Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Đô thị hiện đại trong tập truyện ngắn thành phố đi vắng của nguyễn thị thu huệ (KL07173)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.85 KB, 56 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------------------

LÃ THỊ HƢƠNG

ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI TRONG TẬP
TRUYỆN NGẮN THÀNH PHỐ ĐI VẮNG
CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội – 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo - Thạc sĩ Dƣơng
Thị Thuý Hằng – ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn tận tình để tôi có thể hoàn
thành khoá luận này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn,
đặc biệt là các thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thiện khoá luận.
Hà Nội, tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Lã Thị Hƣơng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong khoá luận là kết


quả nghiên cứu của bản thân dƣới sự hƣớng dẫn của cô giáo – Thạc sĩ Dƣơng
Thị Thuý Hằng. Kết quả nêu trong này là hoàn toàn trung thực và chƣa từng
đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Lã Thị Hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 5
6. Đóng góp của khoá luận .......................................................................... 5
7. Cấu trúc của khoá luận ............................................................................ 5
NỘI DUNG .................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1. HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG THÀNH PHỐ ĐI VẮNG ......... 6
1.1. Nguyễn Thị Thu Huệ - Quá trình sáng tác – Tập truyện Thành phố đi
vắng .......................................................................................................... 6
1.1.1. Nguyễn Thị Thu Huệ - Quá trình sáng tác .................................... 6
1.1.2. Tập truyện ngắn Thành phố đi vắng ............................................. 9
1.2. Hiện thực đô thị trong Thành phố đi vắng .......................................... 11
1.2.1. Con ngƣời cá nhân trong Thành phố đi vắng .............................. 11
1.2.2. Gia đình trong Thành phố đi vắng .............................................. 18
1.2.3. Tình yêu trong Thành phố đi vắng .............................................. 22
CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG

THÀNH PHỐ ĐI VẮNG ............................................................................... 26
2.1. Không gian nghệ thuật........................................................................ 26
2.1.1. Không gian chung ........................................................................ 27
2.1.2. Không gian cá nhân ...................................................................... 31
2.2. Thời gian nghệ thuật ........................................................................... 34
2.2.1. Thời gian hiện tại ......................................................................... 35


2.2.2. Thời gian quá khứ ........................................................................ 36
2.3. Ngôn ngữ............................................................................................ 38
2.3.1. Ngôn ngữ giàu chất thơ ................................................................ 39
2.3.2. Ngôn ngữ đời thƣờng, khẩu ngữ ................................................... 43
KẾT LUẬN.................................................................................................. 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sau năm 1975, cùng với sự thay da đổi thịt của đất nƣớc, đời sống
văn học Việt Nam cũng có nhiều đổi mới, cách tân đáng kể cả ở phƣơng diện
nội dung và hình thức. Văn xuôi Việt nam đặc biệt là truyện ngắn đã đạt đƣợc
những thành tựu nhất định. Đây là thể loại tự sự cỡ nhỏ, có dung lƣợng vừa
đủ giúp nhà văn phản ánh những bộn bề, phức tạp của cuộc sống trên nhiều
bình diện, góc cạnh khác nhau. Vì thế truyện ngắn ngày càng khẳng định
đƣợc ƣu thế của mình trong đời sống văn học hiện nay.
1.2. Trong nền văn học hiện đại, Nguyễn Thị Thu Huệ đƣợc xem là
một gƣơng mặt đáng chú ý, một cây bút có duyên trong lĩnh vực truyện ngắn
và dành đƣợc nhiều giải thƣởng từ những ngày đầu bƣớc chân vào văn
chƣơng, để lại nhiều ấn tƣợng trong giới nghiên cứu phê bình và độc giả. Qua
những trang viết của chị, có thể nhận ra một tƣ duy khá sắc sảo và sở trƣờng

nắm bắt những cái mới, thời sự của cuộc sống đƣơng đại. Phần lớn truyện
ngắn của chị đều thể hiện cái nhìn nhạy bén, phản ánh các vấn đề gay gắt của
cuộc sống hiện đại, khai thác những góc uẩn khúc về “Thế giới bên trong”
của con ngƣời. Không thuộc số những nhà văn viết khỏe, Nguyễn Thị Thu
Huệ chỉ viết khi câu chuyện đã đầy ắp trong tim óc cần hiện diện ra thành câu
chữ. Vì thế, hơn hai mƣơi năm c ầm bút, số lƣợng truyện ngắn chị viết không
thật nhiều. Chúng đƣợc tập hợp trong sáu tập: Cát đợi (1992), Hậu thiên
đường (1993), Phù thủy (1995), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010) và gần đây nhất là tập truyện ngắn Thành
phố đi vắng đƣợc Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thƣởng vào năm 2012.
Trên thực tế, đô thị Việt Nam hiện đại vẫn đang trong quá trình kiến
tạo. Sự ngổn ngang của nó tạo nên mảnh đất màu mỡ cho nhiều cây bút khai
phá. Nguyễn Thị Thu Huệ cũng là một trong số cây bút đó. Ở tập truyện ngắn

1


Thành phố đi vắng Nguyễn Thị Thu Huệ quan tâm nhiều đến vấn đề đô thị
hiện đại. Thay vì kiếm tìm tình yêu, tập truyện là những ƣu tƣ về tình ngƣời
ngày một cạn kiệt thậm chí biến mất trong đô thành hiện đại. Tình ngƣời băng
giá, sự vô cảm, nỗi bất an và cái chết trở thành những ám ảnh trong đời sống
đƣơng đại.
1.3. Nghiên cứu đề tài: “Đô thị hiện đại trong tập truyện ngắn
Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ”, chúng tôi hi vọng có thêm
những phát hiện, tìm tòi mới về cách tiếp cận đời sống con ngƣời trong xã hội
đƣơng thời và những đóng góp của nhà văn vào quá trình cách tân văn học
Việt Nam đƣơng đại.
2. Lịch sử vấn đề
Là cây bút đều đặn, miệt mài và thành công hơn c ả ở thể loại truyện
ngắn, Nguyễn Thị Thu Huệ và tác phẩm của chị đã thu hút đƣợc sự chú ý của

giới nghiên cứu, phê bình. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy cho đến nay có
một số bài viết của các nhà nghiên cứu có uy tín quan tâm tới sáng tác của chị
ở một số khía cạnh khác nhau. Tiêu biểu trong số đó là một số bài viết:
Trong bài giới thiệu tập Truyện ngắn bốn cây bút nữ, nhà nghiên cứu
Bùi Việt Thắng cho rằng: “Chao chát và dịu dàng, thơ ngây và từng trải, đớn
đau và tin tưởng cứ trộn lẫn trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên tính đa
cực của ngòi bút nữ có duyên trong lĩnh vực truyện ngắn. Đọc Nguyễn Thị
Thu Huệ ta bị cuốn hút vào trong niềm vui và nỗi buồn bất tận. Đời sống hiện
lên trên từng trang sách của chị bộn bề, ngổn ngang, ấy vậy mà ngẫm kĩ nó
đâu vào đấy. Nhà văn nghiêng viết về con người trong khối mâu thuẫn vừa cố
dính kết với gia đình như một “hang ổ cuối cùng”, lại vừa nhiều ngoại lực
giằng xé, lôi kéo” [24].
Tác giả Kim Dung trong bài Đọc Hồi ức một binh nhì và Bến trần gian,
cho rằng: “Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ luôn có hai mặt – vừa “bụi

