Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ ở huyện ý yên tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.21 KB, 69 trang )

PHẦN I
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế nói chung và nền
nông nghiệp Việt Nam nói riêng. Năm 1986 Đảng và Nhà nước đã thực
hiện chính sách "Đường lối đổi mới nền kinh tế". Chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý và điều tiết của nhà nước theo
định hướng xã hôị chủ nghĩa đã giải quyết được một cách căn bản về kinh
tế nước ta những năm trước đó mà trong đó có sự đóng góp không nhỏ của
thành phần kinh tế hộ.
Sau khi triển khai thực hiện chỉ thị 100 của Ban bí thư (năm 1987) và
nghị quyết 10 của Bộ chính trị (năm 1988) đã đánh dấu một bước ngoặt lớn
trong chiến lược đường lối phát triển kinh tế đất nước. Tức là gắn liền lợi
ích trực tiếp của người sản xuất, người lao động với thành quả mà họ tạo
ra trong quá trình sản xuất. Nên đã giải quyết một cách căn bản từ chỗ thiếu
ăn đến mức độ đủ ăn và có thừa để xuất khẩu. Bên cạnh những thành tựu
đó. Thực tế xét trên diện rộng còn tồn tại nhiều bất cập, chưa phát huy,
khơi dậy được những tiềm năng, những thế mạnh của vốn có thành phần
kinh tế hộ. Đặc biệt xét trên quy mô vùng, tỉnh, huyện thì vấn đề đó càng
nổi cộm cần được giải quyết các mặt hạn chế và phát huy thế mạnh của
vùng.
Trong quá trình thực tập, tổng hợp một số tài liệu có liên quan ở Viện
Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp. Cộng với sự hướng dẫn chỉ bảo của
thầy Trần Quốc Khánh về định hướng và lựa chọn đề tài về phát huy thế
mạnh của thành phần kinh tế hộ ở một vùng cụ thể.Qua đó em tổng hợp và
nhận thấy một sức mạnh tiềm tàng vẫn chưa được khơi dậy ở một Huyện
hầu như là thuần nông của Tỉnh Nam Định là Huyện ý Yên vì vậy em chọn
đề tài "Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ ở Huyện ý Yên. Tỉnh


Nam Định" đề ra một số giải pháp thúc đẩy thành phần kinh tế hộ ở huyện


này.
Do điều kiện về trình độ và thực tế quan sát nhận biết vẫn còn hạn chế
nên không tránh khỏi được những thiếu sót. Cuối cùng em xin chân thành
cảm ơn Tiến Sĩ Trần Quốc Khánh, tập thể cán bộ Trung tâm thư viện
trường Đại học Kinh tế tập thể cán bộ, thư viện của Viện Quy hoạch và
thiết kế nông nghiệp đã tận tình hướng dẫn sửa chữa và tra cứu tài liệu giúp
em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn.


PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
NÔNG DÂN
I. KHÁI NIỆM - BẢN CHẤT.

Kinh tế hộ nông dân là khái niệm đã được đề cập đến từ rất sớm trong
lịch sử phát triển của loài người. Từng hình thái phát triển nền kinh tế khác
nhau trôi qua lại cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn về kinh tế hộ nông dân ở
thời kỳ lịch sử đó.
Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân chỉ thực sự được quan tâm và bàn đến
khi vị trí và vai trò của nó dần được khẳng định trong nền kinh tế nói chung
và trong nông nghiệp - nông thôn nói riêng. Với ý nghĩa to lớn của việc
phát triển kinh tế hộ nông dân đã được chứng minh trong lịch sử, có rất
nhiều nhà kinh tế, những học giả, học thuyết và cả những nhà chính trị đã
bàn đến kinh tế hộ với vai trò là thành phần kinh tế chủ yếu trong nông
nghiệp - nông thôn. Và tất nhiên, tuỳ từng thời kỳ phát triển khác nhau, tuỳ
từng cách tiếp cận khác nhau mà chúng ta nhận được những lý thuyết
không hoàn toàn giống nhau về kinh tế hộ nông dân.
- Tư tưởng của C.Mác và Ph - Anggen.
Đối với vấn đề nông dân, cả Mác - Anggen đều tỏ thái độ hết sức thận

trọng.
+ Lúc đầu, khi nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của
nước Anh nhận thấy quá trình người nông dân bị tách khỏi ruộng đất một
cách ồ ạt, Mác đã tuyên đoán giai cấp nông nhân sẽ bị xoá bỏ cùng với sự
phát triển của đại công nghiệp. Nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền
đại sản xuất như trong công nghiệp.
+ Nhưng sau đó, bất chấp xu hướng diễn ra trong thời kỳ công nghiệp
hoá nhanh chóng ở nước Anh, nông trại gia đình về căn bản không dựa trên


lao động làm thuê, vẫn tỏ rõ sức sống và hiệu quả của nó. Từ đó trong
quyển III của bộ tư bản, Mác đã viết "Ngay ở những nước siêu công
nghiệp… với thời gian cho đến nay đã khẳng định rằng hình thức lãi nhất
không phải là nông trại công nghiệp hoá mà là nông trại gia đình không
dùng lao động làm thuê. Những nước còn giữ hình thức tư hữu chia đất
thành khoảnh nhỏ, giá cả ngũ cốc trong những nước mà chế độ sở hữu
ruộng đất nhỏ còn chiếm địa vị thống trị thường thấp hơn so với những
nước có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa".
- Tư tưởng của V.L.Lênin:
Với tư duy biện chứng và hoạt động thực tiễn, V.I. Lênin đã có những
đóng góp quan trọng vào những luận điểm nêu trên của Mác và Angghen.
Năm 1908, khi bàn về việc lựa chọn con đường phát triển của nông
nghiệp nước Nga, Lênin đã nhận thấy rằng: Không thể phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa kiểu Phổ vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà
phải là theo kiểu một chủ trại tự do trên mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất
đó được dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ, đó là kiểu Mỹ, Lênin cho
rằng Cauxky đã đặt vấn đề rất chính xác và đúng đắn khi nói rằng: Nông
nghiệp khong phát triển theo cùng một kiểu với công nghiệp.
+ Thực tế cho đến nay, ngày càng khẳng định sự phát triển thắng thế
của con người khác với kiểu "Nông trại kỹ nghệ" ở Anh hoặc "Đại điền

trang kiểu Phổ" mà Mác và Lênin đã phán đoán ở nhiều nước.
- Tư tưởng của A.V.Traianôp.
+ Kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế phức tạp của tổ chức
sản xuất nông nghiệp. Đó là những doanh nghiệp hàng hoá gia đình nông
dân không thuê nhân công mà chiếm đại bộ phận nông hộ ở nước Nga
trứơc cách mạng cũng như trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô.
+ Kinh tế nông dân gắn bó hữu cơ với gia đình nông dân vì thế có thể
coi kinh tế nông nghiệp nông dân là kinh tế gia đình. Đó là một xí nghiệp


