Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận TRIẾT học tây âu THỜI PHỤC HƯNG và cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.14 KB, 30 trang )

TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI
1. Đặc điểm Triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại
Đặc điểm Triết học Tây Âu thời phục hưng thế kỷ XV - XVI
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội
phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện trên
tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này.
Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ
và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã. Nhiều công trường thủ
công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác, thay
thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển.
Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa học,
kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với việc sáng chế ra
máy kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt phát
triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho
con người có thể sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động.
Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, phát hiện ra châu
Mỹ... càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng; giao lưu
quốc tế được tăng cường, nhờ đó mà các nước phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây
Ban Nha... thi nhau xâm chiếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thiên nhiên và thị
trường tiêu thụ hàng hoá.
Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội
Tây Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện
gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn... Vai trò và vị trí
của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư
ra thành thị, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ tham gia
1


vào lực lượng lao động xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp
xã hội trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống


chế độ phong kiến đang suy tàn.
Các nhà triết học tiêu biểu thời kỳ này: Nicôlai Kuzan, Nicôlai Côpecnich,
Gioocđanô Brunô, Galilêô Galilê ;
Từ những thay đổi trên, triết học thời kỳ phục hưng có đặc điểm sau:
+ Trong thời đại Phục hưng, các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học duy
vật, vận dụng nó làm vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống lại
giai cấp phong kiến và giáo hội. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ
nghĩa duy tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn
giáo, tri thức thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Cuối cùng, sự
chuyên chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ đã không
ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết học duy vật tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong các thế
kỷ tiếp theo.
Nổi trội là thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich, ông đã đứng trên lập trường
của triết học duy vật chứng minh rằng mặt trời là trung tâm của vũ trụ, và các hành
tinh khác di chuyển xung quanh mặt trời để bác bỏ thuyết địa tâm do Ptôlêmê (người
Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một giả thuyết sai lầm coi quả đất đứng yên và là
trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich là “một
cuộc cách mạng trên trời”, báo trước một cuộc cách mạng trong lĩnh vực các quan hệ
xã hội sắp xảy ra.
+ Phiếm thần và tự nhiên thần là biểu hiện của sự thỏa hiệp với triết học duy tâm
hữu thần và cũng là tính hai mặt của các nhà triết học duy vật Tây âu thời kỳ phục
hưng.
Điển hình là Brunô, ông đã thống nhất triệt để Thượng đế vô hạn với giới tự nhiên
+ Con người trong triết học Tây Âu thời phục hưng là thước đo vẻ đẹp của thân
thể cường tráng, sự tinh anh của trí tuệ và chỉ biết thờ phụng chiêm ngưỡng chính
bản thân mình với một khát vọng cháy bỏng về tự do. Chủ nghĩa nhân văn kiểu chủ
2


nghĩa xã hội không tưởng là một trong những đặc điểm nổi bật của Triết học Tây Âu

thời phục hưng.
Như quan điểm không tưởng của Mô rơ, Căm panenla, họ mơ ước một xã hội
công bằng những không tìm được lực lương xã hội để thực hiện được lý tưởng ấy,
không thấy được lợi ích cá nhân trong hoạt động của con người
Đặc điểm Triết học Tây Âu thời cận đại
Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa học và tư
tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng với những đặc điểm mới.
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước
Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai cấp
phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách mạng tư sản
Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh (1642-1648); Cách mạng tư sản
Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được
xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó đã tạo ra những vận
hội mới cho khoa học, kỹ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó
cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển.
Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực
nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong
sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói đến vận
động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho
triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình.
Những triết gia tiêu biểu của thời kỳ này là: Phranxi Bê cơn, Rơ nê Đê các tơ, Giooc
giơ Bécơli, La Mettri, Đi đrô, hôn bách,…
Từ những thay đổi trên, triết học thời kỳ cận đại có đặc điểm sau:
+ Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại mang hình thức của chủ nghĩa duy
vật siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư
duy triết học và khoa học.
3



+ Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại có tiến bộ về lĩnh vực xã hội, nhưng
nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích lĩnh vực xã
hội và lịch sử.
+ Triết học Tây Âu thời cận đại đặc biệt quan tâm tới vấn đề nhận thức luận
và phương pháp luận. Trong nhận thức luận họ thường đề cao một trong hai giai đoạn
của quá trình nhận thức là cảm tính hoặc lý tính nên không thấy được tính biện
chứng, thống nhất của quá trình nhận thức. Về phương pháp thì tuyệt đối hóa một
trong hai phương pháp diễn giải hoặc quy nạp do chủ thể mà không do đối tượng hay
mục đích quyết định.
2. Một số triết gia tiêu biểu
2.1. Ph. Bê cơn (1561-1626):
2.1.1.Vài nét về tiểu sử:
Ph. Becon (Francis Becon , 22/01/1561- 09/4/1626) là nhà nghị luận, chính
khách, triết gia vĩ đại. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc ở London – Anh. Tốt
nghiệp đại học tổng hợp Kembrigiơ (Cambridge).
(Hình 1. Francis Becon )

Phụ thân ông là nhà quí tộc Nicholas Becon, trưởng quản của nữ hoàng
Elizabeth I. Trong khi làm nghị sĩ quốc hội, Nicholas chống chính sách thuế của nữ
hoàng nên sự nghiệp chính trị bị trục trặc. Mãi về sau, Nicholas mới được tái bổ
dụng, nhưng chỉ cho làm thành viên không chính thức của Hội đồng Luật gia.
Sự nghiệp chính trị của Francis Becon bắt đầu năm 1601. Ông được phong
Hiệp sĩ năm 1603, Trưởng quản năm 1617 và Chánh thẩm tòa án tối cao năm 1618.
4


Cùng năm đó, ông được phong Nam tước Verulam và ba năm sau, 1621, Tử tước St.
Albans. Nhưng vừa nhận tước Tử tước, F. Becon liền bị cáo giác nhận hối lộ khi làm
chánh thẩm - một tệ nạn thông dụng thời ấy. Ông nhận tội, bị phạt 40.000 bảng, loại
khỏi pháp đình, cấm tham chính và tống ngục Tower. Sự nghiệp chính trị của F.

Becon chấm dứt. Ông về hưu, dành trọn phần đời còn lại để viết.
Ðóng góp của F. Becon vào triết học chính là việc ông áp dụng phương pháp
qui nạp của khoa học hiện đại vào triết học, đối lập với phương pháp tiên nghiệm của
kinh viện học trung cổ. Ông thúc giục sự thẩm tra triệt để vào mọi trường hợp và
tránh việc đặt lý thuyết trên các dữ liệu không thỏa đáng. Nhiều người phê bình
Becon là quá máy móc, không thành công trong việc tiến hành những thẩm tra của
chính ông cho tới tận cùng luận lý của chúng, và không bắt kịp kiến thức đương thời.
Tới thế kỷ 19, Thomas Macaulay (1800-1859), sử gia và nhà nghị luận người
Anh, phát động phong trào phục hồi uy tín cho Becon như một nhà khoa học. Ngày
nay, những đóng góp của ông được đánh giá với lòng tôn kính đáng kể. Cuốn The
New Atlantis (Ðảo Atlantis mới, 1627) là một loại tưởng quốc Utopia khoa học. Các
chi tiết của nó được phần nào thực hiện bởi tổ chức Hiệp hội Hoàng gia năm 1660, ba
mươi tư năm sau khi tác giả qua đời
Các tác phẩm chính của F. Becon :
• Khái lược về đạo đức và chính trị
• Đại phục hồi các khoa học
• Công cụ mới
• Lịch sử sự sống và cái chết.
•…
2.1.2. Bản thể luận:
Francis Becon thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, vật chất
tồn tại vô hạn trong tính đa dạng, muôn vẻ của nó, F.Becon cho rằng để lý giải được
tính muôn màu muôn vẻ của thế giới, chỉ cần mỗi vật chất là đủ. Ông bác bỏ quan
niệm của Arixtốt (Aristoteles- nhà triết học Hy lạp cổ đại 384 – 322 TCN) rằng hình
thức của vật chất do con người sáng tạo ra.
Phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại, để giải thích thế giới, ông đã cải
biến thuyết bốn nguyên nhân của Aristoteles theo hướng duy vật, ông xoá bỏ nguyên
5