2


bặm” trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, văn của chị vừa táo bạo vừa
thanh khiết. Một cái gì đó không thuần nhất, không đơn giản, thậm chí có khi
còn đối trọi nhau trong văn của Nguyễn Thị Thu Huệ” [3,108].
Hồ Phƣơng trong bài viết Thế hệ thứ ba in trên tạp chí VNQĐ tháng
10/1994 lại lƣu ý đến vốn sống và sự trải nghiệm trong truyện ngắn của Thu
Huệ khi nhận xét: “Trong các tác giả trẻ, Thu Huệ là cây bút hết sức sắc sảo.
Đọc Huệ tôi ngạc nhiên lắm, sao còn ít tuổi mà Huệ lại lọc lõi thế. Nó như
con mụ phù thuỷ lão luyện. Nó đi guốc trong bụng mình. Ruột gan mình có gì
hình như nó cũng biết cả” [19].
Vũ Thị Tố Nga ở đề tài Quan niệm nghệ thuật về con người trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ đã xem xét một cách khá toàn diện về các
truyện ngắn của Thu Huệ và chỉ ra “tư duy hướng nội là một đặc điểm định

tính đã phần nào chi phối các phương thức diễn đạt. Nhiều hình thức nghệ
thuật đã được Thu Huệ khéo léo đan cài và sử dụng phù hợp trong việc biểu
đạt tâm trạng – đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật. Bằng lối viết hết
mình đến cạn kiệt... chúng ta thấy được nỗi say đắm của chị với cuộc đời và
con người” [14,108].
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong bài viết Báo cáo giải thưởng Hội
nhà văn Việt Nam 2012 đã ghi nhận: “(Thành phố đi vắng) đã thực sự làm đầy
thêm hồ sơ sáng tạo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và đặt chị
vào vị trí những nhà văn Việt Nam đương đại viết truyện ngắn tiêu biểu” [27].
Gần đây nhất, nhà văn Nhật Tuấn trong bài viết Một thành tựu văn xuôi
hiện đại, nhân đọc Thành phố đi vắng đã nhận thấy: “(Thành phố đi vắng)
thực sự rất đáng ghi nhận như một tín hiệu đáng mừng, một thành tựu mới
trong văn xuôi hiện đại” [30,19].

3


Nhƣ vậy, thông qua các bài nghiên cứu, phê bình, giới nghiên cứu đã
chỉ ra những giá trị độc đáo trong sáng tác c ủa Nguyễn Thị Thu Huệ nhƣng
chƣa có công trình nào đi sâu vào tìm hiểu khía cạnh về hiện thực đô thị trong
lòng xã hội hiện đại. Trên cơ sở tiếp thu những ý kiến, kết quả của ngƣời đi
trƣớc, cùng với sự đánh giá, kiến giải của riêng mình, chúng tôi triển khai đề
tài: “Đô thị hiện đại trong tập truyện ngắn Thành phố đi vắng của Nguyễn
Thị Thu Huệ”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu, khám phá hiện thực đô thị
trong xã hội hiện đại qua các tác phẩm trong tập truyện ngắn Thành phố đi
vắng.
Khẳng định thành tựu và những đóng góp của Nguyễn Thị Thu Huệ với

thể loại truyện ngắn và với văn học Việt Nam đƣơng đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Khảo sát và tìm hiểu cách nhìn cuộc sống và con ngƣời trong tập
truyện ngắn Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Tìm hiểu nghệ thuật thể hiện trong tập truyện ngắn Thành phố đi vắng
của Nguyễn Thị Thu Huệ
- Khẳng định vị trí của Nguyễn Thị Thu Huệ trong nền văn xuôi Việt
Nam đƣơng đại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là hiện thực đô thị trong tập truyện
ngắn Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ trên phƣơng diện nội dung
và nghệ thuật.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khai thác các tác phẩm trong tập truyện ngắn Thành
phố đi vắng (Nhà xuất bản Trẻ - 2012).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi s ử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp khảo sát, thống kê.
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
- Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp
- Phƣơng pháp liên ngành
Các phƣơng pháp nghiên cứu trên không tách rời nhau mà tƣơng tác,
bổ sung cho nhau trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.

6. Đóng góp của khoá luận
- Khoá luận trên góp phần làm rõ hiện thực đô thị trong xã hội ngày
nay thông qua tập truyện ngắn Thành phố đi vắng.
- Khẳng định sự độc đáo của Nguyễn Thị Thu Huệ trong sáng tác
truyện ngắn, qua đó thấy đƣợc sự đổi mới về tƣ duy nghệ thuật cũng nhƣ vị trí
của nhà văn trong nền văn xuôi đƣơng đại.
7. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, nội dung của khoá
luận gồm hai chƣơng:
Chƣơng 1: Hiện thực đô thị trong Thành phố đi vắng
Chƣơng 2: Nghệ thuật thể hiện hiện thực đô thị trong Thành phố đi
vắng

5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG THÀNH PHỐ ĐI VẮNG

1.1. Nguyễn Thị Thu Huệ - Quá trình sáng tác - Tập truyện Thành phố
đi vắng
1.1.1. Nguyễn Thị Thu Huệ - Quá trình sáng tác
1.1.1.1. Cuộc đời
“Làm được những việc mình yêu thích, có được những thứ mình cần do
chính bàn tay mình làm ra. Viết văn, viết kịch, làm phim, đọc sách làm cho
cuộc sống của tôi phong phú. Nhưng điều quan trọng hơn là những tác phẩm
của tôi được độc giả tiếp nhận và yêu thích, đó là một sự đền bù vô giá” [26].
Đây chính là những chia sẻ của nữ nhà văn tài hoa Nguyễn Thị Thu Huệ khi
nói chuyện về cuộc sống và công việc của mình.

Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12 tháng 8 năm 1966 tại Hà Nội. Hiện
nay, chị đang sinh sống ở Hà Nội và làm việc tại Đài Truyền hình Việt Nam.
Bố chị mất khi chị mới 17 tuổi. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú là mẹ
chị, bà qua đời năm 2013. Cái tên Huệ là do chính bà đặt cho con, theo tên
nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đầu tay Huệ đã đƣợc trình làng năm
1964. Cuốn tiểu thuyết Huệ “đứa con tinh thần” mang bao hoài bão, khát
vọng của bà, giờ đây đƣợc gửi gắm vào đứa con đầu lòng và duy nhất Nguyễn
Thị Thu Huệ. Chị đã không phụ sự kì vọng đó, đã khẳng định đƣợc tài năng
và bản lĩnh nghệ thuật của mình trên con đƣờng văn chƣơng, tiếp bƣớc những
ấp ủ từ ngƣời mẹ yêu quý.
Ngay từ khi còn nhỏ Thu Huệ sớm đã bộc lộ năng khiếu văn chƣơng và
hội họa, nhƣng chị lại mê hội họa hơn và thích trở thành họa sĩ. Thu Huệ từng

6


tâm sự: “Mình không nghĩ sau này sẽ trở thành nhà văn, thế hệ bọn mình lúc
đấy hồn nhiên lắm, không bao giờ có ước mơ phải trở thành một người nổi
tiếng, giàu sang gì đâu” [25]. Nhƣng niềm say mê và tài năng đã đƣa chị đến
với văn chƣơng. Khi vừa tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Tổng hợp, chị giấu bố
mẹ đăng hai truyện ngắn Mưa trái mùa và Mùa hoa sấu rụng trên Báo Văn
Nghệ khiến văn đàn xôn xao một thời.
Nhƣng con đƣờng trở thành nhà văn của chị bị ngắt quãng khi chị lập
gia đình và dành toàn bộ thời gian để chăm sóc con cái. Sau hai năm ở nhà
trông con, chị quyết định vào làm biên tập viên sân khấu tại Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật. Cuộc sống nhàn hạ cứ thế trôi đi nếu không có một lần chị thấy
mẹ buồn. Bà tủi thân vì thấy nhiều ngƣời bằng tuổi con mình đã có tiếng tăm,
còn con mình dƣờng nhƣ quên hẳn văn chƣơng. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc
Tú là ngƣời có ảnh hƣởng lớn đến cuộc sống và sự nghiệp viết văn của Thu
Huệ. Hiểu đƣợc tâm tƣ và sự kì vọng của mẹ, vậy là chị viết, viết nhƣ điên, cứ

mỗi chiều sau khi cơm nƣớc xong, chị đạp xe lên cơ quan, mƣợn chiếc máy
chữ và lạch cạch gõ đến tận khuya: “Lúc đó tôi đã viết như lên đồng, ý tưởng
tuôn trào như không kịp nghĩ”. Và kết quả năm truyện ngắn Hậu thiên đường,
Biển ấm, Bảy ngày trong đời, Tình yêu ơi, ở đâu?, Minu xinh đẹp gửi đi dự thi
Tạp chí Văn nghệ Quân đội khiến Ban giám khảo không biết chọn truyện nào
đạt giải nhất. Sau đó chị chuyển sang làm tại hãng Phim Truyền hình Việt
Nam. Liên tiếp các truyện ngắn của chị đƣợc chuyển thể thành phim và gây
đƣợc tiếng vang lớn. Đầu tiên là Của để dành, sau đó là Nước mắt đàn ông
cũng đến với khán giả và đoạt huy chƣơng vàng liên hoan phim Truyền hình.
Chị trở thành “Của để dành” của các đạo diễn với nhiều truyện ngắn rất đời
thƣờng bởi dƣờng nhƣ ai đọc cũng cảm giác có mình trong đó. Sau sáu tháng
làm việc ở đây, chị đƣợc đề bạt làm trƣởng phòng phim, Xƣởng trƣởng xƣởng
II của hãng Phim Truyền hình. Sau đó với năng lực của mình, chị đã vƣơn lên

7


đứng ở vị trí Giám đốc của VTC9 Let’s Việt (2008), một kênh chuyên về
phim Truyền hình Việt Nam.
Nguyễn Thị Thu Huệ mặc dù rất bận rộn với công việc quản lý nhƣng
không vì thế niềm đam mê văn chƣơng, nhu cầu đƣợc viết của chị giảm bớt.
Chị vẫn miệt mài viết, miệt mài sáng tạo vì văn chƣơng đã trở thành ngƣời
bạn tinh thần của chị: “Văn chương luôn làm ấm lòng tôi, viết và đọc là điều
không thể thiếu trong cuộc sống” và “Văn chương đối với tôi là người bạn
chung thủy có thể chia sẻ với mình nhiều điều” [15].
1.1.1.2. Quá trình sáng tác
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ thuộc thế hệ cầm bút, xuất hiện từ đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX. Thu Huệ đƣợc coi là nhà văn nữ độc đáo và tài
hoa, hào hiệp và mạnh mẽ, một cây bút chuyên tâm với truyện ngắn. Không
đao to búa lớn, không gây dƣ luận ồn ào hay những tranh cãi nảy lửa trong

giới phê bình nhƣng tác phẩm của chị vẫn có sức hấp dẫn riêng. Thu Huệ thể
hiện những vấn đề nhức nhối của cuộc sống nhân sinh một cách giản dị tự
nhiên nhƣ chính đời sống hàng ngày, nó nhƣ những thƣớc phim sống động,
chân thực về cuộc sống. Vì vậy, tác phẩm của chị “hữu xạ tự nhiên hƣơng”,
cứ lan tỏa, thấm thía vào tâm hồn bạn đọc một cách tự giác.
Hơn 20 năm cầm bút, Thu Huệ đã tạo dựng đƣợc phong cách riêng,
không lẫn với bất cứ nhà văn nào. Cho đến nay chị đã có trong tay bảy tập
truyện ngắn: Cát đợi (1992), Hậu thiên đường (1993), Phù thủy (1995), 21
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2001), Nào, ta cùng lãng quên (2003), 37
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2006) và Thành phố đi vắng (2012).
Thu Huệ cũng là ngƣời có duyên với các giải thƣởng và đƣợc đánh giá
cao tại các hội đồng chấm giải. Chị đạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Hội
văn học Nghệ thuật Hà Nội 1986 (Một khoảng đời chờ đợi); Giải nhì cuộc thi
truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền Phong 1993 (Những đêm thắp