lao động gia đình sống theo những quy luật của nó, khác với những quy
luật từ bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở lao động làm thuê. Trong kinh tế gia
đình, người nông dân vừa là người chủ, vừa là người lao động. Mục đích
sản xuất không phải vì lợi nhuận mà là để thoả mãn những nhu cầu của
gia đình.
+ Khi vượt khỏi kinh tế nửa tự nhiên (nửa tự cung tự cấp) người nông
dân bắt đầu cảm thấy rõ sự cần thiết của tín dụng, Kỹ thuật và công nghệ
tiến bộ. Nhưng mặt khá, các quá trình thuần tuý sinh học (trong trồng trọt
cũng như trong chăn nuôi) lại đòi hỏi một sự chăm sóc của từng cá nhân và
điều đó lại hạn chế sự phát triển theo chiều rộng của doanh nghiệp nông
dân.
+ Mỗi ngành có một giới hạn tối ưu cần thiết. Khi giới hạn tối ưu vượt
quá khuôn khổ kinh tế của gia đình nông dân, lúc đó, nông dân tìm cách
hợp tác với nhau để đạt giới hạn tối ưu mới, bằng cách đó là chuyển dần
lên sản xuất lớn. Nói cách khác, do không có khả năng tập trung vô hạn
theo chiều sâu như trong công nghiệp nên sản xuất nông nghiệp chủ có thể
tập trung theo chiều rộng từ quá trình này đến quá trình khác. Như vậy
người nông khi làm chủ và người lao động sẽ đi tới chỗ liên kết các quá
trình và các ngành "tách rời nhau" cùng nhau mua sắm tư liệu sản xuất,

thành lập các nhóm sử dụng máy móc và tiêu thụ sản phẩm, cải tạo đất đai.
Và bằng cách đó mà thay đổi cách kinh doanh của mình.
- Tư tưởng của Frank Elliss:
Kinh tế hộ nông dân là sản xuất của các hộ gia đình nông nghiệp, có
quyền sinh sống trên các mảnh đất đai, sử dụng chủ yếu sức lao động của
gia đình. Sản xuất của họ thường nằm trong hệ thống sản xuất lớn hơn và
tham gia ở mức độ không hoàn hảo và hoạt động của thị trường.
- Quan điểm của Liên Hợp Quốc:
+ Về phương diện thống kê:


Liên hợp quốc cho rằng: Hộ là những người cùng sống chung dưới
một mái nhà, cùng ăn chung và có cùng một ngân quỹ.
+ Về phương diện sản xuất:
Liên hợp quốc cho rằng: Kinh tế hộ là một hình thức tổ chức cơ sở của
nền sản xuất hàng hoá. Nó hoạt động sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình,
có một hoặc một số người lao động tự đầu tư khả năng về vốn để trang bị
tư liệu sản xuất, sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ theo yêu cầu sản phẩm
cho sự sinh tồn của họ trên thị trường.
Mỗi tư tưởng, mỗi quan điểm cho ta một cách nhận thức tổng quát về
kinh tế hộ nông dân hoặc kinh tế hộ nông dân trên một mặt nào đó. Tuy
vậy, chúng ta có thể hiểu:
Kinh tế hộ nông dân là tế bào kinh tế - xã hội được hình thành trên cơ
sở các mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, phong tục, tâm linh, tâm lý,
đạo đức. Là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông dân và nông thôn.
Kinh tế hộ nông dân đã tồn tại từ rất lâu ở các nước nông nghiệp, tự chủ
trong sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, là pháp nhân kinh tế, bình đẳng
trước pháp luật và là chủ thể nền kinh tế thị trường.
+ Hộ là hình thức kinh tế có quy mô gia đình, các thành viên trong hộ
gắn bó với nhau chặt chẽ trước tiên bằng quan hệ hô nhân và truyền thống.

+ Trong các tư liệu sản xuất của hộ nông dâ, ruộng đất là tư liệu sản
xuất quan trong nhất, là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế.
+ Kinh tế hộ nông dân chủ yếu dựa vào sức lao động của gia đình,
không hoặc rất ít thuê lao động ngoài, các lao động trong gia đình mang
tính tự giác cao. Ngoài các lao động chính thì kinh tế hộ nông dân còn có
những lao động phụ đó là những lao động trẻ em và người già.
+ Người chủ hộ vừa là người quản lý điều hành sản xuất, vừa trực tiếp
lao động nên mọi người trong hộ đều gắn bó với nhau chặt chẽ trong quá
trình sản xuất. Từ đó các thông tin, các quyết định được xử lý nhanh và kịp
thời, mang tính hợp lý cao.


+ Tính tư hữu của người lao động liên hệ với lợi ích cá nhân một
cách chặt chẽ, nó vừa là mục đích, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế hộ phát
triển.
Từ những tư tưởng, những quan điểm, khái niệm và những đặc điểm
của kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên chúng ta có thể rút ra được bản
chất của kinh tế hộ nông dân thể hiện ở những khía cạnh sau:
+ Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế, trong đó các thành viên hoạt
động và làm việc một cách tự chủ, tự nguyện vì lợi ích của bản thân, của
gia đình và của toàn xã hội.
+ Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế thích ghi nhất với đặc điểm
của sản xuất nông nghiệp, nơi mà các cây trồng, vật nuôi đòi hỏi quan tâm
sát sao, sự chăm sóc đúng lúc của con người. Đất đai và các tư liệu sản xuất
khcs đòi hỏi một sự bảo quản và bồi dưỡng hợp lý từ người sử dụng, một
yêu cầu mà không hình thức sản xuất nào khác đáp ứng được.
+ Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế phổ biến mang tính chất đặc
thù ở mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi nước trên thế giới.
Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế cơ sở sản xuất, vừa tiêu dùng
(mà người ta thường gọi tự cấp tự túc) sản phẩm mà hộ làm ra có thể được

tiêu dùng luôn với vai trò là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
+ Cũng như những thành phần kinh tế khác, kinh tế hộ nông dân phải
vận dụng tổng hợp các quy luật tự nhiên và quy luật khách quan trong quá
trình tồn tại và phát triển của mình.
+ Kinh tế hộ nông dân không những giải quyết tốt các mục tiêu của hộ
nông dân mà còn giải quyết tốt vấn đề môi trường sinh thái và vấn đề xây
dựng nông thôn mới.
II. VAI TRÒ ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ QUỐC DÂN