nhân mục đích của các sự vật và cho rằng mọi thứ trên thế gian chỉ tồn tại từ ba
nguyên nhân: hình dạng, vật chất và vận động. Khác với Aristoteles, ông coi hình
dạng của sự vật là cái nằm chính trong bản thân sự vật, là bản chất hoàn toàn khách
quan của nó; không thể có cái gọi là "hình dạng của hình dạng" phi vật chất, cũng
như "vật chất đầu tiên" phi hình dạng là không có thực; mọi "hình dạng" đều chỉ là
"hình dạng" của vật chất. Cả ba nguyên nhân "hình dạng", "vật chất" và "vận động",
thực chất đều là bản tính của vật chất. Vì thế vật chất có bản tính là tích cực, có sinh
khí chứ không phải thụ động.
F. Becon đã có bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và đương thời
khi quan niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động, giữa bản chất của sự
vật và vận động của nó, ông khẳng định vận động là đặc tính của sự vật. F. Becon
cho rằng nhận thức sự vật là nhận thức vận động của chúng. C.Mác (Karl Heinrich
Marx) và Ph.Ăngghen (Friedrich Engels) đã nhận xét: F. Becon đã hiểu rằng “trong
những đặc tính vốn có của vật chất, vận động là đặc tính thứ nhất và quan trọng nhất,
không phải chỉ với tính cách là máy móc và toán học mà hơn nữa còn với tính cách là
xu hướng, sức sống của vật chất".
F. Becon cũng chính là người đầu tiên khẳng định đứng im cũng là một hình
thức của vận động. F. Becon đã tìm cách phân loại các dạng vận động, theo ông có
19 dạng vận động:
• Vận động xung đối
• Vận động móc nối
• Vận động giải phóng mà thông qua đó sự vật hướng tới thoát khỏi áp lực
• Vận động, trong đó sự vật hướng tới khối lượng và kích thước mới
• Vận động liên tục
• Vận động có lợi
• Vận động tự hợp lại với quy mô lớn
• Vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ
• Vận động từ tính
• Vận động sản sinh ra
• Vận động chạy trốn

6


• Vận động thức tỉnh
• Vận động mô tả, ghi nhận
• Vận động ngoại tuyến
• Vận động theo xu hướng
• Vận động hùng tráng
• Vận động tự quay
• Vận động rung động
• Đứng yên.
Nhận xét:
+ Becon đã phân loại vận động theo cảm tính, mô tả, chưa biết phân loại theo
cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất, mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận
động thành các hình thức vận động cơ học; không thấy được sự phát triển của thế
giới vật chất đã dẫn đến xuất hiện những hình thức vận động khác nhau về chất, phù
hợp với trình độ cấu trúc của vật chất (vận động lý học, hóa học,…)
+ Tuy nhiên việc coi đứng yên là một dạng vận động ở F. Becon là một quan
niệm duy vật và cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi đó.
+ Becon là ông tổ nhen nhóm định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Ông
cũng là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
2.1.3. Nhận thức luận:
F. Becon cho rằng tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức. Do đó cần có một
khoa học mới lấy giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu, con người cần phải thống
trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Ông cho rằng: khoa học không biết một cái gì khác
ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tự nhiên.
Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, F. Becon đã
nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết học và sự cần thiết phải
đẩy mạnh sự phát triển của chúng như một nền tảng lý luận của công cuộc phát triển
kinh tế của đất nước. Ông coi đó là một phương tiện cơ bản nhằm xoá bỏ những bất

công xã hội, xây dựng cuộc sống phồn vinh. Khác với những nhà nhân đạo cộng sản
không tưởng, F. Becon khẳng định phải cải tạo chính xã hội hiện thực đương thời
7


trên cơ sở phát triển khoa học và triết học chứ không phải bằng cách tạo ra mô hình
lý tưởng. Ông cho rằng, mục đích của xã hội là nhận thức các nguyên nhân và mọi
sức mạnh bí ẩn của các sự vật và mở rộng sự thống trị của con người đối với giới tự
nhiên trong chừng mực con người có thể làm được.
Chịu ảnh hưởng của quan niệm trước đây coi triết học là khoa học của các khoa
học, F. Becon cho rằng nhiệm vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học, nghĩa là
phải cải tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó. F. Becon chỉ ra rằng
khoa học mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại chứ không riêng cho ai. Những quan
niệm giản đơn, hẹp hòi, coi khoa học như là một nghề thủ công có lãi chỉ làm cho
khoa học bị què quặt đi mà thôi. Bằng khoa học, con người tiếp cận với thế giới.
Ông cho rằng trong nhận thức phải biết hoài nghi, đừng vội tin, chỉ như vậy mới
tìm ra chân lý: Hoài nghi chỉ là cách thức để đạt tới chân lý.
Không có tri thức bẩm sinh, mọi cái đều bắt đầu từ kinh nghiệm thực tế. Theo
Becon, phương pháp nhận thức tốt nhất là thực nghiệm, quan sát, phân tích và quy
nạp. Từ phương diện triết học, Becon đã lý giải phương pháp thực nghiệm được sử
dụng rộng rãi thời đó trong khoa học tự nhiên và chuyển nó sang lĩnh vực triết học. F.
Becon là người sáng lập ra phương pháp quy nạp và logic học quy nạp.
Triết học duy vật của Becon phản bác chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, tuy sự
phản bác đó mới chỉ ở mức độ đòi khoa học và triết học độc lập với tôn giáo và thần
học; F. Becon thừa nhận thuyết "Hai chân lý", cho rằng khoa học và tôn giáo không
nên can thiệp vào thẩm quyền của nhau.
F.Becon phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện vì nó xa rời cuộc sống, chỉ dựa
vào những lập luận tuỳ tiện không có nội dung và chẳng đem lại lợi ích gì cho con
người. Theo Becon, triết học phải giúp con người trở nên mạnh hơn. Nhiệm vụ của
triết học là nhận thức giới tự nhiên và các mối liên hệ phức tạp của nó.

