làm dâu của người Tày trong
(Song sinh).
Lễ hội pháo hoa của người Tày chính là bối cảnh văn hóa rộng cho tình yêu
cảm động của Khơ và Dinh cất cánh. Tại nơi đây, họ gặp nhau và yêu nhau. Tình
yêu ấy trong sáng đẹp đẽ như dòng nước trong xanh ăm ắp trôi và tiếng lượn Hèo
phương vang lên trong vắt. Cuộc tranh đầu pháo diễn ra trong không khí lễ hội
tưng bừng “tiếng lày cỏ vang từng nhịp mạnh mẽ, tiếng hà liều ngân nga vọng về
từ núi xa, con lợn quay vàng rộm”. “Rồng thiêng đã được hành lễ rưới tiết hồng
của gà trống vào mắt khai quang nhún nhảy trong tay các trai tráng”, giữa tiếng
trống thùng thùng giục giã, khi quả pháo đeo chiếc vòng đỏ bay lên là lúc các trai
làng bắt đầu cuộc tranh pháo. Khơ dẫn đầu tranh đầu pháo, mang vinh quang về
cho bản Háng Vài, đem về làm quà tặng cho người yêu “Chiếc vòng trong tay anh

9


như ngọn lửa khiến trái tim nàng rạo rực”, “Anh tặng em đấy. Không có em, anh
không thể cướp được chiếc vòng này”. Nhưng hạnh phúc của họ không được trọn
vẹn, chỉ biết yêu nhau và khắc sâu trong trái tìm hình bóng của nhau mà không đến

được với nhau. Dinh đã rời bỏ Khơ bởi không muốn bệnh tật, nặng nhọc cuộc đời
cô ràng buộc Khơ suốt đời. Hình ảnh Lão Khơ đánh xe đi về phía chân núi Phia
Đán, nơi có con suối và những cây đào cổ thụ đang trút lá vàng và khuôn mặt bà
Dinh “tươi như bông đào đang ngủ tiết cuối thu … một niềm vui trong ngày cưới,
không phù dâu, phù rễ, sóng bước hai bên chiếc xe ngựa do chính tay lão Khơ
đóng cách đây đã mấy mươi năm, chưa một lần lăn bánh, chưa một lần có ai ngồi
lên, đang đưa bà đi về cuối chân trời” đọng lại trong người đọc như một ám ảnh.
Chợ tình là một sinh hoạt văn hóa chỉ có ở miền núi. Đó là nơi hò hẹn, gặp
gỡ của những đôi lứa yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Ở đây không có
chuyện ghen tuông, cấm đoán “Hồi lãoTi còn, mỗi lần đi chợ thế này nó có vặn
hỏi gì không. Thì cũng như mọi người thôi, đi chợ này có ai lại đi hỏi làm gì !”.
Mỗi năm họ dành cho nhau một ngày đến đây để sống trong những giây phút yêu
đương thủa ban đầu. Chợ tình của Cao Duy Sơn là câu chuyện tình yêu cảm động
của lão Sinh, bà Ếm “dẫu đã lấy vợ, nỗi buồn có nguôi ngoai nhưng nỗi đau vẫn
hằn sâu trong ngực”. Hàng năm đến phiên chợ, gặp nhau như bao đôi lứa lỡ làng
khác, Sinh thấy Ếm vẫn là Ếm của ngày nào “vẫn là nàng mỗi khi cười trời như
sáng bừng lên hoa xuân lay lắc vui như nhường lại nhan sắc’’ . Những mất mát
khuyết thiếu của hiện tại sẽ được bù đắp bởi hình bóng của quá khứ, họ đến chợ
tình để sống với quá khứ, kéo dài quá khứ và lãng quên hiện tại, nên không có Ếm
thì không còn chợ: “chợ từ nay không có chúng mình nữa, không có em là không
còn chợ... hãy chậm chân cho nhau kịp bước với Ếm ơi...”. Chợ tình vắng bóng đôi
tình nhân già từ đó, hình ảnh lão Sinh mất hút vào núi Phia Bjooc để lại bao nhớ
thương cho muôn người ở chợ tình Âu Lâm.

10


Mùa xuân là mùa của các lễ hội. Đọc truyện ngắn Cao Duy Sơn ta có thể
thấy các lễ hội diễn ra chủ yếu vào mùa xuân. Ngoài lễ hội pháo hoa thì tục khai
vài xuân là một trong những nét đẹp trong văn hóa của người Tày. Tục khai vài