1. Vai trò của kinh tế hộ nông dân.


Kinh tế hộ nông dân là một trong những thành phần cấu tạo lên nền
kinh tế quốcdân của mỗi nước, nó không chỉ tự phát triển, tự ảnh hưởng mà
còn ảnh hưởng tới và chịu sự ảnh hưởng tác động của tất cả các thành phần
kinh tế khác. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ ảnh hưởng sâu sắc tới
đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
Trong các học thuết, các quan điểm của mình, các nhà kinh tế, các nhà
chính trị đã phần nào nêu lên những chứng kiến của mình về vai trò của
kinh tế hộ. Trong bấykỳ thời đại nào, bất kỳ thời điẻm lịch sử nào kinh tế
hộ nông dân vẫn luôn đóng vai trò quan trọng.
- Cung cấp lượng lương thực, thực phẩm chủ yếu phục vụ cho đời
sống và nhu cầu của con người:
+ Hàng năm trên toàn thế giới, với sự ổn định khoảng 300 triệu hộ
nông dân đã đóng góp, giữ vai trò là lực lượng chủ đạo trong nền nông
nghiệp toàn cầu. Sản xuất ra khoảng trên 2000 triệu tấn lương thực; trên
200 triệu tấn hạn có dầu và khoảng 1000 triệu tấn thịt, sữa, trứng,; hàng tỷ
ra, quả cung cấp cho gần 6 tỷ người.
+ Ở Mỹ, chỉ với khoảng 65% đất nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân đã

tạo ra một lượng nông sản chiếm khoảng 70% giá trị sản phẩm nông
nghiệp, 50% sản lượng ngô toàn thế giới.
+ Ở Nhật Bản, kinh tế hộ nông dân đã sản xuất ra một khối lượng sản
phẩm đủ cung cấp cho nhu cầu của cả nước với khối lượng: 100% nhu cầu
về gạo; 81 nhu cầu về thịt; 98% nhu cầu về trứng; 90% nhu cầu về rau,
quả…
+ Ở Việt Nam chúng ta với trên 10 triệu hộ nông dân, hàng năm đã
tạo ra một khối lượng nông sản thực phẩm cực lớn với sự tiến bộ vượt bậc,
theo thống kê năm 2000 thì khối lượng sản phẩm của toàn ngành nông
nghiệp là: 35,36 triệu tấn lương thực quy thóc, xuất khẩu đạt 3,6 triệu tấn
gạo, đã trồng được 717 nghìn ha ngô, sản lượng xuất khẩu các phê đạt 694
nghìn tấn, cao su đạt 280 nghìn tấn, sản lượng thịt trứng liên tục tăng với


tốc độ cao, chúng ta không những đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm
cho nhân dân cả nước mà còn vươn lên trở thành một trong những nước
xuất khẩu nông sản lớn nhất trên thế giới.
- Hình thành đơn vị tích tụ vốn của xã hội.
Kinh tế hộ nông dân với đặc điểm là đơn vị sản xuất cơ sở và tự chủ
đã đóng vai trò là đơn vị tích tụ vốn của xã hội , cùng với các đơn vị trong
các thành phần kinh tế khác tạo lên một tổng thể các nguồn vốn phục vụ
cho nhu cầu về vốn của toàn xã hội.
Nguồn vốn mà các hộ nông dân tích tụ được là cơ sở cho việc chuyển
từ kinh tế tự túc tự cấp sang kinh tế hàng hoá với hiệu quả cao mang lại.
Kết quả ấy sẽ tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong
nông nghiệp, góp phần tích cực và to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, kinh tế hộ nông dân
vừa là đơn vị tích tụ vốn, vừa đóng vai trò là đơn vị giải ngân nguồn vốn đó
vào việc tái sản xuất hoặc mở rộng ngành nghề, tạo nguồn đầu tư vào các
ngành khác.

- Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Trong quá trình sản xuất, kinh tế hộ nông dân cần sử dụng nhiều lao
động với số ngày công rất cao. Tuy nhiên với mỗi dạng hộ khác nhau, ở
mỗi thời điểm và thời kỳ phát triển của hộ khác nhau mà có nhu cầu về lao
động không giống nhau:
+ Sử dụng lao động gia đình:
Hộ nông dân chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình và lao động
trong gia đình cũng là nguồn chủ yếu cung cấp cho nhu cầu của hộ, chúng
ta phải nói rằng đa số lao động trong hộ đều làm việc cho sự phát triển và
mục tiêu sản xuất cũng như quá trình sản xuất của hộ nông dân.
+ Sử dụng lao động gia đình ngoài độ tuổi lao động.


Hiện nay, một tình trạng khá phổ biến là ở các hộ nông dân, việc sử
dụng lao động ngoài độ tuổi lao động, đó là các trẻ em và người lớn tuổi,
với cách tính cứ hai lao động này bằng một lao động chính đã góp phần
tăng thu nhập cho hộ, giải phóng dần lực lượng lao động chính ra khỏi
nông nghiệp đến một mức hợp lý.
+ Sử dụng lao động làm thuê:
Việc sử dụng lao động làm thuê rất ít khi xảy ra ở những hộ tự túc tự
cấp, sản xuất nhỏ nhưng lại là việc làm khá phổ biến ở các hộ nông dân sản
xuất hàng hoá và sản xuất lớn. Những hộ nông dân này việc thuê mướn
thêm lao động thường xuyên hoặc vào thời vụ là điều cần thiết với tiền
công hợp lý đã tạo ra một số lượng công ăn việc làm khá lớn cho những lao
động dư thừa ở nông thôn hiện nay.
Kinh tế hộ nông dân, trong quá trình sản xuất và phát triển của mình
cần rất nhiều ngày công lao động. Thực tế đã chứng minh qua những năm
vừa qua, kinh tế hộ nông dân đã giải quyết cho hàng triệu lao động ở nông
thôn nước ta, góp phần quan trọng vào công cuộc giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động.

- Thực hiện phân công lao động theo đơn vị kinh tế hộ nông dân.
Cùng với quá trình phát triển của mình kinh tế hộ nông dân ngày càng
có điều kiện để tích luỹ tái sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu, khoa
học kỹ thuật và công nghệ cũng như máy móc được áp dụng và sử dụng
vào sản xuất ngày càng được nâng lên rõ rệt thêm vào đó là sự phù hợp
trong cơ chế và các chính sách của nhà nước sẽ giúp cho sản xuất ngày
càng số phát triển lao động phục vụ cho nhu cầu của kinh tế hộ về nông
nghiệp ngày càng giảm, sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa lao động trong nông
nghiệp. Số lao động dư thừa này với trình độ ngày càng được nâng lên sẽ
chuyển dịch sang làm việc tại các ngành, nghề khác, nhất là các ngành
nghề truyền thống sẽ ngày càng phát triển.