8


sáng); Giải nhất cuộc thi truyện ngắn NXB Hà Nội 1994, cùng năm đó chị
cũng đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức
cho chùm tác phẩm gồm 5 truyện ngắn (Hậu thiên đường, Biển ấm, Minu xinh
đẹp, Bảy ngày trong đời, Tình yêu ơi, ở đâu?) và nhận thƣởng của Hội Nhà văn
cho tập truyện Hậu thiên đường. Năm 2012, Thu Huệ đƣợc nhận giải thƣởng
của Hội Nhà văn dành cho tập truyện ngắn Thành phố đi vắng.
1.1.2. Tập truyện ngắn Thành phố đi vắng
Với Thành phố đi vắng, Thu Huệ quan tâm nhiều đến vấn đề đô thị
hiện đại. Thay vì kiếm tìm tình yêu, tập truyện là những ƣu tƣ về tình ngƣời
ngày một cạn kiệt thậm chí biến mất trong đô thành hiện đại. Tình ngƣời băng
giá, sự vô cảm, nỗi bất an và cái chết trở thành những ám ảnh trong đời sống
đƣơng đại. Chị chia sẻ: “Ngày trước, những câu chuyện của đời sống đến với

tôi, và tôi kể lại chúng theo cách nhìn của một người trẻ, trong một xã hội ít
bất an, đâu đó còn nhiều góc bình yên. Bây giờ, đời sống của đám đông, của
những thân phận bị trồi lên trụt xuống quẫy đạp nhằm tồn tại trong những
cơn sóng táp thẳng, khiến tôi chao đảo, buồn bã và đau đớn. Và tôi đã kể
những chuyện qua lăng kính của tôi, những ngày tháng này. Lạnh lùng ở câu
chữ, nhưng xa xót trong tâm can. Tuy vậy, tôi chưa mất hẳn niềm tin vào con
người. Rải rác ở đâu đó vẫn còn những người đau đáu làm điều tốt, làm ra
những thứ có ích cho cộng đồng” [2].
Xuyên suốt các câu chuyện trong Thành phố đi vắng là cảm thức về sự
mất mát trong đời sống con ngƣời. Đó là sự lạnh lùng thờ ơ, thói vô cảm và
tội ác với nhiều bộ mặt khác nhau. Con ngƣời sống với nhau ngày càng mất đi
những sợi dây kết nối, họ đã thực sự “đi vắng” trong chính sự tồn tại của
mình. Thu Huệ chia sẻ: “Tôi luôn bị ám ảnh về những dòng chảy đang xoay
chuyển những thế hệ người Việt theo hướng xấu đi, đang đi xuống. Sự thanh
cao, phẩm chất đáng quý của người Việt một là dần bé lại, hai là bị đè nén

9


trước sự trần trụi và thô tục, sự suy cấp đạo đức, bế tắc không lối thoát trong
khi vẫn phải sống chứ không chết hay tìm ra một giải pháp khác. Sự bất an,
đời sống khó khăn, đơn điệu, những thói quen sinh hoạt văn hóa cộng đồng ít
dần làm người ta mất cảm xúc... Những giá trị tốt đẹp bị triệt tiêu từ từ, thay
bằng sự hào nhoáng phô trương của trang phục, đồ dùng tỷ lệ nghịch với văn
hóa sống...” [2]. Cùng với lối viết khách quan, trung tính, tiết chế cảm xúc tối
đa, mỗi truyện ngắn trong tập sách của chị hiện diện nhƣ một bản tƣờng thuật
về đời sống. Giống một nhà quay phim, nhà văn hƣớng ống kính vào những
mảng đời sống khác nhau cặm cụi, tỉ mỉ ghi hình. Không tham dự, không
phán quyết, không dự đoán, mỗi truyện ngắn đƣa độc giả tiếp cận gần nhất
với đời sống đô thị đƣơng đại cùng những vấn đề của nó, nhƣ trong các

truyện ngắn: (X-Men có mùi trường đua, Cú mèo và rượu hoa, Không thể kết
thúc, Sống gửi thác về, Của cha, của con những cành vạn niên thanh, Thu xếp
cuối đời, Thành phố đi vắng...).
Nguyễn Thị Thu Huệ đã tâm sự: “Tôi không có ý định là phải thay đổi
phong cách, hay phải làm mới mình. Nếu có sự thay đổi, có lẽ do trong đầu
mình cảm nhận đời sống này, chiêm nghiệm về những gì đang diễn ra xung
quanh thay đổi, nên khi viết ra thì thành như vậy. Nhân vật, câu chuyện dẫn
dắt cách kể và tôi bị họ cuốn đi. Tôi sống trong đời sống của họ, thấm thía sự
tan nát của họ, và buồn bã cùng họ” [6]. Yêu mến, tìm hiểu, nghiên cứu
những truyện ngắn của chị, từ những truyện ngắn đầu tiên của thời Hậu thiên
đường đến Thành phố đi vắng dễ dàng nhận thấy đã có sự thay đổi trong cách
viết của chị. Bên cạnh những nét sắc sảo và táo bạo, bén nhạy và tinh tế, là sự
trƣởng thành, già dặn của một ngƣời từng trải với những chiêm nghiệm suy tƣ
về những giá trị cuộc đời và con ngƣời. Với ngòi bút sắc sảo và mạnh mẽ
cùng trực cảm phụ nữ tinh nhạy, tập truyện mới nhất này đã cảnh báo một đời
sống của “vô cảm, ích kỉ và thù hận và gián tiếp dự báo một tội ác kinh hoàng

10


hơn trong tương lai nếu lương tâm con người không được đánh thức”
(Nguyễn Quang Thiều).
Đã hơn hai mƣơi năm cầm bút, nhƣng Nguyễn Thị Thu Huệ vẫn luôn là
cây bút nữ không (chƣa) mệt mỏi trên hành trình sáng tạo văn chƣơng.
1.2. Hiện thực đô thị trong Thành phố đi vắng
1.2.1. Con ngƣời cá nhân trong Thành phố đi vắng
Đến với truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng ta đến với những
trang viết tƣởng chừng nhƣ bình lặng mà không bình lặng chút nào. Ở đó,
tiềm ẩn những bất ổn, những day dứt trăn trở, những bi kịch nhân sinh của
con ngƣời. Cuộc sống và con ngƣời trong các tác phẩm của Nguyễn Thị Thu