F.Becon là một trong những người đầu tiên nhận thức được hạn chế của tam
đoạn luận và của logic hình thức - cái mà từ trước đến bấy giờ vẫn được coi là
phương pháp nhận thức vạn năng, đồng thời ông là một trong những người khởi
xướng ra tư tưởng logic mới.
F.Becon liệt kê, phân tích những phương pháp nhận thức cơ bản đang được sử
dụng phổ biến để từ đó đưa ra một phương pháp nhận thức mới cao hơn.
8


Theo F.Becon, từ trước đến bấy giờ người ta chủ yếu dùng hai phương pháp
nhận thức là "phương pháp con nhện" và "phương pháp con kiến". Phương pháp con
nhện là phương pháp xuất phát từ vài bằng chứng và cứ liệu vụn vặt người ta đã vội
vã đưa ra các tiền đề và khẳng định một cách vô căn cứ về bản chất của sự vật.
Phương pháp đó chẳng khác gì con nhện chăng tơ, chỉ trong khoảnh khắc đã xong
nhưng không chắc chắn. Phương pháp con kiến là sự miêu tả, lượm lặt, sưu tầm từng
ít dữ kiện về sự vật, nhưng rốt cuộc chẳng biết khái quát, rút ra những kết luận đúng
đắn trên cơ sở những dữ kiện đó. Phương pháp này chỉ cho ta hiểu những nét bề
ngoài vụn vặt chứ không thể khám phá được bản chất đích thực của sự vật. Để khắc
phục những hạn chế nói trên, F.Becon đưa ra "phương pháp con ong" (chính là
phương pháp quy nạp). Bản chất của "phương pháp con ong" là từ những tri thức do
cảm tính đem lại chế biến chúng, như con ong biến mật hoa thành mật ong, rút ra
những tri thức mới bằng tư duy lý tính. F. Becon coi phương pháp quy nạp là phương
pháp nhận thức tối ưu, là chiếc la bàn của khoa học. Nhưng ông không thoả mãn với
những phương pháp quy nạp đã có (quy nạp đầy đủ, quy nạp không đầy đủ). Ông là
người đầu tiên khám phá ra phương pháp quy nạp loại trừ, tức phương pháp quy nạp
mà trong đó có phân tích, loại bỏ những dữ kiện phụ, đi đến khẳng định bản chất của
sự vật.
Về vai trò của phương pháp, Bacơn cho rằng “người què chạy đúng hướng sẽ
nhanh hơn kẻ lành chạy sai đường” hoặc “phương pháp giống như ngọn đèn soi
đường cho lữ khách trong đêm đông”.

Với hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan,
F.Becon đồng thời chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của con người,
những hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt và nhất thời, mà là
những sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của con người trong nhận thức.
Ông gọi chúng là các ảo ảnh hay “ngẫu tượng” (Idola theo tiếng cổ Hy Lạp nghĩa là
hình ảnh bị xuyên tạc). Để nhận thức chân lí và khắc phục được các ảo ảnh, thì phải
vạch ra cơ chế và bản chất của chúng. Do vậy, F.Becon coi học thuyết về các ảo ảnh
như phần mở đầu trong nhận thức và phương pháp luận của mình. Các ảo hoàn toàn
khách quan, bởi vì chúng một phần có trong bản chất của trí tuệ con người, một phần
xuất hiện trong quá trình lịch sử nhận thức của nhân loại, một phần nảy sinh trong
9


sinh lí và nhân cách của mỗi người. Theo Becon, "trí tuệ con người tự đặt ra chướng
ngại vật và cạm bẫy cho mình”. Vì các ảo ảnh thường xuyên ám ảnh con người, tạo
nên cho nó những tư tưởng và ảo ảnh giả dối, xuyên tạc bộ mặt thật của thế giới, nói
tóm lại, cản trở con người xâm nhập vào thế giới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu". Vì
vậy, quá trình con người đấu tranh khắc phục những hạn chế khách quan đó cũng là
quá trình con người đấu tranh vì sự hoàn thiện bản thân mình.
Becon phân loại các dạng ảo ảnh như sau:
+ Dạng ảo ảnh loài: nó sinh ra do việc loài người thường xuyên nhầm lẫn bản
chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật. Ai cũng dễ dàng gán cho sự
vật những đặc tính của riêng con người, F. Becon nói: "Các ảo ảnh loài có cơ sở
trong chính bản thân loài người, bởi vì thật là sai lầm khi khẳng định cảm giác cảm
tính của chúng ta là thước đo sự vật. Ngược lại, tất cả các giác quan cũng như trí tuệ
đều được dựa trên sự tương đồng của con người, chứ không phải dựa trên sự tương
đồng của thế giới. Trí tuệ con người cũng tương tự như chiếc gương méo, khi nó pha
trộn bản chất của mình với bản chất của sự vật thì nó phản ánh các sự vật dưới dạng
bị xuyên tạc, bóp méo". Sở dĩ có loại ảo ảnh này, theo Becon, là do các giác quan
cũng như trí tuệ của con người còn chưa được hoàn thiện. Một trong những biểu hiện

của ảo ảnh này là ở chỗ, người ta thường hay bảo thủ, coi ý kiến và suy nghĩ chủ
quan của mình là thước đo tất thảy mọi vật. Ảo ảnh loài do vậy rất bền vững. Chúng
ta chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng của ảo ảnh này bằng cách hoàn thiện các nhận thức
của con người như thực nghiệm v.v..
Để loại trừ ảo ảnh này, con người trong nhận thức phải tôn trọng tính khách
quan, không được duy ý chí, chủ quan áp đặt tư tưởng của mình cho các đối tượng,
thận trọng thăm dò, tăng cường quan sát, thực nghiệm, thường xuyên kiểm tra các tài
liệu do cảm tính mang lại, loại bỏ những sai lầm về mặt logic…
Việc F.Becon đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan là hợp lý.
Ông nhận xét đúng rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý chí trong hoạt động
của mình. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn cái chủ quan trong nhận
thức. Việc đòi hỏi nhận thức phải "khách quan thuần tuý" của ông là một điều không
tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích cực trong việc phê phán các quan niệm thần học
chủ quan kinh viện thời đó, vì sự tiến bộ của khoa học.
10


+Dạng ảo ảnh hang động: Ngoài những ảo ảnh đối với cả loài người, thì mỗi
người còn có các đặc tính chủ quan, tâm lí, tính cách đặc thù của mình làm xuyên tạc
bản chất khách quan của sự vật. Chúng còn xuất hiện do hoàn cảnh giáo dục của mỗi
người cũng khác nhau. Thực chất ảo ảnh hang động chính là ảo ảnh loài, nhưng biểu
hiện ở mỗi người cụ thể ở mức độ và hình thức khác nhau. Sở dĩ gọi là ảo ảnh hang
động vì mượn câu chuyện của Platôn về hang động, F.Becon ví trí tuệ của con người
như hang động méo mó của Platon, mà trong đó thể hiện cái bóng của các sự kiện
diễn ra bên ngoài.
Để hạn chế dạng ảo ảnh này, mỗi người cần phải hoàn thiện nhân cách của
mình, thận trọng trong quá trình nhận thức, dựa vào kinh nghiệm tập thể v.v..
Ảo ảnh này được gọi là hang động vì Bacơn xem trí tuệ của con người méo mó
như hang động của Platôn, cái ta cảm nhận được không phải là bản chất, chỉ là bản
sao giống như ảo ảnh tưởng rằng nhốt được mặt trăng vào trong chậu nước.