Tất cả những điều này sẽ dẫn tới diện tích đất nông nghiệp trên đầu
người sẽ tăng, năng suất lao động tăng và hiệu quả sản xuất của một lao
động sẽ không ngừng được nâng lên.
- Đổi mới kỹ thuật sản xuất.
Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân với tư cách là một
thành phần kinh tế tồn tại và luôn đổi mới cùng với quá trình đổi mới, phát
triển của nền kinh tế nói chung. Kinh tế hộ nông dân chịu sự ảnh hưởng tác
động của các thành phần kinh tế khác, của nhiều yếu tố khác. Qua quá
trình hoạt động, nó luôn phát triển hướng tới hoàn thiện mình, và đổi mới
về kỹ thuật sản xuất chỉ là một mặt đổi mới của nó. Sự đổi mới về kỹ thuật
sản xuất có được là do các nguyên nhân tác động sau đây:
+ Người nông dân với kinh nghiệm sản xuất ngày càng làm tốt hơn
công việc của mình, phát hiện những khó khăn cần khắc phục và những
thuận lợi cần khai thác phát huy.
+ Cùng với quá trình phát triển của mình, việc đầu tư cho đổi mới
trang thiết bị sản xuất là điều tất yếu mà việc học hỏi khoa học kỹ thuật
mới là việc làm thực sự cần thiết.

+ Trong đời sống kinh tế hộ nông dân thì việc lành mạnh, sự ganh đua
với những kết quả đạt được sẽ là động lực, là nhân tố tích cực đầu tư và học
hỏi.
+ Cùng với sự quan tâm về giáo dục của nhà nước, các mạng lưới
khuyến nông ngày càng hoạt động có hiệu quả thì hệ quả là trình độ của
người lao động trong hộ nông dân ngày một tăng lên. Điều này thực sự là
nhân tố tích cực giúp vận dụng tốt những điều kiện vốn có, những tư liệu
sản xuất trong nông hộ được kết hợp có khoa học mang lại hiệu quả kinh tế
cao.
+ Qua thời gian và sự phát triển của nền kinh tế, đầu tư của nhà nước
cho nông nghiệp cũng ngày một tăng, góp phần khai thác tốt những tiềm
năng, ưu thế riêng có của hộ.


Tất cả những điều nói trên kết hợp với nhau một cách hài hoà, khoa
học, kinh nghiệm triyền thống kết hợp với kỹ thuật hiện đại làm cho sản
phẩm sản xuất ngày càng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, giá thành hạ hơn,
lợi nhuận thu được cao hơn. Đó cũng là mục tiêu cho sự tồn tại và phát
triển của kinh tế hộ nông dân.
Sản xuất hàng hoá có thể sớm được áp dụng những tiến bộ khoa học,
công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất.
- Giữ gìn và làm sạch môi trường sinh thái.
Vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường ngày nay đang được toàn
thể nhân loại quan tâm cùng giải quyết. Giữ gìn và làm sạch môi trường là
vấn đề đang được đặt lên vị trí hàng đầu hiện nay. Kinh tế hộ nông dân,
hàng năm với hàng triệu cây xanh các loại được gieo trồng đã góp phần to
lớn vào công cuộc bảo vệ môi trường trên thế giới. Đó là điều mà không ai
trong chúng ta có thể phủ nhận.
Từ sự tìm hiểu về bản chất, đặc trưng và vai trò của kinh tế hộ nông
dân như đã nêu ở trên, chúng ta có thể khẳng định kinh tế hộ nông dân sẽ

tồn tại và luôn là một thành phần kinh tế quan trọng của mọi quốc gia, sự
phát triển của nó không những làm cho đời sống của người dân ngày càng
được nâng cao, các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp ngày càng được
khai thác đầy đủ mà còn có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển của các
thành phần, các ngành kinh tế khác.
Đối tượng sản xuất của kinh tế hộ nông dân có đặc điểm riêng biệt đó
là cây trồng và vật nuôi, là những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát
triển theo những quy luật sinh học nhất định. Là cơ thể sống, vì vậy chúng
rất nhạy cảm với môi trường tự nhiên, mỗi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu,
về sự chăm sóc của con người đều có tác động trực tiếp đến quá trình phát
sinh và phát triển của chúng, và tất nhiên là ảnh hưởng đến kết quả cuối
cùng của sản xuất. Do chúng có đặc điểm như vậy nên muốn đạt được hiệu
quả cao nhất thiết phải có sự quan tâm đúng mực, thường xuyên và thực sự


sát sao của con người. Mỗi sự biến đổi, thay đổi nhỏ của những cơ thể sống
này con người đều phải biết, chúng cần phải được chăm sóc đúng lúc, đúng
chỗ, đúng khoa học. Để làm tốt những điều này không một chủ thể nào
khác mà chỉ có hộ nông dân đảm đương nổi. Đặc điểm có đó chỉ phù hợp
với trách nhiệm, chất lượng của lao động gia đình, phù hợp với kiểu tổ
chức sản xuất của kinh tế hộ nông dân.
- Thực tế phát triển kinh tế hộ nông dân đã cho thấy nhiều ưu điểm mà
không một chủ thể nào có được, hơn nữa phát triển kinh tế hộ nông dân còn
giúp phát triển lực lượng sản xuất, tạo công ăn việc làm và giải phóng lực
lượng, năng lực sản xuất ở nông thôn. Đây là việc làm thực sự có ý nghĩa
với bất kỳ một nền kinh tế nào, với bất kỳ một xã hội nào. Việc phát triển
lực lượng sản xuất, tạo công ăn việc làm là điều cần thiết cho sự phát triển
của xã hội, của con người. Năng lực sản xuất ở nông thôn, nhiều khi còn bị
bó buộc, nhưng nay nó đã được giải phóng, được phát huy tác dụng qua sự
phát triển của kinh tế hộ nông dân.

- Phát triển kinh tế hộ nông dân sẽ giúp khai thác hết mọi tiềm năng,
tiềm lực trong nông nghiệp nông thôn. Khai thác sử dụng có hiệu quả
những tư liệu sản xuất như đất đai, công cụ lao động… những yếu tố mà
chỉ có kinh tế hộ mới sử dụng có hiệu quả nhất. Sản xuất của hộ nông dân
mang tính đa dạng, tính thích ứng cao. Sự phân bố của kinh tế hộ mang tính
rộng khắp. Sản phẩm của nông nghiệp mang tính liên tục, không phân chia
thành các bán thành phẩm, không tính toán được kết quả ngay ở mỗi giai
đoạn. Kinh tế hộ nông dân tồn tại và phát triển khắc phục được những khó
khăn tưởng chừng không khắc phục nổi, khai thác được những tiềm năng
mà không một chủ thể nào khác khai thác được.
Thực tế phát triển của mỗi nền kinh tế trong thời gian vừa qua đã
chứng minh sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân là một tất yếu,
khách quan, phù hợp với quy luật của sản xuất nông nghiệp. Bằng những
luận giải như đã nói trên, chúng ta phải công nhận rằng kinh tế hộ nông dân