Huệ có những khoảng lồi lõm, trồi sụt không tránh khỏi trong đời sống xã hội
hiện thời.
Ngƣợc dòng thời gian trở lại với những năm tháng 90 của thế kỉ XX,
nữ nhà văn tài hoa này đã chú ý tới những mảng tối, những góc khuất của
cuộc sống. Nhƣng dù sao, cuộc sống ở đó ít nhiều vẫn còn dịu nhẹ, không gai
góc, lạnh lùng, thiếu vắng sợi dây kết nối tình ngƣời nhƣ trong xã hội hiện đại
hôm nay. Với các tác phẩm trƣớc nhƣ Hậu thiên đường, Cát Đợi, Phù Thuỷ…
tác giả đã miêu tả chân thực cuộc sống phức tạp nhiều vẻ hiện nay, khi mà cái
ác đang lấn lƣớt cái thiện, Thu Huệ đã chiêm nghiệm đi sâu khai thác cái ác,
cái xấu một cách cụ thể, khốc liệt. Thu Huệ đã xây dựng những nhân vật bị xé
toạc vỏ bọc bên ngoài để lộ trần trụi những phần bản năng nhất. Đó là My,
Dƣơng (Thiếu phụ chưa chồng); là ngƣời vợ (Nước mắt đàn ông; Minu xinh
đẹp); là ông bố (Ám ảnh)… Để rồi Thu Huệ đã nhận ra rằng sự phức tạp nhất
tập trung ở những con ngƣời có vẻ là có học nhƣng họ vẫn thoái hóa. Rõ ràng,
ngầm ẩn trong đó, Thu Huệ muốn nói tới sự tác động xấu của cơ chế thị
trƣờng đã khiến cho con ngƣời bị lệ thuộc, bị đồng tiền chi phối. Nói nhƣ nhà
văn Banzac: khi túi tiền “phình to” ra thì trái tim “teo lại”. Không có tiền

11


ngƣời ta kiếm tiền bằng mọi cách. Chuyện ngƣời thì ăn hối lộ (Còn lại một
vầng trăng), lừa đảo (Nước mắt đàn ông), hay chuyện bán rƣợu lậu (Ông
Mậu), cƣớp chồng của chị gái (Thiếu phụ chưa chồng), chửi chồng nhƣ hát
hay (Minu xinh đẹp)… Cuộc sống ẩn trong mình nhiều vấn đề nhức nhối,
ngột ngạt, con ngƣời sống trong đó phải hàng ngày, hàng giờ đối chọi với
nhiều khó khăn thử thách để mƣu sinh trong thời buổi kinh tế thị trƣờng, khi
mà đồng tiền lên ngôi, chi phối gần nhƣ tất cả mọi thứ, cái ác luôn ở quanh
rình rập, chỉ chờ thời cơ là có thể nuốt chửng những cái gọi là “tình ngƣời”.
Truyện ngắn của Thu Huệ đã phơi bày một xã hội bất ổn, khi mà giá trị con

ngƣời ngày một đi xuống. Và trong cái xã hội ấy, con ngƣời luôn đối mặt với
những khoảnh khắc tự phán xét, có những lúc nhân vật thức tỉnh, biện hộ và
giải thích, cùng với những giằng xé nội tâm quyết liệt dẫn đến trạng thái tâm
lí cô đơn của con ngƣời. Thu Huệ đã phác họa với những tình huống muôn
mặt ban ngày nhƣ một chiếc bóng mà ban đêm mới là cuộc sống thực (Người
đi tìm giấc mơ); nỗi cô đơn của ngƣời đàn bà chƣa từng đƣợc nếm vị ngọt
ngào lẫn cay đắng của hạnh phúc làm vợ, làm mẹ (Người đàn bà ám khói); cô
đơn khi không tìm thấy chỗ neo đậu cho khát vọng tình yêu (Cát đợi, Tình
yêu ơi, ở đâu?); nỗi cô đơn của ngƣời phụ nữ dƣ thừa vật chất mà thiếu tình
yêu thƣơng (Tân cảng); của ngƣời đàn ông có tài, giỏi kiếm tiền nhƣng lại cô
độc trong gia đình dƣ thừa vật chất (Nước mắt đàn ông), nỗi cô đơn của một
thế hệ khi những giá trị tinh thần của gia đình truyền thống đang dần bị mất đi
trong xã hội hiện đại (Của để dành)…. Có thể nhận thấy, trạng thái tâm lý cô
đơn trở thành tâm điểm của sáng tạo nghệ thuật trong truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ. Bằng khả năng nắm bắt những biến thái tinh vi trong
đời sống của con ngƣời, chị đã lý giải một thực tế tinh thần của con ngƣời
trong đời sống xã hội hiện đại. Thế giới nội tâm của con ngƣời luôn ẩn chứa
những yếu tố bất ngờ, bí ẩn. Nỗi cô đơn không chỉ tồn tại đơn thân, lẻ loi một

12


mình một bóng, mà con ngƣời còn cảm thấy nỗi cô đơn trong ngay chính ngôi
nhà, tổ ấm thân thuộc của mình khi không tìm thấy sự đồng cảm và tiếng nói
chung.
Đến với tập truyện ngắn Thành phố đi vắng, ngòi bút của Nguyễn Thị
Thu Huệ vẫn hƣớng về những phận ngƣời trong đời sống đô thành hiện đại
nhƣng những truyện ngắn của Thu Huệ hôm nay, không còn là những lát cắt,
những câu chuyện rất cụ thể về những con ngƣời cụ thể nhƣ Hậu thiên đường,
Phù thủy, cùng với cuộc sống đang đổi thay, con ngƣời cũng dần biến đổi.

Nhân vật trong truyện ngắn của chị ở góc này, góc khác là đại diện cho một
số đông, mang những dấu ấn đậm nét của xã hội hiện đại. Vẫn là những số
phận, những mối quan hệ gia đình cha con, ông cháu, nhƣng đằng sau đó là
một tâm lý đám đông khá phổ biến với sự bế tắc trƣớc một đời sống lộn xộn,
cái ác hoành hành, buộc ngƣời tốt đôi khi thành vô cảm. Là ngƣời trải qua
thời bao cấp, thời đổi mới và cho đến thời bây giờ, Thu Huệ cảm nhận rõ
những thay đổi của cuộc sống hôm nay. Cuộc sống đô thị hiện đại, trẻ trung,
năng động nhƣng chất chứa trong lòng nó những xáo trộn, mất mát, và sự bất
an. Xuyên suốt các truyện ngắn của chị trong Thành phố đi vắng là cảm thức
về sự mất mát trong đời sống con ngƣời. Đó là sự lạnh lùng, thờ ơ, thói vô
cảm và tội ác với nhiều bộ mặt khác nhau.
Nhận thức về nỗi bất an trong xã hội hiện đại đã trở thành một trạng
thái tâm lý của nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Những
nhân vật (phận ngƣời) run rẩy đi trong chiều dài và cả chiều sâu của cuộc
sống không ai định hình đƣợc con đƣờng sẽ dẫn về đâu. Không một ai…
Những định hƣớng hoang mang, mục tiêu sống cũng chìm khuất trong cái
nhộn nhịp nhƣng bức bối. Khái niệm thấu hiểu và sẻ chia trở thành điều xa xỉ.
Cái ác, cái chết luôn ám ảnh đời sống con ngƣời.