xuân của người Tày diễn ra trong ngày tết, vào thời điểm giao thừa sẽ có “một
người ăn mặc như ăn mày nhưng không phải ăn mày, hông buộc giỏ tre, đựng xấp
giấy đỏ, ngực đeo ống bút, lọ mực” đến chúc phúc cho mọi nhà, cầu mong một
năm mới khởi đầu may mắn, thuận hòa, no ấm. Hình hài như người ăn mày của
người khai vài xuân sẽ nhắc nhở con người khi no ấm hạnh phúc phải nhớ đến lúc
đói khổ, nghèo khó và biết hy vọng vào tương lai. Lồng trong tập tục đẹp đẽ đó là
câu chuyện tình yêu của Súc Hỷ, Dinh và Chương Chảo. Lão Súc Hỷ sống âm
thầm ôm mối tình không thành với bà Dinh, tình nguyện làm người khai vài xuân,
hàng năm đem đến cho mọi nhà những câu thơ mềm như suối hát.
Những phong tục này ban đầu ta thấy kì lạ nhưng sau đó ngẫm nghĩ ra mới
thấy được hết những giá trị nhân văn của nó, như phiên chợ tình đã có mấy cao
thượng được như những người đàn ông, đàn bà dân tộc Tày?.
Tuy nhiên bên cạnh những phong tục đẹp thì tục lệ đối với những nàng dâu
mới lấy chồng của người Tày xem ra còn lạ lẫm và kì quặc trong Song sinh . Theo
tục lệ của người Tày, cưới xong nàng dâu vẫn ở nhà mẹ đẻ. Khi có thai, sắp ở cữ
nhà chồng mới cho người sang đón về. Trong thời gian ấy nàng dâu vẫn phải sang
nhà chồng làm việc nhưng hết buổi phải tìm cách trốn về nhà mẹ đẻ. Nếu chồng có
chạy theo giữ lại thì phải cự đến cùng. Có như vậy mới được nhiều người khen,
nhà chồng càng yêu quý con dâu “Nhớ hồi chuẩn bị về nhà chồng mé thủ thỉ :
Phong tục người Tày mình là thế con à…Phải bỏ ra muời hai con sức làm việc cho
khỏi mang tiếng dài tai, bữa cơm không được ăn no, xong việc lớn nhỏ thì tìm cách
trốn về. Chồng chạy theo kéo tay phải cháp mã xuống mặt đường mà cự, làm thế
được nhiều lời khen, bên nhà chồng càng yêu quý con dâu…Khi nào có con mới

11


được về bên đó ở hẳn”. Hơn nữa, ở Cô Sầu người ta không gọi tên cúng cơm
người con gái đã đi lấy chồng. Khi có con thì lấy tên con thay vào. Mặc dù thấy
như vậy là kì lạ nhưng đó lại là cái lí của họ, suy nghĩ và quan niệm riêng của họ.

Nó đã ăn sâu từ đời này qua đời khác trở thành nét văn hóa truyền thống mà những
thế hệ sau phải tuân theo “Nàng nghe lời, nhưng sao lại phải thế thì ý nghĩ của
nàng không đủ dài để đến được ngọn nguồn cái lẽ truyền đời”.
2.2. Nghệ thuật phản ánh
2.2.1. Cách xây dựng nhân vật độc đáo
Cao Duy Sơn đã xây dựng thành công một thế giới nhân vật sống động, hết
sức gần gũi. Chỉ vài nét phác hoạ t á c g i ả nói lên được cái “thần” của nhân
vật. Trong truyện ngắn Hoa bay cuối trời, vẻ đẹp cường tráng và thượng võ của
các chàng trai miền núi chỉ được miêu tả bằng vài chi tiết sơ lược nhưng gây ấn
tượng mạnh mẽ, đó là nhân vật Khơ: “khoẻ như con trâu tơ đực chưa vực cày”.
Đó là Phủ, chỉ với chi tiết biểu hiện sự cường tráng: “có một cánh tay rất to rõ
những múi cơ gồng lên cuồn cuộn, gạt những bắp chân giày xéo trên mặt đất đổ
rạp như gạt những bẳng nước rỗng”. Cao Duy Sơn sử dụng bút pháp ước lệ,
tượng trưng trong miêu tả nhân vật: v ẻ đ ẹ p c ủ a D ì n h t r o n g Hoa bay cuối
trời “Mặt nàng đẹp như bông hồng đào trong nắng. Nụ cười bẽn lẽn, mắt
chớp như cánh vẫy của loài bướm hoa”. Vẻ đẹp của Ếm trong truyện ngắn Chợ
tình "Ếm đẹp như hoa (...) mỗi khi cười trời như sáng bừng lên, hoa xuân lay lắc
vui nhường lại nhan sắc”… Cao Duy Sơn có sử dụng bút pháp tương phản,
để khắc hoạ tính cách nhân vật qua ngoại hình như : nhân vật Sìu trong truyện
ngắn Song Sinh: “Cùng nước da trắng, tóc quăn tự nhiện, sống mũi gồ (...)
Sìu mạnh mẽ nhanh nhẹn, rắn rỏi, mắt hay liếc trộm người”. Sìu khác Du - người
anh em song sinh của nó chỉ ở một chi tiết: “mắt hay liếc trộm người”. Chính chi
tiết ấy vừa biểu hiện nét tính cách gian xảo, không đàng hoàng của Sìu, vừa “báo

12


trước” hành động tội lỗi sẽ diễn ra sau này của hắn: Giả danh Du để ân ái với chị
dâu.
Điểm độc đáo của nhân vật là những con người miền núi xuất hiện với cả