có nững ưu điểm mà không chủ thể kinh tế nào có được. Điều này đặc biệt
đúng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn - nơi mà những tiền đề cho sự
phát triển vẫn còn khiêm tốn, đòi hỏi nhiều công sức đầu tư cũng như cần
có sự quan tâm đúng mức của nhà nước thì sự phát triẻen của hình thức
kinh tế này là một tất yếu.
Nông nghiệp là một trong ba ngành chính cấu thành lên toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, tuỳ từng thời kỳ và ở mỗi nước khác nhau nó có vị trí
khong giống nhau, tuy nhiên chúng ta phải nói rằng nông nghiệp luôn đóng
một vai trò quan trọng trong đời sống của nhân dân mỗi nước. Sự phức tạp
của nông nghiệp chỉ phù hợp với một loại hình sản xuất kinh doanh, mà ở
đó mang lại hiệu quả kinh tế cao đó là kinh tế hộ nông dân.
Thực tế phát triển nền kinh tế của đất nước chúng ta cũng cho thấy
những điều tương tự. Qua nhiều năm kinh tế hộ nông dân không được
khuyến khích phát triển, thậm chí còn có thời kỳ bị đưa vào đối tượng cần

cải tạo và loại bỏ đã làm cho bức tranh kinh tế nói chung và nông nghiệp
nói riêng thực sự đen tối, đời sống của người nông dân thực sự đã phải trải
qua nhiều khó khăn. Nhận thức được sai lầm này, cùng với hàng loạt sự đổi
mới, trong văn kiện Đại hội VI của Đảng (1986) và trong Hiến pháp của
nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, kinh tế hộ nông dân đã được công
nhận và được coi là một thành phần kinh tế còn tồn tại tất yếu, bình đẳng
và lâu dài.
Trong những năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế và nông nghiệp nước
ta đã khởi sắc, đạt được những thành tựu to lớn, điều đó có được là có một
sự đóng góp rất lớn của kinh tế hộ nông dân. Điều này một lần nữa khẳng
định sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân là một tất yếu khách
quan, phù hợp với quy luật của sản xuất nông nghiệp.
2. Đặc điểm của kinh tế nông hộ nông dân
2.1. Hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ đang quá độ sang sản
xuất hàng hoá.


Trong kinh tế hộ nông dân, chủ thể sản xuất đồng thời là chủ thể lợi
ích nên đã tạo ra động lực kinh tế thúc đẩy nền nông nghiệp chuyển sang
sản xuất hàng hoá.
Trước đây kinh tế hộ nông dân được quan niệm như là một tàn dư của
chế độ kinh tế cá thể, luôn có nguy cơ phá vỡ và làm xói mòn quan hệ sản
xuất tập thể. Do đó, kinh tế hộ nông dân chỉ được coi là kinh tế phụ. Kinh
tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá ở nước ta hiện nay khác về chất so với
kinh tế hộ tiểu nông tự cung tự cấp trước đây. Hiện nay ở nước ta có 3 loại
kinh tế hộ nông dân tự chủ:
- Kinh tế hộ nông dân tự chủ của những người nông dân cá thể (đó là
người nông dân chưa vào hợp tác xã). Loại kinh tế hộ nông dân tự chủ này
khác với kinh tế hộ nông dân cá thể trước đây ở hai điểm:
+ Ruộng đất thuộc quyền sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý. Họ

được nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và ổn định.
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh của họ được sự quản lý của nhà
nước.
- Kinh tế hộ nông dân tự chủ của các thành viên trong các nông lâm
trường quốc doanh. Ở đây hộ nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ vừa
nằm trong mối quan hệ khăng khít với kinh tế quốc dân.
- Kinh tế hộ nông dân tự chủ của những người nông dân xã viên HTX.
Ở đây hộ nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ vừa có mối quan hệ với
kinh tế với HTX để giải quyết cả đầu vào và đầu ra cho quá trình sản xuất
kinh doanh.
Cả 3 loại hộ này khác với kinh tế hộ nông dân cá thể trong chế độ tư
hữu trước đây ở chỗ: Ruộng đất (là tư liệu sản xuất quan trọng nhất) thuộc
sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý, nhà nước giao quyền sử dụng ruộng
đất cho nông dân (theo những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định). Tính
chất tự chủ của hộ nông dân thể hiện ở việc họ được nhà nước giao quyền
sử dụng đất lâu dài, ổn định. Dựa trên quy hoạch, hộ nông dân được quyền


lựa chọn phương hướng sản xuất gắn với chuyên canh và kinh doanh tổng
hợ; được quyền lựa chọn quy mô, tổ chức, hình thức quản lý và nơi tiêu thụ
sau khi hoàn thành ghĩa vụ đóng góp cho nhà nước, thực hiện các hợp
đồng. Nói cách khác, hộ nông dân vừa là người tổ chức, thực hiện, vừa là
người chịu trách nhiệm toàn bộ các khâu của quá trình tái sản xuất trong
nông nghiệp. Lợi ích kinh tế hộ nông dân gắn liền với trách nhiệm và
quyền tự chủ của hộ nông dân. Đây chính là động lực thúc đẩy các hộ nông
dân tự nguyện bỏ thêmcông sức, tiền của đầu tư vào thâm cạnh và tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất.
2.2. Cơ cấu sản xuất của hộ nông dân là cơ cấu sản xuất đa dạng,
nhiều ngành nghề.
Có hộ nông dân sản xuất chuyên môn hoá nhưng có hộ lại theo hướng

sản xuất kinh doanh tổng hợp.
Do sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng khác với sản xuất
công nghiệp như đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống
lại bị chi phối nhiều các yếu tốtự nhiên, sản xuất nông nghiệp mang tính
thời vụ cao với những khoảng thời gian trống cho phép tạo ra sự di chuyển
nhân công nông nghiệp theo thời vụ.Mặt khác, lực lượng lao động trong
nông nghiệp nước ta còn chiếm đại bộ phận lao động xã hội,diện tích đất
canh tác bình quân đầu người vào loại thấp; sản xuất chủ yếu là độc cạnh
cây lúa.Vì vậy khi chuyển sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá để tăng thu
nhập thì hộ nông dân phải đổi mới cơ cấu sản xuất của mình hướng tăng
nhanh tỷ trọng hàng hoá phù hợp với nhu cầu thị trường, chuyên cạnh kết
hợp với đa cạnh để đa dạng sản phẩm, đa dạng hoá ngành nghề. Hộ nông
dân có thể tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực kinh
tế nông nghiệp, với nhiều loai hình sản xuất và mọi nguồn lực có được.
Trên cơ sở điều kiện sinh thái của các loại cây trồng vật nuôi, điều
kiện lao động, tập quán sản xuất và nhu cầu của thị trường mà cơ cấu sản
xuất của hộ nông dân ở các vùng có sự khác nhau.