+Ảo ảnh thị trường: Nó xuất hiện do mọi người thường hay sùng bái, chạy
theo các quan điểm của ai đó có uy tín, hoặc ủng hộ những quan điểm phổ biến giáo
điều, các tập quán truyền thống, trong đó bên cạnh nhiều yếu tố tích cực, cũng chứa
đựng không ít những điều lạc hậu. Các ảo ảnh này còn xuất hiện do ngôn ngữ khoa
học của chúng ta đôi chỗ còn chưa thật chuẩn xác. Theo Becon, phải phải bỏ thói
quen dựa vào các quan niệm đang lưu hành và có thái dộ phê phán đối với các thuật
ngữ mơ hồ không chính xác. Ông cho rằng điều kiện được gọi là tri thức phải là tính
chính xác của khái niệm.
+Ảo ảnh sân khấu: Đó là những ảnh hưởng có hại của nhiều học thuyết, quan
niệm thống trị làm cản trở quá trình nhận thức chân lý. Phê phán tệ sùng bái cá nhân
của nhiều nhà khoa học thời đó, F.Becon khẳng định "chân lý là con gái của thời gian
chứ không phải của uy tín". Để tìm ra chân lý chúng ta không nên rơi vào chủ nghĩa
hoài nghi luận, nhưng cũng không nên giáo điều trong nhận thức.
Nhìn chung, việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ảo ảnh của F.Becon
còn mang nặng tính trực quan, chủ yếu xét ở khía cạnh nhận thức luận, vì vậy chưa
đưa ra được các giải pháp khắc phục ảo ảnh một cách hợp lý. Công lao của ông trong
học tuyết về ảo ảnh là ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề cơ sở xã hội của quá trình nhận
thức; ở chỗ khẳng định quá trình nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan, xem
11


xét với tinh thần phê phán, cách mạng chứ không giáo điều. Những tư tưởng đó có ý
nghĩa to lớn không chỉ đối với thời đại của ông mà còn đối với cả hiện nay.
Quan điểm của Francis Becon về con người và xã hội:
F. Becon coi con người là sản phẩm của tạo hoá, do vậy khoa học về con người
cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Aristoteles về con người, F.
Becon chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh hồn động vật", "linh
hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có cả ở thực vật và động vật.
Trong con người, linh hồn cảm tính là một dạng chất lỏng, pha loãng trong cơ thể.
Chúng vận động theo các dây thần kinh, tựa như các đường ống, tác động lên các

giác quan, điều khiển chức năng sống của cơ thể. Bộ phận linh hồn này có thể bị huỷ
hoại cùng cơ thể khi con người chết đi. Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế.
Đó là một khả năng kì diệu mà chúa đã ban cho con người, mang tính thần thánh. Vì
con người có cả hai dạng linh hồn nên con người vừa rất gần với động vật lại vừa có
cái gì đó siêu phàm, và do đó, bản chất con người không cho phép con người theo lập
trường hoàn toàn vô thần. Con người cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con
người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo mang lại cho con người niềm tin nhưng nhà thờ
không được phép dùng các biện pháp chống lại các nhà vô thần, không được cản trở
các hoạt động khoa học, nghệ thuật của con người.
Nhìn chung, quan niệm trên của F. Becon thể hiện sự thoả hiệp giai cấp tư sản
Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo.
2.1.4. Một vài nhận xét về F.Becon
F. Becon là một trong những triết gia vĩ đại, là ông tổ của chủ nghĩa duy vật
Anh và khoa học thực nghiệm (C. Mác).
Là người đầu tiên khám phá ra phương pháp quy nạp loại trừ.
Triết học duy vật của Becon đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của
khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của nhà thờ và giáo hội.
Về phương pháp luận, F. Becon là nhà duy cảm (mặc dù không cực đoan), thiên
về sự phát triển khoa học tự nhiên thực nghiệm; là người có công khởi xướng ra tư
tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống phương pháp luận mới, phù hợp với sự
phát triển của khoa học thời cận đại.
12


Tuy nhiên, Bêcơn chưa phải là nhà duy vật triệt để, vì bàn đến xã hội, ông thể
hiện sự không tưởng khi ông miêu tả một xã hội lý tưởng dồi dào về kinh tế, cuộc
sống được tổ chức trên những cơ sở của khoa học và kỹ thuật cao, nhưng vẫn duy trì
sự đối lập giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
2.2. Đecáctơ (1596- 1650):


2.2.1. Giới thiệu về Rơnê Decáctơ:
Decáctơ là nhà triết học, nhà bách khoa toàn thư vĩ đại người Pháp, đại biểu
điển hình của chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVII.
Decáctơ sinh ngày 31- 03 – 1596, ở thị trấn Lahaye xứ Touraine thuộc miền
nam nước Pháp trong một gia đình dòng dõi quý tộc lâu đời. Ông mồ côi mẹ từ nhỏ,
mười tuổi bắt đầu đi học ở trường dòng – trường của giáo hội, sau đó học luật sư.
Triết học Decáctơ bắt nguồn từ tư duy, triết học đề cao con người chứ không phải đặt
con người bên cạnh tự nhiên như Bêcơ, Hốpxơ. Ngoài triết học, tên tuổi Decáctơ gắn
liền với toán học, vật lý học, sinh vật học với những đóng góp quan trọng vào các
lĩnh vực này.
2.2.2. Bản thể luận:
+ “ Nghi ngờ phổ biến”:
Theo Decáctơ, triết học phải bàn về khả năng và phương pháp đạt dược tri thức
đúng đắng, vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của nó là khắc phục chủ nghĩa hoài nghi,và
sau đó là xây dựng các nguyên tắc, phương pháp nền tảng để giúp cho các nghành
khoa học khám phá ra các qui luật của giới tự nhiên, xây dựng các chân lý khoa học
nhằm chinh phục giới tự nhiên. Xây dựng các chân lý khoa học nhằm chinh phục giới
tự nhiên, phục vụ lợi ích con người. Như vậy, Decáctơ đã tự đặt cho mình nhiệm vụ
là phải xây dựng một triết học mới - triết học gắn liền với khoa học nhằm làm chủ tư
duy, nâng cao trình độ lý luận cho con người
Decáctơ cho rằng, để đạt được chân lý chúng ta cần phải nghi ngờ mọi cái, kể
cả cái mà người ta cho là chân lý.Với nguyên tắc nhgi ngờ trên, Đecáctơ đề cao tư
duy lý tính và coi thường kinh nghiệm, cảm tính trong hoạt động nhận thức; vì vậy,
ông đã đặt nền móng cho chủ nghĩa duy lý thời cận đại. Theo ông, mọi cái tồn tai chỉ
có thể trở thành chân lý khi chúng đuợc đưa ra phán xét dưới ”toà án” của lý tính
13


nhằm tự bào chữa cho sự tồn tại của mình. Nhgi ngờ phổ biến, vì vậy là cơ sờ
phương pháp luận của triết học Decáctơ.

+ “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”: Dù dựa trên nguyên tắc nghi ngờ phổ biến,
nhưng Decáctơ không đi đến chủ nghĩa hoài nghi mà bác bỏ nó và xây dựng nguyên
lý cơ bản của toàn bộ hệ thống siêu hình học duy lý của mình – nguyên lý “tôi suy
nghĩ, vậy tôi tồn tại”. Tư tưởng này bộc lộ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Decáctơ
vì ông đã lấy tư tưởng, lấy suy nhgĩ của chủ thể làm khởi điểm của sự tồn tại, nó đề
cao vai trò tích cực của con người đối với thế giới , xem con người là trung tâm của
các vấn đề triết học.Dựa vào nguyên lý trên, Decáctơ đã xây dựng toàn bộ hệ thống
siêu hình học của mình. Đối với ông, siêu hình học phải là học thuyết chặt chẽ về
Thượng đế, về giới tự nhiên và con người, để từ đó rút ra các nguyên tắc giúp chỉ đạo
hoạt động của con người - hoạt động nhận thức của linh hồn lý tính.
Lý luận về thượng đế, giới tự nhiên và con người:
Nội dung chủ yếu trong lý luận về Thượng đế là các chứng minh của ông về sự
tồn tại của Thượng đế. Theo ông, Thượng đế thực sự tồn tại, bởi vì mọi dân tộc, mọi
con người đều nhgĩ về Thượng đế. Hơn nữa, sự tồn tại của Thượng đế là cái đảm bảo
sự tòn tại chắc chắn của giới tự nhiên cũng như sự tồn tại của vạn vật sinh tồn trong
nó. Giới tự nhiên chỉ có thể được tạo thành từ hai thực thể tồn tại độc lập nhau: thực
thể tinh thần phi vật chất và thực thể vật chất phi tinh thần.Riêng con người là một
thực thể đặc biệt được tạo thành từ hai thưc thể trên, là bậc thang trung gian giữa
Thượng đế và hư vô.
Lý luận về linh hồn, nhận thức và phương pháp luận nhận thức:
Linh hồn con người không chỉ bao gồm lý trí mà còn có cà ý chí nữa.Lý trí mang lại
khả năngnhận thức sáng suốt, đúng đắn. Ý chí mang lại khả năng chọn lựa, phán
quyết. Chính do khả năng lớn của mình mà ý chí có khả năng dẫn dắt linh hồn sa vào
sai lầm.
Hoạt động bản chất của linh hồn là nhận thức, nhận thức, theo Decáctơ, là quá trình
linh hồn lý tính xâm nhập vào chính mình để khám phá ra tư tưởng bẩm sinh chứa
đựng trong mình và sử dụng chúng để tiếp cận hế giới.
Decáctơ xây dựng lý luận về vật chất và vận động.Vật chất bao gồm các hạt
nhỏ, mịn có thể phân chia đến vô cùng tận. Bản chất của vật chất là quãng tính.Vận
14