ưu điểm và nhược điểm của họ. Thông qua các xung đột thế sự - đời tư, chúng ta
bắt gặp hình tượng con người miền núi ngời sáng phẩm chất cao đẹp trong bi kịch.
Đó là lòng nhân hậu, chính phẩm chất này là “cội nguồn” để dẫn tới phẩm
chất cao đẹp khác như sự dũng cảm, đức hy sinh, lòng chung thuỷ… Và là chất
“vàng mười” được thử thách qua ngọn lửa của số phận và thân phận. Với lòng
nhân hậu, thầy giáo Hạc t r o n g Ngôi nhà xưa bên suối mới chấp nhận những
khó khăn của cuộc đời để giữ trọn vẹn chữ “Tâm” sáng trong của người thầy.
Ngay cả với người học trò cũ dù vô tình hay cố ý gây ra bao tai hoạ, đau khổ thì
người thầy ấy vẫn vị tha, nhân hậu. Đứng trước vẻ đẹp tâm hồn của thầy Hạc mỗi
người đọc như đang được soi tâm hồn mình vào một tấm gương sáng để rồi khát
khao vươn tới một lẽ sống cao đẹp.
Nhân vật Dình trong Hoa bay cuối trời - Cô gái đẹp người đẹp nết ấy đã
có một lời “nói dối” thật cao quý đối với Khơ: Khi biết mình bị bệnh nan y khó
chữa khỏi, không muốn mang đau khổ đến cho người mình yêu cô nói dối đã đi
lấy chồng để Khơ có thể yên lòng xây dựng hạnh phúc mới. Nhân vật lão Sinh
trong Chợ tình lại làm người đọc xúc động ở sự chung thuỷ với Ếm. Tình yêu
là “thước đo nhân cách” của con người; lòng thuỷ chung lại là “thước đo” của
tình yêu ấy. Không có lòng nhân hậu cao cả thì cũng không thể có sự chung thuỷ
trong tỉnh yêu….Tất cả đều đã hi sinh lợi ích, hạnh phúc thậm chí cả cuộc sống
và tính mạng của mình vì người khác. Cách xây kiểu nhân vật này vừa mang lại
chất thơ và giá trị nhân văn cho tác phẩm vừa biểu hiện quan niệm nghệ thuật về
con người của nhà văn Cao Duy Sơn: Cái đẹp lí tưởng là cái đẹp trong nhân cách
của con người, dù có thân phận thấp hèn, số phận bi kịch đến đâu lòng tốt sẽ nâng
con người ấy lên đến tầm cao lý tưởng, nhà văn Cao Duy Sơn ngợi ca những con
13


người giàu lòng nhân ái, đức hi sinh, vị tha cao thượng. Ông thể hiện niềm tin yêu
đối với những con người miền núi - những con người có sức sống tiềm tàng, mãnh
liệt, những con người bộc trực, chất phác sinh ra và lớn lên giữa đại ngàn. Bút

pháp miêu tả kiểu nhân vật lý tưởng của Cao Duy Sơn không đơn giản một chiều
ca ngợi mà biến hoá linh hoạt: Có nhân vật lí tưởng mà lòng nhân ái như có sẵn
trong tâm hồn, nhưng cũng có nhân vật lý tưởng mà lòng nhân ái chỉ có được
sau bao vật vã, giằng xé, đấu tranh với chính sự ích kỉ nhỏ nhen có sẵn trong
mỗi con người như nhân vật Chương Chảo – một người bạn đã một thời cũng
yêu Dinh tha thiết như Súc Hỷ, đã từng cản trở, bôi nhọ hình ảnh Súc Hỷ để Súc
Hỷ không lấy được Dinh (Súc Hỷ).
Bên cạnh đó, người đọc bắt gặp không ít những nhân vật phản diện - tiêu
cực. Có một đặc điểm chung giữa các nhân vật này là chúng đều “méo mó, dị
dạng” về nhân cách. Mọi tội lỗi, hay lầm lỡ của các nhân vật này đều bắt nguồn từ
sự “méo mó và dị dạng” đó. Nhân vật Sìu trong truyện ngắn Song sinh đã thực
hiện một hành vi cầm thú: Giả anh trai là Du để chiếm đoạt thân xác chị dâu,
nhân vật Hử trong Hòn bi đá màu trắng đã đem đến những đau khổ, dằn vặt cho
người thân của mình…
Như vậy nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn là những con
người miền núi với cả những con người thánh thiện cao đẹp và những kẻ độc
ác, xấu xa, bẩn thỉu… Cao Duy Sơn muốn phản ánh đầy đủ mọi phương diện của
đời sống xã hội, làm cho bức tranh về con người miền núi trong truyện ngắn của
ông trở nên chân thực, đa dạng, phóng phú và hiện thực hơn. Nhưng cũng phải
nói rằng, dù viết về mảng đề tài nào thì cảm hứng chủ đạo trong các truyện ngắn
của Cao Duy Sơn vẫn là cảm hứng ngợi ca khẳng định, trân trọng những vẻ đẹp
của con người. Ngay cả khi viết về cái xấu, cái ác thì cũng là để bảo vệ cái tốt, cái
thiện và để đấu tranh, cảnh tỉnh con người biết cảnh giác và tránh xa những gì phi
đạo đức, phản nhân văn.
14