2.3. Kinh tế hộ nông dân có khả năng điều chỉnh theo sự vận động
của cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước.
Mác đã từng khẳng định có sự dịch chuyển từ ngành này sang ngành
khác một cách nhanh chóng nếu tư bản càng có tính chất di động, tức là
càng dễ di chuyển từ một lĩnh vực này sang một lĩnh vực khác và sức lao
động càng có thể nhanh chóng được di chuyển từ một lĩnh vực này sang
một lĩnh vực khác.
Trong công nghiệp việc di chuyển tư bản và sức lao động từ lĩnh vực
này sang lĩnh vực khác khó khăn. Ngược lại đối với nông nghiệp nếu việc
sản xuất và tiêu thụ một loại nông sản nào đó gặp khó khăn thì kinh tế hộ
nông dân có thể chuyển nhanh sang loại nông sản khác. Tuy nhiên khả

năng điều chỉnh của kinh tế hộ nông dân còn phụ thuộc vào các yếu tố tự
nhiên (cây, con thời tiết, khí hậu…) của từng vùng, vào lực lượng lao động,
vào tư liệu sản xuất, vốn và trình độ kỹ thuật của từng hộ nông dân, mặt
khác chi phí sản xuất sản phẩm tỷ lệ nghịch với quy mô sản xuất, trình độ
công nghệ và tổ chức sản xuất còn ở hộ nông dân trình độ công nghệ sản
xuất nhỏ bé và lạc hậu, tổ chức sản xuất không hợp lý, quy mô sản xuất hạn
hẹp nên chi phí sản xuất cao làm cho hiệu quả sản xuất hạn chế cho nên
kinh tế hộ nông dân chỉ mang tính chất sản xuất hàng hoá nhỏ, để phù hợp
với kinh tế thị trường hiện nay thì quá trình vận động từ sản xuất hàng hoá
nhỏ sang sản xuất hàng hoá lớn (kinh tế trang trại) có quy mô sản xuất
lớn, trình độ công nghệ hiện đại và tổ chức sản xuất hợp lý.
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG
DÂN SẢN XUẤT NÔNG SẢN HÀNG HOÁ.

1. Nhân tố tự nhiên.
1.1. Nhân tố thời tiết khí hậu.
Nhân tố thời tiết khí hậu có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và kinh
doanh nông sản. Nếu thời tiết khí hậu thuận lợi phù hợp với điều kiện sống
của cây trồng, vật nuôi của nông nghiệp thì sẽ phát triển tốt còn ngược lại


nếu điều kiện thời tiết, khí hậu không thuận lợi, không phù hợp thì sản xuất
nông sản kém phát triển, thậm chí sẽ chết hàng loạt.
Chẳng hạn đối với Việt Nam là nước có điều kiện thời tiết, khí hậu là
vùng khí hậu là vùng nhiệt đới, á nhiệt đới và pha trộn tính ôn đới ở vùng
phía Bắc, điều đó ảnh hưởng khá sâu sắc đến sản xuất nông sản hàng hoá ở
nước ta. Do điều kiện thời tiết khí hâu như vậy nên sản xuất nông sản nên
Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn như sau:
Những thuận lợi do thời tiết khí hậu đem lại:
- Phổ cây trồng và vật nuôi rộng lớn từ nhiệt đới đến ôn đới.

- Khả năng nuôi trồng nông sản phẩm có thể diễn ra quanh năm trong
khi các xứ lạnh chỉ có thể nuôi trồng một vụ ở ngoài trời.
- Giống loài động vật và thực vật cung cấp cho các hộ nông dân sản
xuất đa dạng và phong phú đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế cao cung
cấp cho xuất khẩu.
Tuy nhiên thời tiết và khí hậu cũng ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông
sản như: bão lũ, sương muối, rét, mưa, gió lớn. Độ ẩm trung bìnhcao và
thời tiết thay đổi thất thường là nguyên nhân gây nên các loại sâu bệnh và
sự thất thoát các loại nông sản.
1.2. Nhân tố về đất đai.
Đất đai là cơ sở tự nhiên là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản
xuất. Nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất của xã hội nhưng tuỳ thuộc
vào từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong nông
nghiệp ruộng đất không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà
là yếu tóo tích cực của sản xuất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay
thế được.
Nước ta là một trong những nước có mức bình quân ruộng đất nông
nghiệp theo đầu người thuộc loại thấp của thế giới, đạt 1073m 2, nhưng lại
phân bố không đều giữa các vùng. ở các tỉnh phía Bắc bình quân đạt


861m2, trong vùng Đồng bằng sông Hồng 591m2, ở các tỉnh phía nam bình
quân đạt 1329m2, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1729m2.
Đất đai nước ta rất phong phú, cả nước có 13 nhóm đất chính nên có
thể trồng được nhiều loại cây trồng và vật nuôi:
Trong đó đất đỏ chiếm 54% diện tích đất nông nghiệp, loại đất này có
chất lượng tốt, khá thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp lâu năm và cây
ăn quả. Đứng thứ hai là nhóm đất phù sa khá màu mỡ phân bố chủ yếu ở 2
đồng bằng lớn là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó đất của nước ta là đất dốc, đất đồi núi rất khó khăn cho sản

xuất hàng hoá. Bình quân đất ít lại chia ra nhiều mảnh nhỏ, cùng với tập
quán canh tác thủ công lạc hậu lâu đời của chế độ cũ để lại, cũng như trong
những năm gần đây đã khai thác không đúng kỹ thuật đã làm cho đất đai
tàn phá nghiêm trọng.
2. Nhân tố kinh tế - xã hội.
2.1. Dân số và lao động
Như chúng ta đã biết, điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp tới sản
xuất nông sản, quyết định sự tồn tại và phát triển theo chiều rộng, nhân tố
lao động và dân số cũng có ảnh hưởng đến sản xuất nông sản hàng hoá.
Trước hết, ta thấy rằng lao động của con người mới tạo ra các hoạt
động sản xuất nông sản hàng hoá. Như vậy lao động là yếu tố sản xuất là
điều kiện không thể thiếu được của quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh nông nghiệp. Nếu lao động có kỹ thuật cao có am hiểu về quy luật
phát sinh, phát triển của các loại cây trồng và vật nuôi thì nó là điều kiện
quan trọng thúc đẩy phát triển quá trình sản xuất nông sản của các hộ nông
dân. Tuy nhiên, lao động không có kỹ thuật thì làm hạn chế sự phát triển
của cây trồng và vật nuôi đòi hỏi phải hiểu biết kỹ thuật trong mỗi giai
đoạn phát triển của vật nuôi, cây trồng.