động của vật thể lả vận động cơ giới, nghĩa là sự thay đổi vị trí của vật thể trong
không gian, theo thời gian dưới sự chi phối bởi các định luật cơ học.
25.

Khoa học:

+ Vật lý học:
Decáctơ xây dựng lý luận về vật chất và vận động.Vật chất bao gồm các hạt nhỏ, mịn
có thể phân chia đến vôcùng tận. Bản chất của vật chất là quãng tính.Vận động của
vật thể lả vận động cơ giới, nghĩa là sự thay đổi vị trí của vật thể trong không gian,
theo thời gian dưới sự chi phối bởi các định luật cơ học.
+ Sinh học
Decáctơ phát triển tư tưởng duy vật máy móc về sự phụ thuộc của tinh thần (tâm lý)
vào cơ cấu vật chất, vào các cơ quan trong cơ thể.Từ đó, ông khẳng định sự hình
thành và phát triển của giới thực vật và giới động vật là quá trình hoàn toàn tự nhiên
không có sự can thiệp của Thượng đế.
+ Toán học:
Decáctơ có những tư tưởng biện chứng vượt thời đại. Decáctơ đã đặt nền móng cho
toán học hiện đại với việc tìm ra hình học giải tích, hàm số và phương pháp đồ thị.
2.2.3. Phương pháp luận
Có bốn nguyên tắc phương pháp luận nhận thức là:
1. Chỉ coi chân lý những gì rõ ràng, rành mạch, không gợn một chút nghi ngờ nào
cả (nhờ vào trực giác).
2. Phải phân chia đối tượng phức tạp thành các bộ phận đơn giản cấu thành để
tiện lợi trong việc nghiên cứu.
3. Quá trình nhận thức phải xuất phát từ những điều đơn giản, sơ đẳng nhất dần
dần đến những điều phức tạp hơn.
4. Phải xem xét toàn diện mọi dữ kiện, tài liệu để không bỏ sót một cái gì trong

quá trình nhận thức.
2.2.4. Tiến bộ
+ Tư tưởng tiến bộ nhất trong hệ thống triết học Decáctơ là niềm tin vô tận vào
lý trí, khoa học và nhữngphươngpháp mới. Với niềm tin ấy, ông tỏ rõ thái độ chán
ghét những cuộc cãi vã viển vông và sai lầm của các môn phái cũ. ông muốn triết học
phải rõ ràng và xác thực. Do chưa phân biệt rõ triết học với các khoa học khác như
chúng ta ngày nay nên ông chủ trương xây dựng một phương pháp chung cho tất cả
các lĩnh vực hoạt động của trí tuệ.
+ Tư tưởng tiến bộ thứ hai mà Decáctơ các to để lại cho đời sau là những nguyên
tắc cơ bản của phương pháp. Sau Bêcơn, Decáctơ đã tìm cách xây dựng một hệ thống
15


phương pháp luận mới làm nền tảng cho sự phát triển của khoa học. Ông chủ trương
xây dựng môn "logic dạy cách vận dụng lý tính một cách tốt nhất nhằm nhận thức
những chân lý" mà con người còn chưa tìm ra. Đặc biệt đề cao vai trò của lý tính,
phương pháp luận của ông hướng tới hoàn thiện và phát triển khả năng trí tuệ của con
người, thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển. ông cho rằng một ai đó "dù đi rất
chậm, nhưng nếu anh ta đi đường thẳng, vẫn có thể vượt xa so với những ai mặc dù
chạy nhưng lai không đi theo con đường thẳng ấy"
+ Tin ở lý trí, lại biết dùng lý trí đó nên trong siêu hình học Decáctơ, người ta đã
tìm thấy một tư tưởng tiến bộ - đó là quan niệm của ông về vật chất. Ông cho rằng
cái vật chất đã vượt ra ngoài phạm vi của cái tâm lý. Song, vì chưa thoát ra khỏi ảnh
hưởng của tôn giáo, chưa dám và cũng không thể bác bỏ những giáo lý trong Kinh
thánh để nói rằng cái vật chất có ảnh hưởng đến cái tinh thần, quyết định cái tinh
thần, nên ông chỉ mới phân biệt linh hồn với thể xác. ông cho rằng thế giới vật chất là
một thế giới riêng biệt và nó chỉ tuân theo những luật của vật chất, và do vậy, nhưng
ai muốn nghiên cứu vũ trụ thì cần phải rời bỏ hết những thành kiến của linh hồn.
2.3.Giooc Beccơli (George berkeley)
2.3.1. Vài nét chung:

Béccơli là nhà triết học nổi tiếng người Anh, đại biểu điển hình của chủ nghĩa
duy tâm chủ quan. Ông say mê nghiên cứu thần học, toán học, triết học cho đến cuối
đời. Ông có nhiều tác phẩm như Kinh nghiệm của thuyết thị giác mới (1709), Khái
niệm về các nguyên lý của nhận thức con người (1710)...
2.3.2. Nhận thức luận
Từ chỗ khẳng định nguồn gốc hoàn toàn chủ quan của mọi sự vật trong thế giới,
coi toàn bộ thế giới chỉ là tổ hợp các cảm giác của con người, G.Beccơli cho rằng
linh hồn là cái quyết định quá trình nhận thức. Linh hồn chỉ tồn tại khi nó cảm nhận
các sự vật khác, và cũng chỉ khi nó bắt đầu cảm nhận thì chúng ta mới có được tri
giác về sự vật.
G.Beccơli đề cao cảm giác, đồng nhất toàn bộ các ý niệm của con người với các
cảm giác. Các khái niệm trừu tượng chỉ là kết quả so sánh và phân tích các cảm giác.
16