13


Một cô gái khiếp đảm, sợ hãi trong quán phở vì nỗi đe doạ vô hình bởi
bọn cƣớp có vũ khí: “Có cảm giác bất an, cô ngẩng lên” [12,71], “Cô lạnh
người… Tự gồng mình che giấu từng cơn run đang chạy khắp người” [12,72]
, “Giờ cô mới để ý, chúng mặc áo choàng dài gần đầu gối. Hai xe máy không
biển số. Thằng nào khi vào cũng có đeo khẩu trang. Thôi đúng là cướp rồi.
Cô có đọc trên báo, dạo này, cướp hay đi xe không biển số, đội mũ bảo hiểm
và đeo khẩu trang che mặt. Vũ khí chúng dùng là dao, kiếm hay súng tự chế.
Những thứ chúng cướp là xe máy, túi xách, điện thoại di động, máy tính xách

tay, dây chuyền… và nếu đối tượng có chống cự, sẽ chém dằn mặt hoặc là
bắn phi tang” [12,75]. Để rồi từ đó cô luôn có cảm giác cái ác cứ quẩn quanh
bên mình và rồi cô sống khép mình hơn, cô nhận ra rằng: “Sẽ không thể tìm
nơi nào bình yên hơn nơi ch ốn của riêng mình”, “Sẽ không ra đường”, “Sẽ ở
nhà” [12,81] (Trong lúc ăn một bát phở Gia truyền).
Trong truyện ngắn cùng tên Thành phố đi vắng, một cô gái trở lại thành
phố sau 3 năm xa cách, cảnh vật không thay đổi, vẫn phố phƣờng, hàng cây,
nhà hàng, khách s ạn… Tất cả vẫn vẹn nguyên nhắc lại những kỉ niệm còn
tƣơi rói. Cô gặp lại những ngƣời xƣa: Bác tài xế xe bus, cô quản lý nhà hàng,
ông bác sĩ… Họ vẫn nhớ cô là ai nhƣng sự thân thiện khi xƣa hầu nhƣ không
còn nữa. Điều đó đã đẩy cô gái vào nỗi hoang mang cực độ khi nhận ra bản
thân lại lạ lẫm ngay trong chính không gian thân thuộc của mình. Cái thành
phố cô từng yêu say đắm vì mùi ngƣời, vì sự náo nhiệt, xô bồ, hỗn tạp nhƣng
tràn trề sức sống không còn nữa, thay vào đó là một đô thành hoang lạnh trơ
vơ. Trên mọi nẻo đƣờng kiếm tìm tình ngƣời, cô gái càng tìm càng vô vọng:
“Không còn vẻ náo động của những phố mua bán, người đi lại sắm đồ. Không
thấy các cửa hiệu mở suốt ngày đêm cho khách thập phương. Tất cả có gì đấy
như vừa được siết chặt lại về trật tự. Tiếng động cũng khác xưa” [12,267],
“Không còn sự lộn xộn của cuộc sống thị dân bao đời vẫn thế. Phố vốn dài

14


giờ thêm lạnh. Người vẫn đông nhưng hết âm thanh, như những diễn viên
câm” [12,269], “Trong xe, khách đông, ngồi kín ghế. Người đứng vai kề vai,
lặng ngắt, bàn tay nắm vào cọc sắt, hoặc kéo dây thả từ trên xuống. Người
ngồi cứng đơ như những bức tượng. Mỗi khi xe phanh gấp, tượng người bê
tông đó nghiêng nguyên khối, sau trở về vị trí cũ. Mắt ai cũng nhìn vào một
khoảng trống trước mặt, đem cho người đối diện là họ đang suy nghĩ rất sâu
về một vấn đề riêng, tất cả đều mang khuân mặt ơ hờ, bình thản. Bắt gặp ánh

mắt muốn nói chuyện của cô, lập tức những tia lạnh từ mắt người đối diện
bắn ra thông điệp “Đừng làm phiền tôi” [12,264]. Cô nhận ra rằng: “Thành
phố như người đông máu, vô cảm, dửng dưng” [12,269]. Vì thế cô bơ vơ, lạc
lõng, cô đơn trên chính thành phố quen thuộc, từng gắn bó máu thịt với mình:
“Cô bật khóc. Cơn thủi thân, sự cô độc giữa chốn đông người và ý thức
những điều mất mát, tốt đẹp đã tuột mất trong đời làm cô không đứng dậy
nổi” [12,274], “Bây giờ. Ở nơi chốn của mình, sau ba năm trở lại, hai mắt
nhoè nước, bàn tay với những ngón dài, nổi trên mu bàn tay da trắng xanh
những cái gân chuyển sang màu xanh tím ôm chặt lấy khuôn mặt mình, cô
khóc nức nở” [12,281]. Cô đã tìm thấy chỗ cho mình ở nghĩa trang, cô chết vì
cô quá “nóng”, quá nồng nhiệt với cuộc sống, trong khi thành phố nơi cô từng
sống, từng yêu thƣơng, từng ấm áp tƣơi mát với cô, bỗng trở nên tàn nhẫn,
lạnh lẽo, máy móc dập khuôn sau vài năm không trở lại.
Con ngƣời cá nhân trong tập truyện ngắn Thành phố đi vắng còn là
những con ngƣời không định hình đƣợc con đƣờng sẽ đi về đâu, những định
hƣớng hoang mang, mục tiêu sống chìm khuất trong xã hội nhộn nhịp bức bối
để rồi một chàng trai đợi ngày dài trôi qua một cách nhàm chán, vô vị bằng
những bộ phim hoạt hình: “Một chủ nhật thừa bớt hoang mang, nhờ bọn chim
cánh cụt”, “Từ ngày không còn cô bên cạnh, những chiều thừa thãi anh nằm
nghiên cứu các chương trình ti vi và luôn dừng ở phim hoạt hình. Hôm nay,