Nhân vật của truyện ngắn Cao Duy Sơn là con người miền núi - những con
người được ví như núi đá biên thuỳ trầm lặng, ít nói, giấu bao nhiêu sục sôi, dữ
dội trong im lặng tính cách của nhân vật chủ yếu được bộc lộ qua hành động và

ngôn ngữ. Mọi hành động của nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn xuất
hiện gần như hồn nhiên bản năng, tức thời đúng như tính cách của con người
miền núi như: trong truyện ngắn Song Sinh Sìu đóng giả anh trai là Du để ân ái
với chị dâu. Du trong khoảnh khắc đã quyết định giải quyết tình huống bi kịch
này mà không cần đắn đo cân nhắc bắt Sìu biến thành Du quay trở về đơn vị
làm công việc nguy hiểm phó thác cho Sìu sự may rủi… Những hành động ấy
thể hiện tính đặc thù trong tư duy của con người miền núi nhà phê bình Lâm Tiến
nhận xét, đánh giá về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy
Sơn : .. “Truyện ngắn của Cao Duy Sơn còn hấp dẫn người đọc ở cách viết giàu
cảm xúc, giàu hình tượng với cách cảm nhận sự vật hiện tượng tinh tế, chính xác,
sắc sảo với những tình huống căng thẳng, gay gắt, bất ngờ. Với cách viết đó Cao
Duy Sơn đã đem lại cho văn xuôi các dân tộc thiểu số một cảm nhận mới về con
người và cuộc sống của các dân tộc”.
Nhà văn Cao Duy Sơn với ngòi bút của mình đã đi sâu vào thế giới nội tâm
của nhân vật. Từ đó thế giới tâm hồn người dân miền núi qua ngòi bút Cao Duy
Sơn trở nên sống động và hấp dẫn lạ kỳ.
Nghệ thuật biểu hiện sắc thái nội tâm nhân vật trong truyện ngắn của Cao
Duy Sơn tập trung ở sắc thái nội tâm nhân vật đa dạng, nhiều chiều, nhiều cung
bậc và luôn luôn biến chuyển. Sắc thái nội tâm nhân vật thể hiện trực tiếp bằng
dòng ý thức, qua sắc điệu lời nói và qua những nét biến chuyển, thay đổi về ngoại
hình, sắc thái nội tâm nhân vật thể hiện gián tiếp qua sự miêu tả, nhận định, đánh
giá của đối tượng khác. Miêu tả những sắc thái nội tâm của nhân vật chính là con
đường khám phá “cái tôi” bí ẩn của con người. Trong truyện ngắn của Cao Duy
Sơn những con người miền núi với “cái tôi” riêng biệt, đầy bí ẩn như được hé lộ
15


qua từng trang sách. Ông tập trung hướng vào “cái tôi” nội cảm, hướng vào thế
giới nội tâm với những diễn biến đầy phức tạp. Nhà văn nhìn nhận nhân vật bằng
con mắt ưu ái, với tư tưởng nhân đạo sâu sắc, nên các nhân vật của ông dù đứng

ở thái cực nào của quan niệm cuộc sống vẫn được tự do và chủ động bộc lộ bản
chất của mình qua những vận động biến chuyển trong thế giới nội tâm.
Khi miêu tả suy nghĩ và thế giới nội tâm của nhân vật Cao Duy Sơn dùng
những hình ảnh so sánh, thủ pháp độc thoại nội tâm để miêu tả nhân vật, qua đó,
nhân vật tự bộc lộ thế giới tinh thần của mình. Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên
trong tâm hồn nhân vật, là những ý nghĩ thầm kín của nhân vật, là lời nhủ thầm
của nhân vật. Độc thoại nội tâm là một trong những thủ pháp hữu hiệu nhất giúp
nhà văn phơi bày nội tâm nhân vật, miêu tả nó từ bên trong làm lộ rõ con người
tinh thần – “Con người bên trong” của nhân vật.
Qua ngôn ngữ miêu tả độc thoại nội tâm, một thủ pháp nghệ thuật chiếm ưu
thế trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Nhà văn đã thành công trong việc xây
dựng các nhân vật một cách tự nhiên, sống động, như những con người thật ở
đời.Việc miêu tả nội tâm nhân vật và qua thế giới nội tâm để bộc lộ số phận, tính
cách nhân vật, trang viết về những dòng miêu tả độc thoại nội tâm đầy đau đớn
xót xa, thấm đẫm nước mắt của lão Sinh với Ếm: “Về a Ếm ơi? Anh biết em bỏ
anh khác đi một mình rồi (…)– Lão cầm hai chén lên ngang mặt rồi tự cụng vào
nha. Uống được thôi là Ếm? Đấy có say đâu? Bây giờ thế này thôi chợ từ nay
không có chúng mình nữa, không có em không còn chợ (...) hãy chậm chân cho
nhau kịp bước với Ếm ơi ...” (Chợ tình). Trong truyện ngắn Cao Duy Sơn nội
tâm của nhân vật chủ yếu hiện lên qua lời kể, ít khi hiện lên qua “lời nội tâm”
của nhân vật. Có thể nói, nhà văn Cao Duy Sơn có sở trường trong việc sử dụng
biện pháp miêu tả nội tâm nhân vật trong xây dựng nhân vật.