Mặc dù các ý niệm, tức các cảm giác, tồn tại trong linh hồn nhưng chúng khác với
linh hồn, bởi vì linh hồn là cơ chất và nền tảng “nuôi dưỡng” các ý niệm, cảm giác.
Theo G.Beccơli, chân lý là sự phù hợp giữa sự suy diễn của con người về sự vật
với chính bản thân sự vật đó tồn tại trên thực tế. Tuy nhiên, ông phủ nhận sự tồn tại
khách quan của chân lý. Tri thức được coi là đúng khi nó thỏa mãn một trong những
tiêu chuẩn sau:
• Tính rõ ràng của các tri giác cảm tính;
• Tính đồng thời của các tri giác gần như là giống nhau ở một vài người;
• Sự tương đồng của nhiểu cảm giác với nhau.
• Tính đơn giản và dễ hiểu
• Sự phù hợp với ý chúa và tuân theo ý chúa.
Trong tất cả các trên thì tiêu chuẩn phù hợp với ý chúa là quan trọng nhất và đáng tin
cậy nhất.
2.3.3. Bản thể luận
G.Beccơli thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳng định ý thức

quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào cảm giác,
ý thức.
G.Beccơli là người đi theo khuynh hướng chủ nghĩa duy tâm chủ quan:
thừa nhận ý thức tồn tại trong trí óc của con người. Chính tư duy, cảm giác của
con người sinh ra sự vật. Beccơli nói: "khi tôi không suy nghĩ vẫn còn người
khác suy nghĩ. Khi không có ai suy nghĩ vẫn còn thượng đế suy nghĩ. Thế giới
không bao giờ mất đi". Ông đã chuyển dần sang duy ngã.
2.3.4. Nhận xét về tư tưởng triết học Beccơli
• Thể hiện tính chất phức tạp trong việc đi tìm con đường hợp lý cho triết học trong
điều kiện sự phát triển của khoa học cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII:
17


• Chủ nghĩa duy tâm khách quan đã đưa triết học Beccli đến chủ nghĩa duy ngã, đến
chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của của sự vật: ngoài cá nhân “Tôi” ra không còn
gì cả, tất cả mọi sự vật họp thành vũ trụ đều phụ thuộc vào tri giác của “Tôi”, nếu
“Tôi” không tri giác hay cảm giác thì chúng không tồn tại.
• Cố sức tránh chủ nghĩa duy ngã, Beccli chuyển sang lập trường duy tâm khách
quan khi cho rằng ngoài sự tồn tại của cá nhân “Tôi” và sự tồn tại của những “tinh
thần” của người khác còn có “một tinh thần vĩnh viễn” là Thượng đế; mọi vật trong
vũ trụ, sở dĩ tồn tại vì chúng được Thượng đế tri giác.
• Là sự phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đã giành được chính quyền, rất sợ
những tư tưởng tiến bộ, cách mạng: Beccli sử dụng phép siêu hình, chủ nghĩa cơ giới
để chống lại những tư tưởng tiến bộ trong khoa học (như chống lại quan niệm của
Niu-tơn về không gian như bể chứa những vật thể tự nhiên, chống lại quan điểm của
Lốc-cơ về nguồn gốc của khái niệm vật chất và không gian).
2.4. Brutxo (1712-1778)
2.4.1. Vài nét về Brutxo:
Giănggiăc Brutxo (1712 – 1778): ông là người Pháp, là nhà triết học duy vật biện
chứng, chủ yếu bàn về xã hội.Triết học của ông được gọi là triết học xã hội.

Về thế giới quan, Brutxo theo thần luận và nhị nguyên luận. Ông thừa nhận sự tồn tại
của thần linh, linh hồn bất tử.
Về xã hội, tuy theo thần luận, nhưng với tư cách là nhà xã hội học, ông có lập trường
cấp tiến.
2.4.2.Quan điểm về bản chất và quá trình phát triển của xã hội:
1. Lịch sử loài người chính là kết quả hoạt động của con người. Quan niệm này đúng.
2. Bản tính của con người là tự do nhưng khát vọng tự do của con người luôn bị kìm
hãm, nguyên nhân la do sự bất bình đẳng trong xã hội (quan điểm đúng). Nguyên
nhân dẫn tới bất bình đẳng là:
+ Do thể chế chính trị xã hội: Do sở hữu tư nhân về TLSX và ông cho rằng cái
này có thể khắc phục được.
+ Con người vốn có sự khác nhau về thể lực và trí tuệ, sự bất bình đẳng này là tự
nhiên, sự bất bình đẳng này là đương nhiên. Quan điểm này đúng, giá trị
18


3. Lịch sử loài người là quá trình liên tục giải quyết mâu thuẫn và nảy sinh, là sự thay
thế liên tiếp của hình thái cao đối với hình thái thấp ( biện chứng). Ông chia xã hội
loài người thành 3 giai đoạn:
3.1.Trạng thái tự nhiên:
+ Các quan hệ XH còn thuần khiết, chưa có sự khác biệt nhiều về địa vị kinh
tế, địa vị xã hội.
+ Các quan hệ xã hội thuần khiết, chưa phức tạp.
+ Đây là thời kỳ bình yên, dài lâu và hạnh phúc nhất. Đến cuối thời kỳ này,
hình thành sở hữu tư nhân, tuy nhiên không thể tồn tại hình thức này mãi được
3.2. Xã hội công dân:
+ Sự bất bình đẳng trong xã hội phát triển do xuất hiện sở hữu tư nhân, hình
thành kẻ giầu người nghèo.
+ Chiến tranh gia tăng
+ Nhà nước xuất hiện trên cơ sở khế ước xã hội (thỏa thuận) do nhân dân lập

ra tự phát (quan điểm của Rutxo khác với Mác: Nhà nước do giai cấp chủ nô lập ra),
về sau nhà nước bị tha hóa và quay lại thống trị nhân dân.
+ Các đạo luật ra đời truớc hết là luật sở hữu (trói buộc kẻ yếu, đem lại sức
mạnh cho kẻ mạnh. Quan điểm này mang tính giai cấp)
+ Không thể tồn tại mãi được, dựa trên chế độ tư hữu – chế độ thúc đẩy xã hội
phát triển nhưng biến con người thành bạo chúa của nhau và của tự nhiên.
3.3.Trạng thái tự nhiên trên cơ sở cao hơn:
+ Về mặt chính trị: thiết lập nền dân chủ cộng hòa
+ Về mặt xã hội: sự bất công trong xã hội được khắc phục, hạn chế.
+ Về mặt kinh tế: sở hữu xã hội là chủ yếu, nhưng vẫn duy trì sở hữu cá nhân ở
mức vừa phải (sao cho không tạo ra sự đối lập giữa các giai tầng, đẳng cấp đồng thời
tạo ra sự cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của xã hội). Quan điểm này giá trị.
4. Ông cho rằng:
+ Một xã hội tiến bộ và ưu việt phải tạo điều kiện thúc đẩy cho khoa học và
nghệ thuật phát triển (quan điểm giá trị), bên cạnh đó phải dân chủ hóa đời sống xã
hội.
19


+ Điều kiện tự nhiên, đặc biệt là khí hậu ảnh hưởng trực tiếp tới thể chế chính
trị (Đây là mặt hạn chế của Rutxo)
Ôn đới  thể chế ôn hòa
Khí hậu nóng -> thể chế chuyên quyền
Do Rutxo theo chủ nghĩa cảm giác, nghĩa là ông thừa nhận cảm giác là nguồn gốc
nhận thức.
2.4.3. Tiến bộ:
Brutxo có lập trường cấp tiến: ông cho rằng một xã hội tiến bộ và ưu việt phải
tạo điều kiện cho khoa học và nghệ thuật phát triển.
Trong cuốn “ Khế ước xã hội”, ông phản ánh hoài bão của cách mạng tư sản về
tự do, bình đẳng, về các quyền của con người và công dân. Ông cho rằng trong “trạng