Đối với dân số: đây là nguồn cung cấp lực lượng lao động cho mọi
ngành kinh tế cũng như cho ngành nông nghiệp. Mặt khác, dân số là lực
lượng tiêu thụ sản phẩm nông sản của các hộ nông dân.
Như vậy nhân tố dân số và lao động là yếu tố quan trọng trong hoạt
động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông sản. Những nhà quản lý cần sử
dụng khéo léo và phù hợp nguồn lao động để sản xuất nông sản hàng hoá
đạt hiệu quả cao nhất.
2.2. Nhân tố về vốn.
Cũng như tất cả các ngành kinh tế khác, ngành nông nghiệp muốn tiến
hành sản xuất nông sản hàng hoá và kinh doanh thì cần phải có các tư liệu

cho lao động như máy móc, thiết bị, cơ khí, nhà xưởng, tư liệu sinh học ccs
điều kiện vật chất phục vụ cho quá trình sản xuất và tiêu dùng và các khoản
tiền ứng trước để mua một số yếu tố đầu vào sản xuất. Tất cả các yếu tố đó
chỉ có thể đáp ứng được khi có vốn.
Vốn sản xuất tác động vào toàn bộ quá trình sản xuất nông sản thông
qua phân bón, thức ăn, thuốc chữa bệnh cho gia súc và mua giống.
Có thể nói vốn có vai trò quan trọng đối với ngành nông nghiệp.
Ngành nông nghiệp có thể phát triển được hay không còn phụ thuộc vào
lượng vốn của ngành, trong khi đó vốn sản xuất nông nghiệp có đặc điểm:
Vốn cố định ngoài những tư liệu có nguồn gốc kỹ thuật còn có tư liệu lao
động có nguồn gốc sinh học (cây lâu năm, súc vật làm việc, súc vật sinh
sản), sản xuất nông nghiệp có chu kỳ sản xuất dài và tính thời vụ làm cho
tuần hoàn và luân chuyển của vốn chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi
vốn, tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kể trong thời gian tương đối dài
của vốn lưu động và làm cho vốn ứ đọng, sản xuất nông nghiệp lệ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên nên việc sử dụng gặp nhiều rủi ro làm tổn thất
hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn.
2.3. Nhân tố về thị tưrờng


Thị trường là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đối với sản xuất kinh
doanh nông nghiệp bởi vì theo kinh tế học hiện đại người sản xuất chỉ sản
xuất những gì mà thị trường cần: nếu sản phẩm nong nghiệp được thị
trường chấp nhận với số lượng lớn mà cung nông sản nhỏ hơn thì người
sản xuất bán được giá cao và thu được nhiều lợi nhuận, nó thúc đẩy sự phát
triển ngày càng tăng về chiều rộng cũng như chiều sâu nhưng nếu sản phẩm
nông sản không được thị trường chấp nhận hoặc tiêu thụ trên thị trường
chậm thì giá nông sản thấp hơn giá thành bị thua lỗ khiến cho người trực
tiếp sản xuất bắt buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc chuyển đổi ngành
nghề.

Mặt khác thị trường còn có ảnh hưởng đến giống loài cây trồng và vật
nuôi cần để nuôi trồng. Ngoài việc căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kỹ thuật
phù hợp người sản xuất còn căn cứ vào sở thích, thói quen đa số người tiêu
dùng trên thị trường để quyết định sản xuất nông sản cho thị trường.
2.4. Nhân tố xã hội.
Nhóm nhân tố xã hội là những nhân tố tập quán sản xuất, thói quen
tiêu dùng.v.v. Tập quán sản xuất mà tích cực thì sẽ đẩy mạnh sự phát triển
sản xuất nông sản nhưng nếu tập quán sản xuất lạc hậu tiêu cực thì sẽ kìm
hãm sự phát triển sản xuất nông sản. Chẳng hạn như tập quán sản xuất của
các hộ nông dân nước ta vẫn có tư tưởng sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất
chủ yếu là phục vụ hộ là chủ yếu dư thừa mới mang bán nó hạn chế cho sự
phát triển sản xuất nông sản theo hướng hàng hoá.
Thói quen tiêu dùng ảnh hưởng đến xu hướng sản xuất cụ thể là ở sản
xuất nông nghiệp.
Ví dụ: Thói quen tiêu dùng của người dân Mỹ về hàng hoá nông sản là
thích những sản phẩm đã qua chế biến như uống nước cam thì 1 cốc nước
cam cần nhiều quả cam nên nó cũng khuyến khích sản xuất phát triển. Song
đối với nước ta lại thích ăn những nông sản tươi nên cũng hạn chế phát
triển.


2.5. Nhân tố về chính sách vĩ mô của nhà nước.
Ngành nông nghiệp là một bộ cấu thành nền kinh tế quốc dân được
vận hành theo cơ chế thị trường nên cần có sự quản lý nhà nước là tác động
để phát triển.
Chính phủ quản lý vĩ mô ngành nông nghiệp bằng cách định ra các
mục tiêu chung của nền kinh tế, hệ thống công cụ quản lý nhà nước là toàn
bộ phương tiện được nhà nước sử dụng để tác động vào sản xuất kinh
doanh nông sản nhằm thúc đẩy phát triển theo hướng nhất định.
Trong cơ chế thị trường, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân đối với ngành

nông nghiệp là một công cụ quan trọng của nhà nước nhằm định hướng
phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở tầm vĩ mô, để trên
đó mà ngành nông nghiệp bố trí, huy động các nguồn lực cho sản xuất
nông sản một cách hợp lý nhất để khai thác triệt để lợi thế so sánh của
nông nghiệp nước ta nhằm thực hiện tốt các mục tiêu, ý tưởng mà sự phát
triển nông nghiệp cần đạt tới, phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước.
Nhưng trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, kế hoạch kinh tế
quốc dân có tính chất pháp lệnh và chỉ đạo theo phương thức giao nhận và
chấp hành kế hoạch còn hiện nay, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân có tính
chất hướng dẫn, chỉ đạo theo định hướng của kế hoạch hoá.
Hệ thống công cụ chính sách kinh tế giúp nhà nước điều khiển hoạt
động của các chủ thể kinh tế (doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân…).
Nhờ các chính sách kinh tế mà chủ thể kinh tế trong ngành nông nghiệp đã
hành động phù hợp với lợi ích chung của xã hội, tiết kiệm và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực sản xuất nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm
nông nghiệp.
Thế chấp hoá pháp luật và các chính sách kinh tế là điều kiện cần thiết
để đưa chúng vào thực tiễn phát triển nông sản hàng hoá, ví dụ như luật đất
đai thực hiện vào cuộc sống nó thể hiện quyền sử dụng đất đối với hộ nông
dân tạo điều kiện tập trung ruộng đất để sản xuất nông sản hàng hoá. Pháp


luật kinh tế trong nông nghiệp tạo ra hành lang pháp lý cho doanh nghiệp
bảo vệ quyền tự do cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế tạo điều
kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế nông nghiệp phát triển.
Tóm lại chính sách của nhà nước có ảnh hưởng lớn đến phát triển sản xuất
nông sản hàng hoá. Nếu có phù hợp giữa các chính sách vĩ mô của nhà
nước và điều kiện cần thiết để sản xuất hàng hoá thì sẽ tạo điều kiện tốt cho
phát triển nông sản hàng hoá, ngược lại nếu không phù hợp thì sẽ kìm hãm
sự phát triển sản xuất nông sản hàng hoá.