16


2.2.2. Ngôn ngữ đậm màu sắc dân tộc
Nhà văn Cao Duy Sơn luôn ý thức rất sâu sắc việc thể hiện bản sắc dân tộc
trong tác phẩm của mình, ý thức đó đã được thể hiện trên những trang viết của
ông và đã đem lại cho tác phẩm của ông một bản sắc dân tộc đậm đà. Bản sắc ấy

đã trở thành một đặc điểm nổi bật trong ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn.
Ngôn ngữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn mang đậm dấu ấn miền núi, từ
hệ thống từ ngữ chỉ địa danh vừa mang đậm dấu ấn văn hóa miền núi trong cách
đặt tên làng bản vừa gợi lên những vùng đất còn hoang sơ, xa xôi bí ẩn cho đến lỗi
diễn đạt, cách sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, sử dụng nhiều biện pháp nghệ
thuật.
2.2.2.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật
Một trong những đặc điểm về cách diễn đạt của người miền núi nói chung
và người dân tộc Tày nói riêng là hay so sánh, liên tưởng, nói có hình ảnh.
Truyện ngắn Cao Duy Sơn đã thể hiện rất rõ đặc điểm này trong cả lời người kể
truyện và ngôn ngữ nhân vật.
Tác giả hay sử dụng thủ pháp so sánh, mật độ các từ “như” đặt giữa hai vế
so sánh rất cao, những cách so sánh, liên tưởng này mang màu sắc rất riêng và chí
có ở một nhà văn đích thực là người con của quê hương miền núi, thấu hiểu nếp
cảm, nếp nghĩ của dân tộc mình: “Người nhiều như cây rừng…” (Hoa bay cuối
trời). Khi miêu tả ngoại hình hai anh em sinh đôi: “Du và Sìu có vẻ ngoài giống
nhau như hai cái cày mới cùng một tay người đẽo” (Song sinh); “Bốn con ngựa
đực mình dài như cót thóc” (Chợ tình). Miêu tả làn da trắng của cô gái: “Mịn như
mỡ đông, tươi mát như sương loang mặt hồ” (Hoa bay cuối trời); ví con gái (Lò)
“xinh xắn, uyển chuyển như con suối thu chân núi” (Hòn bi đá màu trắng);
miêu tả đôi mắt con trai Tày“hẹp như mắt rắn”; hay “Tôi nghe có người nói
tuổi con gái đi nhanh như trăng qua núi chẳng mấy mà héo” (Hoa bay cuối trời);
“Vừa thấy cây sáo, cặp môi dày như sên của hắn bỗng nảy phừ rừ như trẻ sáu tháng
17


phun mưa” (Hòn bi đá màu trắng)… Bên cạnh một số hình ảnh quen thuộc được
chắt lọc từ chính ngôn ngữ đời sống của những người dân miền núi, Cao Duy Sơn
đã sáng tạo ra rất nhiều hình ảnh so sánh theo cách cảm, cách nghĩ của họ.
Trong những hình ảnh so sánh ấy, vế so sánh thường là những hình ảnh quen

thuộc, gần gũi đối với người dân miền núi. Có lẽ ngòi bút của Cao Duy Sơn thể
hiện màu sắc trữ tình lãng mạn nhất là khi viết về ngôn ngữ tình yêu - tình yêu của
các chàng trai cô gái dân tộc họ nói với nhau những “Lời có cánh” bằng cách ví
von để diễn tả tâm tư tình cảm trong trái tim yêu thương của mình: “Nhà dù trên
trời anh cũng tìm ra đấy. Anh sẽ đợi cho đến khi nào em hé môi hoa nhận lời anh
ngỏ. Dù phải trồng cây đá trước cửa nhà em cho đến khi nó nảy mầm để đợi lời
hoa anh cũng sẽ đợi” (Hoa bay cuối trời). Và đây là những lời nhớ thương thấm
đượm nỗi buồn của Dình khi phải xa người yêu: “Khơ ơi! Kể từ nay một ngày
không nhìn thấy anh là một ngày thế gian không có nắng, không có gió, rừng không
có hoa nở và không có cả tiếng chim hót”(Hoa bay cuối trời).
Với lối ví von so sánh, cách nói quen thuộc, tác giả còn dùng cách nói
giàu hình ảnh đã mang lại màu sắc miền núi cho ngôn ngữ nhân vật và cho tác
phẩm của nhà văn. Đây là lời chúc ngọt ngào đầu xuân mới đầy hình ảnh: “Bươn
chiêng pi mấư khai vài xuân a... ngần sèn khảu tu nả à, mò mả khảu tu lăng
ơ...Cần ké lục đếch khảu pi mấư à a... Phù sần au khen Slử lòng da... Khảu, nặm,
ngần sèn tim rườn la cung hỷ phát sói... (Tháng giêng năm mới đến khai xuân...
chúc cho tiền bạc như nước chảy vào cửa trước, ngựa bò chen đầy cửa sau, trẻ
già cùng bước vào năm mới, đều được tay áo thần linh che chở... gạo, nước, tiền
bạc đầy nhà... vui vẻ phát tài) (Súc Hỷ). Để nói lên nỗi buồn thương nhớ trào
dâng trong lòng với người yêu Dình nói: “Khơ ơi, kể từ nay một ngày không
nhìn thấy anh là một ngày thế gian này không có nắng, không có gió, rừng không
có hoa nở và không cả tiếng chim hót... anh hãy sớm trở về đây để cho em được