thái tự nhiên” của xã hội, quan hệ giữa người với người ngự trị một tình hữu ái, tình
hoà hợp, kh ông có chiến tranh xáy ra. Để duy trì trật tự xã hội, theo Brutxo phải có
một nhà nước được xây dựng trên ý muốn tự giác, trên cơ sở hiệp thương của mọi
người, thừa nhận nhân dân được nắm chính quyền, bảo vệ dân chủ tư sản. Mô hình
lý tưởng về nhà nuớc trên cơ sở khế ước xã hội phục vụ con người của ông có nhiều
tiến bộ, song ông chưa thấy được xã hội có giai cấp.
2.5. Giuyliêng Ophrêđơ Lametri:
2.5.1. Vài nét chung:
Julien Offray de La Mettrie (1709-1751) là nhà triết học duy vật người Pháp
tiêu biểu của thế kỷ XVIII. La Mettrie có một vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị
về tư tưởng cho Cách mạng tư sản Pháp. Ông phản đối Laibnit G. V. (G. W.
Leibniz), cho Laibnit là đã "tâm linh hoá vật chất". Ông cũng phản đối những người
theo học thuyết Đêcac R. (R. Descartes) vì đã phân biệt linh hồn với cơ thể. Theo La
Mettrie thì các nhà triết học trước đó đã mắc sai lầm khi luận giải về con người. Ông
đã dùng tư tưởng động vật - máy của Đêcac và mở rộng tư tưởng đó sang con người,
coi cơ thể con người như cỗ máy tự khởi động giống như máy đồng hồ. Mặt khác,
phát triển cảm giác luận của Lôckơ J. (J. Locke), La Mettrie cho rằng tư duy cũng là
một đặc tính của vật chất.
20


Từ quan điểm đó, La Mettrie đã đấu tranh kiên quyết chống quan niệm duy
tâm về linh hồn. Theo ông, linh hồn là năng lực cảm giác và suy nghĩ của con người,
trên cơ sở vật chất của con người. Mặc dù có những tư tưởng duy vật về giới tự
nhiên, về con người, La Mettrie lại có những quan điểm duy tâm về các hiện tượng
xã hội. Vd. ông cho rằng lợi ích của mọi người phụ thuộc vào các tư tưởng thống trị;
La Mettrie tin tưởng vào "vị minh quân" để bảo đảm sự thịnh vượng của xã hội, và
cho rằng giáo dục có ý nghĩa quyết định đối với xã hội và con người. Những tác
phẩm chủ yếu: "Lịch sử tự nhiên của linh hồn" (1745), "Người - máy" (1748), "Thần
vệ nữ siêu hình" (1752).

Vậy, cơ sở triết học của ông là vật lý học của Decácto và chủ nghĩa cảm giác
của Locxo.
2.5.2. Bản thể luận:
Lametri coi Thế giới là thực thể vật chất.
+ Thực thể vật chất là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, con người. Thực thể
vật chất có quảng tính, chứa đựng 1 lực lượng làm nó sống động và là nguyên nhân
trực tiếp của mọi quy luật vận động, có năng lực cảm giác. Năng lực cảm giác chỉ
xuất hiện ở các vật thể có tổ chức đặc biệt – đó là giới sinh vật.
+ Hình thức biểu hiện của thực thể vật chất là giới vô cơ, giới thực vật và giới
động vật; giữa các hình thức đó không có sự khác nhau về chất. Con người thuộc giới
động vật, suy nghĩ nhờ các giác quan. Mọi tư tưởng của con người chịu sự quy định
của cấu trúc cơ thể trong sự tác động qua lại với môi trường và điều kiện sống. Ông
cho rằng con người là cái máy phức tạp nên không thể có được 1 ý tưởng rõ ràng về
nó, không thể đưa ra được 1 định nghĩa chính xác về con người.
2.5.3. Nhận thức luận:
+ Ông coi tư duy chỉ có ở con người, tư duy là sản phẩm của tổ chức vật chất phức
tạp. Tư duy được bắt đầu từ cảm giác đến tư duy trừu tượng bao gồm phán đoán và
suy lý. Tuy có những yếu tố biện chứng trong lý luận nhận thức, nhưng do ảnh hưởng
của chủ nghĩa duy vật máy móc, cho nên từ quan niệm về con người, đến nhận thức
của con người vẫn mang tính trực quan siêu hình.
+ Về xã hội, Lametri chủ trương thực hiện quyền sở hữu tư sản, thực hiện quản lý
theo pháp luật, bảo đảm quyền tự do chính trị và quyền công dân. Do lẫn lộn quan
21


niệm về tự do con người với tự do tư hữu, ông cho rằng người nghèo chỉ cần tôn
giáo, không cần tự do.
2.5.4. Tiến bộ:
Lametri là người xây dựng nên ngành khoa học nhận thức và có tư tưởng khai
sáng, chủ trương phát triển giáo dục để truyền bá tư tưởng tiến bộ cho con người

nhằm phát triển xã hội.
2.6. Điđrô (1713-1784)
2.6.1. Vài nét chung:
Đơni Điđrô (1713-1784) là một nhà văn, nhà triết học và cũng là chủ biên, tổ
chức biên soạn cuốn Bách khoa toàn thư. Cuốn sách ghi lại hầu như toàn bộ những
thành tựu của thời kỳ khai sáng mang nhiều tư tưởng tiến bộ. Đ.Điđrô là một nhà triết
học duy vật, vô thần và duy lý sắc sảo. Ông đã có nhiều tư tưởng triết học tiến bộ, có
giá trị tới ngày nay. Một số tác phẩm triết học tiêu biểu như:
o Về việc giải thích giới tự nhiên (1754)
o Cuộc hội kiến của d’alembert với Đ.Điđrô (1769)
o Giấc mộng của D’alembert (1769)
o Những nguyên tắc của vật chất và vận động (1770)
2.6.2. Nhận thức luận:
Ông thể hiện rõ quan điểm duy vật và vô thần của mình.
+ Đ.Điđrô thừa nhận khả năng nhận thức về thế giới của con người. Ông phê phán
quan điểm máy móc coi cảm giác của con người là những bản sao chép các sự vật
chính xác như sự sao chép của một tấm gương. Ông cho rằng nhận thức bắt nguồn từ
cảm giác và vật chất là nguyên nhân duy nhất của cảm giác.
+ Khả năng nhận thức của môi trường là hữu hạn nhưng của cả loài người là vô hạn.
1. Đ.Điđrô đứng trên lập trường duy vật phê phán
tính duy lý chủ quan, tính tự biện và quan niệm coi triết
học là khoa học của các khoa học.
2. Theo Đ.Điđrô tư duy bắt nguôn từ cảm tính, tri
thức bắt nguồn từ kinh nghiệm. Ông nói : “Có ba
nguyên tắc để đạt được tri thức... quan sát tự nhiên, suy
ngẫm và thử nghiệm. Quan sát thu thập thực tế; suy
ngẫm kết hợp chúng; thử nghiệm xác minh kết quả kết
hợp đó.
22