3. Nhân tố khoa học.
Công nghệ về giống cây trồng và vật nuôi có ảnh hưởng trực tiếp
quyết định đến năng xuất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Nếu công
nghệ giống cây trồng và vật nuôi tốt không những tạo ra nhiều về số lượng
nông sản mà còn tạo ra chất lượng nông sản tốt hơn. Ngược lại, nếu giống
cây trồng và vật nuôi không tốt, thái hoá, bện tật thì sẽ gây khó khăn cho sự
phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Như vậy công nghệ giống có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển sản xuất kinh doanh nông sản.
Công nghệ sau thu hoạch là công nghệ chế biến bảo quản và vận
chuyển nông sản cũng ảnh hưởng đến giá trị nông sản. Nếu trình độ và quy
mô công nghệ sau thu hoạch lớn hiện đại thì sẽ nâng cao được giá trị nông
sản và đa dạng hoá nông sản phẩm đáp ứng phong phú nhu cầu của thị
trường. Như vậy tạo điều kiện cho sản xuất nông sản hàng hoá phát triển.
Nếu trình độ và quy mô của công nghệ sau thu hoạch nhỏ bé và lạc hậu thì
sản lượng nông sản cũng như chất lượng không đáp ứng yêu cầu của thị
trường làm không khuyến khích sản xuất nông sản phát triển, khi công
nghệ chế biến kém phát triển thì sản phẩm nông sản làm ra đơn thuần.
IV. KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ
NƯỚC TA BÀI HỌC KINH NGHIỆM GÌ CHO KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN Ở
VIỆT NAM.

1. Sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới.


Kinh tế hộ nông dân đã tồn tại từ rất sớm trong lịch sử và trải qua
nhiều bước thăng trầm cùng với các hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
nó chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ ở ba thế kỷ trở lại đây khi mà các cuộc
cách mạng khoa và công nghệ đã tạo ra hàng loạt những công nghệ, kỹ
thuật và công cụ sản xuất mới, tạo ra bước đột phát trong nền nông nghiệp
của thế giới. Hộ nông dân cho đến nay đã tồn tại phổ biến trên thế giới, ở

tất cả các nước có sản xuất nông nghịp. Nhưng chủ yếu nó đang tồn tại ở
dạng hộ nông dân sản xuất hàng hoá và kinh tế trang trại.
Sau đây, để giúp cho việc nghiên cứu và việc định hướng phát triển
cho kinh tế hộ nông dân ở nước ta phù hợp với quy luật phát triển nông
nghiệp nói chung, chúng ta sẽ xem xét tình hình phát triển kinh tế hộ , kinh
tế trang trại ở một số nước trên thế giới. Từ đó chúng ta có thể rút ra được
những kinh nghiệp và xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân.
- Vương quốc Hà Lan.
Là một đất nước nhỏ bé với diện tích 41500km 2, dân số 14806000
người trong đó số lao động nông nghiệp chỉ chiếm 5,7% dân số, nhưng
hàng năm đã sản xuất ra một lương lương thực - thực phẩm không những
đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu 48,3 tỷ Gulden sản phẩm
nông nghiệp năm 1990.
Mỗi một lao động nông nghiệp ở Hà Lan có thể nuôi được 112 người.
Toàn bộ sản xuất nông nghiệp ở Hà Lan được tổ chức chủ yếu theo nông
trại. Năm 1960 có 300 nghìn nông trại thì đến năm 1985 chỉ còn 138 nghìn.
Các nông trại tổ chức gọn với diện tích trung bình khoảng 10ha đất canh
tác, sử dụng lao động gia đình là chính. Các nông trại được trang bị đầy đủ
mọi dụng cụ, máy móc cần thiết, số nông trại chăn nuôi chiếm 17%.
- Ở Pháp:
Đơn vị sản xuất phổ biến trong nông nghiệp là nông trại gia đình.
Năm 1956 đã có khoảng 2,5 triệu nông trại với 4 triệu lao động canh tác
trên diện tích 32 triệu ha. Quy mô canh tác bình quân của một nông trại đây


là 15 đến 20ha, nay tăng lên 20 đến 50ha. Có 70% nông trại chăn nuôi từ
20 bò sữa trở lên. Nông trại ở Pháp chủ yếu sử dụng lao động và công cụ
máy móc của gia đình.
- Ở Đan Mạch:
Dân số của Đan Mạch là 5 triệu người, trong đó lao động nông nghiệp

chiếm 6% lực lượng lao động toàn xã hội. Nền nông nghiệp của Đan Mạch
chủ yếu cơ cấu theo các đơn vị hộ và trang trại. Khoảng 87% các đơn vị
sản xuất này sử dụng lao động là các thành viên trong gia đình và họ hàng
thân thiết làm ở tất cả các khâu sản xuất. Chỉcó 13% số đơn vị có thuê lao
động song cũng thường xuyên từ 2 người trở lên. Nghành chăn nuôi của
Đan Mạch phát triển khá mạnh, cả nước hiện nay có khoảng 34 nghìn đàn
bò sữa. Một điều khá đặc biệt ở đây là có các hệ thống trường học và cac tổ
chức riêng của nông dân chịu trách nhiệm đào tạo nghề nghiệp cho thanh
niên nông thôn. Một nông dân Đan Mạch có thể sản xuất một lượng nông
sản đủ cung cấp cho khoảng160 người.
- Ở Thụy Điển:
Nông lâm nghiệp ở nước này được tổ chức chủ yếu theo đơn vị nông
trại gia đình. Hiện nay cả nước có khoảng 100 nghìn nông trại các loại .
Quy mô bình quân một nông trại là 30ha đất, chăm sóc 60ha rừng và nuôi
25 bò sữa, 25 bò thịt. Các nông trại thường canh tác trên đất riêng hoặc
thuê của nhà nước thời hạn từ 5 đến 25 năm. Mỗi nông trại bình quân có 2
lao động và hai máy kéo. Hàng năm, đại diện của nông dân, của người tiêu
dùng và đại diện chính phù hợp lại để định giá bán lẻ các loại nông sản
thực phẩm trong năm.
- Ở Mỹ:
Hoa Kỳ là nước từ nhiều năm nay dẫn đầu thế giới về sản xuất nông
nghiệp. Năm 1987, xuất khẩu nông phẩm của Hoa Kỳ đạt 46 tỷ đôla, đó là
con số cực kỳ lớn nói lê vị trí dẫn đầu của họ. Ngoài điều kiện thiên thuân
lợi, kết quả ấy còn do yếu tố tổ chức sản xuất hợp lý mang lại. Người Mỹ


×