15


tập bảy phim về gia đình nhà cừu” [12,230] (Chủ nhật được xem phim hoạt
hình). Một trạng thái dật dờ đợi xuân, hạ, thu qua để đón mùa đông tới của
“bố cục chặt”, cũng nhƣ cái “nhu cầu” của “cô gái” là đƣợc ở bên “ông” vào
những ngày thật lạnh: “Tôi cũng chỉ nhớ ông vào những ngày “Miền núi phía
Bắc trời rét đậm, có nơi có sương muối và tuyết…” Còn những ngày ẩm ương
nồng nàn cải lương như mùa xuân cho tình yêu đâm chồi nảy lộc, mùa hạ tình

yêu cháy bỏng, mùa thu nồng nàn… tôi không nghĩ con người là ông tồn tại
trong cuộc đời này” [12,85], “Cứ dật dờ đợi xuân hạ thu qua để đông về được
gặp đằng ấy rồi lại đợi… Tôi nhão người lắm” [12,94] (Rồi cũng tới nơi thôi).
Một kế hoạch cuối đời đƣợc sắp đặt nhƣ chỉ để làm trôi đi thời gian vỏn vẹn
của một dịp xông hơi của hai gái già: “Cứ nghĩ ngày bọn trẻ con đi hết, mình
già, không ở với ai được. Bây giờ đã không thì sau này càng không. Càng
nghĩ, càng thấy tao với mày ở với nhau là đủ”, “tao mới học lái xe để làm tài
xế cho mày. Mày kiếm tiền giỏi về nuôi tao. Tao chẳng ăn uống gì, chỉ thích
rượu…” [12,177] (Thu xếp cuối đời).
Cuộc sống đô thành hiện đại đã khiến cho con ngƣời sống co ro nhƣ rét
không có áo ấm, mƣa không có ô che, đời sống khó khăn đơn điệu dần dần
khiến cho con ngƣời ta mất đi cảm xúc. Khác hẳn với vẻ hào nhoáng bên
ngoài của xã hội hiện đại đầy sôi động là cuộc sống đang xoay chuyển của thế
hệ những con ngƣời Việt theo những hƣớng khác nhau: thiện – ác, tốt – xấu,
nhiệt huyết – thờ ơ, cái này có thể lấn át cái kia và ngƣợc lại. Có thể thấy
trong truyện ngắn của mình, Nguyễn Thị Thu Huệ đã khắc hoạ đƣợc những
trạng thái tâm lý khác nhau của con ngƣời. Nhân vật trong các sáng tác của
chị luôn ý thức đƣợc sự cô đơn, trống rỗng, nỗi bất an, cái ác trong đời sống
hiện đại. Thu Huệ đã mang tới một hình dung về sự hiện diện của một gƣơng
mặt đô thị mới trong lòng đô thị cũ đang không ngừng thoái triển.

16


Văn học sau chiến tranh đã bƣớc sang một quỹ đạo mới, với sự hình
thành một đội ngũ viết mới bên cạnh thế hệ cầm bút đã đi qua chiến tranh. Sự
thay đổi trong đời sống xã hội, ở đây là đời sống đô thị hiện đại đã góp phần
tạo nên những thay đổi trong đời sống văn học Việt Nam đƣơng đại. Mảng đề
tài về đô thị hiện đại có một lực hấp dẫn lớn đối với các nhà văn. Ngoài
Nguyễn Thị Thu Huệ, còn có tên tuổi của các nhà văn nhƣ Đỗ Phấn, Nguyễn

Huy Thiệp, Phong Điệp, Nguyễn Việt Hà… Trong xã hội đƣơng thời, hình
tƣợng con ngƣời cá nhân trong các sáng tác của các nhà văn thƣờng là những
con ngƣời cô đơn. Việc thể hiện con ngƣời cô đơn trong truyện ngắn đƣơng
đại không chỉ cho thấy sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của
nhà văn mà còn là sự thể hiện một tâm thế của con ngƣời hôm nay, những con
ngƣời đang sinh sống và làm việc tại các thành phố hiện đại, bị chi phối bởi
cuộc sống và hoàn cảnh. Có muôn hình vạn trạng nỗi cô đơn của con ngƣời
khi đối mặt với cuộc sống đô thị. Một nhân vật trong Huyền thoại phố phường
của Nguyễn Huy Thiệp đƣợc mô tả: “Hạnh sống cô đơn. Cuộc sống thành
phố với bao lạc thú gây nên nhiều mơ ước. Nhưng Hạnh biết rất rõ những lạc
thú ấy chứa đầy cạm bẫy”. Nỗi cô đơn của những thực thể sống trong những
toà nhà cao ốc, cách biệt với con ngƣời và thế giới xung quanh: “Đến tận tầng
mười sáu. Ở trên tầng cao, sự cách biệt đã dần biến thành nỗi cô đơn gần
như tuyệt đối. Cách biệt với thành phố bên dưới. Cách biệt với phần còn lại
của toà nhà bên trên. Và cách biệt với ngay cả hàng xóm láng giềng là căn hộ
đối diện chung nhau có một hành lang tối” (Vu vơ ở lưng chừng trời – Đỗ
Phấn). Với Phong Điệp, nhân vật của chị thƣờng là những ngƣời trẻ, tạm cƣ
trong những căn phòng chật hẹp, với nhiều băn khoăn khi gia nhập đời sống
đô thị. Họ ý thức đƣợc giá trị và những mặt trái của đời sống họ đang tham
dự, một cuộc sống mà ở đó công việc luôn chiếm phần lớn quỹ thời gian của
họ: “Thường thường tám giờ tối mới rũ rượi về nhà. Ăn qua quýt một cái gì

17


đó rồi đổ vật ra giường, ngủ một mạch đến bảy giờ sáng hôm sau. Những
ham muốn đam, mê dần bị tước bỏ. Quay quắt mấy chốc đã cảm thấy mình
hết đời rồi. Chồng con bây giờ không còn là một cái gì quá cấp thiết” (Ngôi
nhà ngập tràn ánh nắng).
Nhƣ vậy có thể thấy đời sống đô thị với ý thức cá nhân, ý thức về bản

thể là một phƣơng diện đƣợc các cây bút truyện ngắn hƣớng tới.
1.2.2. Gia đình trong Thành phố đi vắng
Gia đình là một “tế bào” quan trọng của xã hội, là nơi trở về cuối cùng
của con ngƣời. Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, sự phát triển của đời sống
kinh tế, sự phong phú về đời sống văn hoá một mặt đã mang tới cho gia đình
hiện đại nhiều cơ hội, điều kiện tốt tạo nên nền tảng cho hạnh phúc gia đình
mặt khác cuộc sống đƣơng đại với bộn bề lo toan dƣờng nhƣ đang gây ra
những vết rạn nứt, những cơn sốc, những chia rẽ và có thể là khủng hoảng
trong đơn vị này. Con ngƣời chịu tác động từ nhiều phía: tình cảm, đạo đức,
lối sống dần bị suy thoái… Tất cả đã tạo nên bức tranh đa chiều về gia đình
hiện đại.
Trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945, các nhà văn hiện thực phê
phán cũng khai thác sự chông chênh, trắc trở của cuộc sống gia đình. Trong
các sáng tác của Nam Cao, số phận của gia đình Lão hạc, gia đình anh giáo
Thứ… đang đối mặt với cuộc sống nghèo đói, túng bấn nhƣng vẫn ấm tình
ngƣời. Hay trong sáng tác của Ngô Tất Tố, cái đói khổ đã chia năm sẻ bảy gia
đình chị Dậu nhƣng trong cái cay đắng ấy tình thƣơng, tình yêu, và hơi ấm gia
đình vẫn tồn tại, vẫn có chỗ đứng.
Đến với các trang viết của Thu Huệ, ta có thể thấy đƣợc chị đặc biết
quan tâm tới những vấn đề về cuộc sống của các gia đình hiện nay qua đó
muốn phản ánh hiện thực của đời sống hiện đại, mang tới cho bạn đọc những
cái nhìn đa chiều cùng những trăn trở về gia đình hiện đại trƣớc những thách