3. Là một người theo chủ nghĩa vô thần, Đ.Điđrô phủ nhận quan điểm duy tâm về
Thượng đế. Ông khẳng định tính vật chất của thế giới và “Sự vận động là hoàn toàn
mang tính vật chất, nghĩa là nó tự vận động mà không cần đến một xung động thần
thánh nào cả”. Từ đó, mặc nhiên ông phủ nhận vai trò của lực lượng siêu nhiên hay
Thượng đế. Thượng đế là sự thần thánh hóa cuộc sống hiện thực của con người. Vì
vậy, không phải lực lượng siêu nhiên mà đại diện cho nó là tôn giáo tạo ra con người
mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo.
Điều này cũng có nghĩa nguồn gốc tôn giáo của đạo đức con người cũng bị bác
bỏ. Ông cho rằng tôn giáo làm con người ảo tưởng về những điều không thực và làm
họ mềm yếu đi. Đạo đức của tôn giáo là giáo dục con người tin vào số phận đã định
trước và nó là một sợi dây yếu ớt để ngăn cản những hành vi phạm tội của con người.
Theo ông, chính cuộc sống hiện thực với môi trường và hoàn cảnh đã tạo nên trí tuệ
và đạo đức của con người.
2.6.3. Bản thể luận:
Đ.Điđrô có quan điểm duy vật, vô thần và duy lý rõ nét. Điểm xuất phát của
quan điểm này là sự thừa nhận tính vật chất của thế giới với câu danh ngôn “Nếu
muốn tôi tin vào Chúa, hãy để tôi chạm vào ông ta”.
+ Quan điểm về thế giới
Ông Cho rằng: Thế giới vật chất có trước con người, tồn tại khác quan. Nguyên nhân
tồn tại của thế giới vật chất nằm ngay trong bản thân nó.
Vạn vật được cấu tạo từ phân tử, vạn vật đa dạng là do câc phân tử liên kết với
các hình thức khác nhau.
Vật chất và vận động thống nhất với nhau, không tách rời nhau, bản tính cố hữu
của vật chất là vận động. Chính vận động là năng lực sống động của vật chất. Ông
quan niệm sự dịch chuyển của vật thể từ vị trí này sang vị trí khác không phải là vận
động mà chỉ là sự di động, còn vận động thì có cả ở vật đang vận động lẫn vật đứng
yên, nguyên nhân của vận động là lực nội tâm trong mỗi phân tử. Ông khẳng định,
trong quá trình vận động và phát triển, giới tự nhiên sẽ chọn lọc mhững gì giúp cho
nó ngày càng hoàn thiện, đồng thời đào thải những vật nào không thích nghi hoặc

không tuân theo quy luật của nó. Cấu trúc và trạng thái của các sinh vật là kết quả
của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên Thế giới vật chất: Từ phân tử trơ ì 
phân tử sinh động  vi sinh vật  thực vật động vật  con người.
+ Quan niệm về con người
23


Đ.Điđrô cho rằng con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn. Thể xác và
linh hồn thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn không có nguồn gốc từ chúa mà là
một tổng thể các hiện tượng tâm lý, là kết quả của sự phức tạp hóa vật chất hữu cơ,
linh hồn phụ thuộc vào vật chất và bộ não con người.:
2.6.4. Tiến bộ
Đ.Điđrô đã đi từ chủ nghĩa duy tâm tới chủ nghĩa duy vật, ông là người góp
phần vào triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, là cơ sở cho cách mạng tư sản Pháp
năm 1789, là mốc đánh dấu sự sụp đổ của chế độ phong kiến đồng thời đó cũng là
mốc Tây Âu bắt đầu từ giã nền văn minh nông nghiệp bước sang nền văn minh công
nghiệp.
Những điểm tiến bộ trong Triết học của Đ.Điđrô đó chính là chủ nghĩa duy vật
thể hiện khá rõ nét ở nội dung về tự nhiên, tâm lý học và lý luận nhận thức:
Về giới tự nhiên, ông cho rằng vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, ở trạng
thái động, về sau chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng khẳng định thế giới vật chất tồn
tại khách quan. Đ.Điđrô cũng đã đưa ra một số yếu tố của phép biện chứng vào quan
niệm duy vật máy móc về tự nhiên. Đó là tư tưởng về mối liên hệ giữa vật chất và
vận động, về những quá trình đang diễn ra trong giới tự nhiên, về sự biến đổi vĩnh
viễn của những hình thức tự nhiên. Ông coi bản tính cố hữu của vật chất là vận động.
Về tâm lý học, Đ.Điđrô cho rằng con người là một thực thể thống nhất hữu cơ
của hai mặt thể xác và linh hồn. Cơ thể con người có khả năng cảm giác và ghi nhớ.
Linh hồn của con người là tổng thể các hiện tượng tâm lý, nó có đặc tính vật chất.
Không có cơ thể thì linh hồn không là cái gì cả. Đây là quan điểm sơ khai của ông về
ý thức con người, với vai trò vật chất sẽ quyết định ý thức.

Về lý luận nhận thức, Đ.Điđrô đã đứng trên lập trường duy vật phê phán sự
hạn chế của siêu hình học thế kỷ XVII về tính duy lý cực đoan, về tính tự biện, về
quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học. Ông cũng đã bác bỏ quan điểm
duy tâm về tính tự sinh của tư duy. Mặt khác, ông phê phán quan điểm máy móc coi
cảm giác của con người là những bản sao chép các sự vật chính xác như sự sao chép
của một tấm gương. Ông cho rằng trong nhận thức, tư duy của con người bắt nguồn
từ cảm tính, tri thức bắt nguồn từ kinh nghiệm. Cùng với quan điểm vô thần, ông cho
24


rằng không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà chính con người sáng tạo ra tôn
giáo.
2.7. Hôn Bách (1723-1789)
2.7.1. Giới thiệu về Hôn bách và những tiến bộ của ông.
Pôn Hăngri Hôn Bách (1723-1789) – một trong những nhà duy vật nổi tiếng của
Châu Âu thế kỷ XVIII, người khởi xướng phong trào khai sáng Pháp, một trong
những chủ biên cuốn Bách khoa toàn thư đầu tiên trên thế giới. Trong suốt cuộc đời
sáng tạo khoa học của mình, người chiến sĩ kiên cường trên mặt trận tư tưởng của
cách mạng tư sản Pháp đã không mệt mỏi tuyên chiến với những giáo điều tôn giáo,
với những giáo luật khắt khe của Giáo hội và những cấm kỵ vô lý của Nhà thê nhằm
giải phóng con người khỏi những định kiến sai lầm của xã hội, khỏi những ràng buộc
hư ảo của thánh thần, đưa nhân loại đến bến bờ chân lý, tiếp thêm sức mạnh cho họ
phấn đấu không mệt mỏi vì hạnh phúc đích thực ở chốn trần gian.
2.7.2. Nhận thức luận:
Dựa trên cơ sở khảo sát tâm lý chung, Hôn Bách cho rằng, chính nỗi sợ hãi
của con người trước những hiện tượng mù quáng, dữ tợn, nguy hiểm, lạ lung của tự
nhiên đã đẻ ra niềm tin vào thần thánh. Nỗi sợ hãi là một hiện tượng tâm lý bộc phát
mang bản tính tự nhiên bẩm sinh tiềm ẩn trong tâm thức mỗi con người, nó được
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Dưới sự tác động của nỗi sợ, trong tâm trí con
người hình thành hình ảnh ma quỉ, con người luôn tâm niệm rằng, có những hồn ma

nào đã can thiệp, quấy phá đời sống và ''trong nỗi buồn tuyệt đỉnh, người bất hạnh đã
sáng tạo nên hình bóng con ma, từ con ma đó con người tiếp tục sáng tạo nên bóng
hình Thượng đế''.
Yếu tố tâm lý thứ hai với tư cách là chất kích thích, xúc tác làm cho nỗi sợ
chuyển thành niềm tin thần thánh - đó là sự ngu dốt. ''Sự ngu dốt, lo lắng, tai họa”.
Theo logic của Hôn bách và các nhà duy vật Pháp đương thời thì đến lượt mình, sự
ngu dốt lạii làm điều kiện và tiền đề cơ bản cho sự dối lừa có ý thức của kẻ trên đối
với người dưới, của người khôn ngoan đối với kẻ nhẹ dạ, cả tin, kém hiểu biết.
Như vậy, theo Hôn bách là các nhà duy vật Pháp thì nỗi sợ các hiện tượng diễn
ra một cách bất thường trong giới tự nhiên là nguyên nhân cơ bản ban đầu làm phát
25


×