18


nhìn thấy mặt. trên đời này em chỉ biết nhớ thương có một Khơ thôi...” (Hoa bay
cuối trời).
Ngôn ngữ các nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn mang đậm chất
dân tộc. Chất dân tộc miền núi thể hiện ở cách nói giàu hình ảnh, hay ví von, so

sánh. Và hình ảnh ví von, so sánh thường gần gũi với đời sống, thiên nhiên, núi
rừng, thường gắn với những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống của người dân
miền núi.
Đây là lời của ông chủ đất nhận xét về thầy Hạc trong bữa cơm ông mời:
“Người mỏng như màng tre! Chắc lâu không được bữa no” (Ngôi nhà xưa bên
suối)
Để biểu hiện tình yêu chung thuỷ của mình suốt một thời gian dài dằng dặc
Lão Sinh nói: “Đôi giày này đấy? Anh đã đem theo bên mình bằng cả mười
lăm đời ngựa... (Chợ tình).
Để thể hiện nỗi buồn, nỗi đau, nỗi tuyệt vọng của mình khi bị chồng
ghen vì nghi ngờ quan hệ với em, chồng Lu nói: “Du ơi! Sao nói lời đau hơn dao
đâm thế?”... (Song sinh)
2.2.2.2. Sử dụng lối diễn đạt của người dân tộc
Cao Duy Sơn luôn chú trọng đến lối diễn đạt của dân tộc mình, Cao Duy
Sơn đã sử dụng thành ngữ, tục ngữ, dân ca Tày để thể hiện lời ăn tiếng nói và tâm
tư tình cảm của các nhân vật và sử dụng cả lối diễn đạt ấy trong ngôn ngữ của
người kể chuyện. Khi miêu tả giọng nói, cách nói, tính chất lời nói của các nhân
vật, người kể chuyện thường kể theo lối diễn đạt của người dân tộc: “Phủ là thằng
con trai mộc mạc, ăn ở thuỷ chung, trọng người khí phách, không thể tự dựng
chuyện núi lở đá lăn như thế”. Đây là lời tỏ tình của chàng trai với người con
gái: “Dình ơi! Em không ngại nhà anh phải đi qua sông lửa, không sợ leo đèo
Khau Liêu làm nhạt muối mồ hôi, anh muốn được ngỏ lời yêu, nay mai được
đón em về ở chung một nhà…”(Hoa bay cuối trời)
19


Cao Duy Sơn chủ yếu dùng những hình ảnh rất gần gũi với đời sống của
người dân miền núi để biểu đạt trong lời văn của mình cho phù hợp với cách
nhìn, cách cảm, cách nghĩ của họ. Ngoài việc khắc hoạ ngôn ngữ nhân vật bằng
những hình ảnh ví von, so sánh gần gũi với đời sống, nhà văn còn sử dụng thành

ngữ, tục ngữ, lối nói quen thuộc chẳng hạn như: “Trẻ trông già học, già tựa trẻ
sống” (Song sinh), “Rễ cây ngắn, rễ người dài, người ta chỉ có thể giữ được
tay, được chân, sao có thể giữ được lòng nhau (Hoa Mộc Vương),“Ruột rối như
cước chài” (Ngôi nhà xưa bên suối)...
Ngôn ngữ nhân vật của Cao Duy Sơn đã có tính riêng độc đáo mang tính cá
thể hóa. Nhà văn đã chú ý tới cách diễn đạt, lời ăn tiếng nói của người miền núi.
Ngôn ngữ của hai nhân vât Khơ và Dình trong Hoa bay cuối trời đậm màu sắc
miền núi:
“-

Em là người con gái đầu tiên của anh đấy!

-

Anh cũng là người đầu tiên em yêu! Bây giờ thì làm gì?