18


thức của thời cuộc – các cá nhân trong gia đình, sự biến đổi của gia đình cũng
nhƣ nhân cách con ngƣời trong hoàn cảnh mới.
Vẫn nhƣ trong các sáng tác trƣớc nhƣ Hậu thiên đường, Của để dành,
Tân cảng, Nước mắt đàn ông, Minu xinh đẹp, Một nửa cuộc đời… Thu Huệ

vẫn đề cập tới vấn đề ngoại tình, đi sâu phản ánh những rạn vỡ trong các quan
hệ đạo đức của các thành viên trong gia đình. Trong truyện Của Cha, của Con
những cành vạn niên thanh Thu Huệ viết về sự phản bội dẫn đến tan vỡ hạnh
phúc gia đình, hậu quả không chỉ để lại nỗi đau về tinh thần cho những ngƣời
đƣợc gọi là vợ, chồng mà ngƣời chịu thiệt thòi và đau khổ chính là những đứa
con khi lớn lên thiếu vắng tình yêu thƣơng của cha mẹ. Ngƣời Cha trong
truyện đã phản bội, đã không chung thuỷ với vợ, làm tan vỡ một gia đình
đáng lẽ ra rất hạnh phúc: “Cha đã phản bội Mẹ. Cha quan hệ với một người
đàn bà khác. Đúng khi Mẹ đang thành đạt nhất, Cha chuẩn bị được thăng
chức thì người đàn bà kia mang tài liệu của Cha và cô ta, cùng cái bụng bầu
đến gặp Mẹ, đòi một số tiền lớn để cô ấy không tung toé mọi chuyện ra”
[12,258]. Rồi ngƣời Cha trong cuộc sống mƣu sinh đã bỏ quên cô con gái mỗi
ngày lớn lên trong sự thiếu vắng tình thƣơng của ngƣời mẹ, sự quan tâm của
ngƣời cha. Để rồi con Gái mỗi ngày phải chứng kiến cảnh vợ chồng nhà hàng
xóm “yêu” nhau và rồi nó cũng bƣớc vào cuộc “khám phá” thế giới của ngƣời
lớn: “Lớn dần, nhiều chuyện không hiểu, không biết hỏi ai. Có thể Cha biết,
nhưng Con gái không thể cất lời. Có những bí mật Cha không bao giờ biết.
Nhiều đêm, Con gái đứng cứng người trong bóng tối, ướt sũng mồ hôi, tim
đập rầm rầm trong lồng ngực, hai bàn tay ngón nhỏ thon dài nắm chặt vào
cái gối hình con gấu, trừng trừng nhìn vợ chồng nhà hàng xóm làm chuyện
người lớn” [12,254] và trở thành miếng mồi ngon của gã hàng xóm: “Một
đêm, Con gái hỏi Hàng xóm “Mai Cha em ra viện. Phải làm thế nào đây”.
Hàng xóm nằm ngửa, nhìn cánh quạt trần tròn quay cà rẹc cà rẹc do khô dầu,

19


vắt cái chân chắc nịch, ngắn ngắn trơn bóng lên bụng phẳng thiếu nữ của
Con gái, im lặng” [12,260]. Nhƣ vậy nỗi đau nào là lớn nhất trong cuộc đời
của Cha, của Con hay tất cả cũng chỉ là những mảnh ghép rã rời nhƣ cách Cha

đã gắn lá giả cho những cành vạn niên thanh?
Đến với truyện Sống gửi thác về ta có thể thấy đƣợc trong lòng một xã
hội hiện đại nhộn nhịp, náo nhiệt ấy lại là một gia đình luôn sợ những cái xấu,
cái ác rình rập để rồi sống một cuộc sống khép kín, tách biệt với bên ngoài:
“Dương gia nhập hộ khẩu, ngôi nhà nhỏ thành luôn một thế giới” [12,38],
“Trong lúc nhai thịt rán và uống nước cam, nó được ra đường. Đấy là nơi
duy nhất được thư giãn với điều kiện là có mẹ đứng cạnh” [12,40], “Nó chưa
bao giờ được ra đường cách nhà mười mét nếu không có mẹ hoặc bố đi kèm.
Cũng chỉ được chơi trò ném ống bơ với lũ trẻ con nếu hôm đó nó lớn nhất
hội. Không thể chơi khi có đứa lớn hơn. Chả may nện vào thằng bé thì Luyến
đau lòng đứt ruột chết mất” [12,43]. Hơn thế nữa cái gia đình nhỏ bé ấy còn
dần mất đi tình thân, con ngƣời thờ ơ, lạnh nhạt với nhau, mất đi sợi dây kết
nối, chỉ với những đồng tiền là có thể cắt đứt mối quan hệ với chính ruột thịt
của mình: “Chỉ còn một cách duy nhất, hèn nhất, là cho tí tiền. Cho mày làm
vốn. Rồi mày và tao chia tay. Kết quả của chuyện không ai được chết mà phải
tất cả cùng sống, là 10 nghìn USD” [12,50], “Ông bố ngoại giao mắt mũi cân
đối như lai người Hy Lạp sau khi chi 10 nghìn USD, tâm thế thanh nhàn. Giải
quyết được biết bao day dứt, ân hận trong lòng. Đúng là không gì xoa dịu vết
thương tinh thần nhanh bằng bỏ ra một nắm tiền” [12,53], “Luyến chết, hai bố
con thằng Dương quan hệ với bà ngoại như hàng xóm thân” [12,59], “Hai bố
con từ ngày Luyến chết, mất luôn quan hệ cha con kính trọng lễ nghĩa,
chuyển thành hai thằng đàn ông trong một nhà. Bố đứng bấm máy giặt gọi
ra: “Ông còn cái gì thì ném hết vào đây, tôi quay một thể”. Con dọn bát ăn
cơm, cầm chai rượu làng Vân sóng sánh cặn bên dưới, hỏi không ngẩng mặt:

20


×