-

Cũng nghe bạn bè có đứa từng yêu nó kể cho nghe…ngày còn bé cũng

nghe người già thì thầm với nhau…nhưng ngại em không cho?
….. - Người già làm thế nào thì làm theo đi…”
Truyện ngắn của Cao Duy Sơn viết bằng tiếng Việt nhưng ông không chỉ
sử dụng lối nói của người Kinh mà chủ yếu khai thác vốn văn hoá và cách biểu
đạt của dân tộc mình. Sử dụng lối diễn đạt của người dân tộc, có khi Cao Duy Sơn
còn sử dụng cả tiếng dân tộc Tày trong tác phẩm. Việc sử dụng ngôn ngữ Tày
trong một chừng mực nhất định sẽ góp phần tạo không khí miền núi cho tác
phẩm. Ví như lời đối thoại giữa hai vợ chồng mới cưới mộc mạc giản dị mang
đậm bản sắc ngôn ngữ Tày:
− Múc dác xằng dè? (Đói bụng chưa)

− Cưu dá nhằng dác ca lăng mòn! (ăn rồi làm sao còn đói)

20


− Ờ nỏ! (Ờ nhỉ)
− Múc dác xằng dè?
− Bả da vá, xam lăng lai Pần nẩy ( Điên rồi sao? hỏi gì nhiều thế?)
− Ờ nỏ (Ờ nhỉ)
− Nắm mì toẹn răng xam nao lỏ? (không còn chuyện gì hỏi sao)
− Mì ớ! (Có chứ)
− Toẹn răng mòn phjuối mà ngòi? (Có chuyện gì nói ra xem)
− Kha nắt bấu dè? (Chân mỏi không à?)
− Lố, bả a né! (Đấy, đúng là bị điên rồi)
Nắt nắt ca lăng mòn? Đay khua pỏ (mỏi mỏi cái gì, làm buồn cười quá
thôi).(Song sinh).
Có thể nói, ngôn ngữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn là yếu tố quan trọng
mang lại chất dân tộc đậm đà trong văn chương của ông. Đó là cách sử dụng
phong phú nghệ thuật so sánh và ngôn ngữ giàu hình ảnh, cách sử dụng thành
ngữ, tục ngữ giàu biểu cảm, mang hơi thở tự nhiên của cuộc sống miền núi. Điều
đó làm nổi bật lên bức tranh thiên nhiên xã hội miền núi vừa thơ mộng vừa sôi
sục với những xung đột nghệ thuật; hình tượng con người miền núi với những
phẩm chất tốt đẹp ngời sáng trong bi kịch.
Ở phương diện ngôn ngữ Cao Duy Sơn đã không chỉ phản ánh được tâm
hồn của dân tộc mình mà bằng tác phẩm của mình, nhà văn đã góp phần lưu giữ,
bảo tồn, phát huy vẻ đẹp của tâm hồn ấy - Đó là sự bảo tồn vẻ đẹp văn hoá
bằng văn học.

21



Chương 3. MỞ RỘNG
3.1. Mở rộng so sánh với tác giả viết về đề tài miền núi
3.1.1. Những nét tương đồng.
Cũng như một số tác phẩm văn xuôi miền núi xuất hiện trong thời kỳ đổi
mới, truyện ngắn và tiểu thuyết của Cao Duy Sơn kịp thời tái hiện bộ mặt mới mẻ
của miền núi trong kinh tế thị trường, dưới tác động của chính sách, dự án của
Chính phủ, với những vui buồn, được mất trong đời sống vật chất và tinh thần của
con người vùng cao, những khởi sắc và cả những bất ổn đang vỡ ra của nó. Tiểu
thuyết Đàn trời của Cao Duy Sơn, cũng như Bóng của cây sồi của Đỗ Bích Thúy,
tập kí Trăng Xí Thoại của Hlinh Niê và một số truyện ngắn của Sa Phong Ba, Thu
Loan, Sương Nguyệt Minh…. đặt ra, với cả hi vọng, hào hứng và bức xúc, trăn trở,
với cách nhìn, cách lí giải mới. Cảm hứng phanh phui sự thật, nhìn nhận vấn đề từ
hai mặt, tránh khuôn mẫu, một chiều, đó là nét mới của văn xuôi miền núi đương
đại so với văn học sử thi giai đoạn trước, mà tác phẩm của Cao Duy Sơn là những
ví dụ.
Cũng như nhà văn Cao Duy Sơn, bản sắc dân tộc miền núi trong văn xuôi
Triều Ân khá phong phú, đa dạng thể hiện trước hết qua nghệ thuật xây dựng nhân
vật. Khi miêu tả ngoại hình nhân vật, Triều Ân cũng đã tuân thủ theo thi pháp
truyền thống nhưng hình ảnh con người miền núi bước vào các trang văn của ông
luôn có những nét độc đáo, đặc sắc. Điểm đáng nói là khi miêu tả ngoại hình nhân
vật, dù đẹp hay xấu, Triều Ân thường dùng các chi tiết gợi tả, so sánh gần gũi với
thiên nhiên và đời sống của người miền núi. Điều đó tạo nên sự tự nhiên, mộc mạc,
mang hơi thở của núi rừng và phù hợp với cách nhìn của con người miền núi. Mặt
khác, trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Triều Ân đã có sự cách tân, sáng tạo:

22


xây dựng những nhân vật ngoại hình không tỷ lệ thuận với tính cách. Điển hình

cho mẫu người này là hiệu trưởng Bạch Kim trong tiểu thuyết Nắng vàng bản Dao.
Ngôn ngữ trong văn xuôi Triều Ân cũng mang đậm dấu ấn miền núi. Hệ
thống từ ngữ chỉ địa danh không chỉ mang đậm dấu ấn văn hóa miền núi trong
cách đặt tên làng bản mà còn gợi lên những vùng đất còn hoang sơ, xa xôi bí ẩn.
Họ chú ý khai thác cách nói so sánh rất gần gũi, giản dị, mang những nét đặc
trưng văn hóa của người miền núi. Thường dùng các câu thành ngữ, tục ngữ, cách
nói vần vè đem lại giá trị thẩm mỹ cho câu văn nghệ thuật, đồng thời phù hợp với
cách cảm, cách nghĩ và cách nói giàu hình tượng của người miền núi.
3.2. Những nét khác biệt
Là một nhà văn xuất hiện trong thời sau Đổi mới, Cao Duy Sơn vừa hoà
nhập, vừa vượt trội lên trên mặt bằng chung của văn xuôi miền núi đương đại. Nếu
như trong nhiều sáng tác của văn xuôi miền núi có sự lặp lại, tương tự “đến mức
sáo mòn”, thì Cao Duy Sơn, trong khi vẫn không nguôi viết về mảnh đất và con
người quê hương Trùng Khánh, luôn gắng tự vượt lên mình. Những truyện ngắn,
tiểu thuyết của ông “đã đem lại cho văn xuôi các dân tộc thiểu số một cách viết,
một cách cảm nhận mới về con người và cuộc sống của các dân tộc. Ông miêu tả
nhân vật dưới góc độ đời tư, có số phận riêng và một sự tự ý thức” .Thông thuộc
cuộc sống, con người, vùng đất quê hương, nhà văn đã thể hiện qua các nhân vật
của mình hình tượng người lao động miền núi một cách cụ thể, sinh động, tinh tế
như nó vốn có, với bút pháp dung dị, hồn nhiên. Nhân vật trong văn xuôi Cao Duy
Sơn thường có cuộc sống nội tâm phong phú, phức tạp, mạnh mẽ, dữ dội, nhưng
lại lặng lẽ, kín đáo.

23


KẾT LUẬN
Cao Duy Sơn đã phản ánh chân thực, sinh động và phong phú hiện thực cuộc sống
của đồng bào dân tộc miền núi với những nét đẹp văn hóa đầy bản sắc. Qua các
truyện ngắn của Cao Duy Sơn, chúng ta thấy sự độc đáo và đặc sắc trong phương

thức bằng cách nói, cách cảm nhận đậm chất dân tộc miền núi.
Truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã đóng góp vào nền văn học Việt Nam với
nhiều tác phẩm có chất lượng làm phong phú và giàu có hơn nền văn học dân tộc.
Qua đó cũng đã khẳng định được vị trí của tác giả trong nền văn học chung của
dân tộc Việt Nam.
Các tác phẩm của Cao Duy Sơn vừa mang nét chung của dân tộc thiểu số
vừa mang nét riêng không thể hòa lẫn. Ông đã tạo cho mình một phong cách nghệ
thuật nổi bật và là chiếc cầu ngắn nhất kết nối tới độc giả, tới bạn đọc cả nước.
Nhiều tác phẩm của Cao Duy Sơn đã đạt tới chiều sâu triết lí, và quan điểm
sống vốn chỉ xuất hiện trong thơ ca dân tộc người Kinh. Từ đó, ta có thể thấy rằng
các tác phẩm đó đã đạt được tới đỉnh cao của văn học nghệ thuật.
Cao Duy Sơn đã phát hiện ra con đường riêng trong việc nhận thức, phản
ánh con người, cuộc sống các dân tộc miền núi, góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề đang đặt ra cho văn xuôi Tày nói riêng và văn học các dân tộc thiểu số nói
chung, tạo bước ngoặt quan trọng trong lịch sử văn xuôi Tày.
Trong tác phẩm Cao Duy Sơn, người đọc dễ bắt gặp ngôn ngữ mộc mạc,
giản dị, cách kể chuyện rất dân tộc như một số tác giả khác. Nhưng cái khác là Cao
Duy Sơn đi sâu hơn, toàn diện hơn, đưa nó lên tầm cao mới, thể hiện rõ những
yếu tố, phẩm chất của văn xuôi hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Khác với
những nhà văn lớp trước, ông làm cho ngôn ngữ văn xuôi Tày trở nên phong phú,

24


sinh động, trong sáng hơn, những câu chuyện không chỉ còn mang ý nghĩa thời sự
mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc.

25



×