Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

MỘT số vấn đề lý LUẬN về báo CHÍ CHO TRẺ EM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.98 KB, 27 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ CHO TRẺ EM
1.1. TRẺ EM VÀ TRẺ EM Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1.1. Trẻ em
1.1.1.1. Định nghĩa trẻ em

“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” từ lâu đã trở thành khẩu lệnh
trong các chương trình hành động vì trẻ em và cho trẻ em ở mỗi quốc gia và
cộng đồng quốc tế. Thế nhưng, việc định nghĩa về trẻ em đến nay vẫn chưa
được thống nhất. Bởi tùy theo môi trường, hoàn cảnh, trình độ văn hoá và
nhận thức của mỗi người, mỗi quốc gia, trẻ em được định nghĩa khác nhau.
Tuy nhiên, để dễ dàng xác định ai là đối tượng trẻ em và để thuận lợi trong
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở mỗi quốc gia, Công ước đã đưa ra một
quy định chung mang tính quốc tế là “Trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ
trường hợp luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn” [58,
tr.2].
Theo Pháp luật Việt Nam “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi” [65, tr.4]. Như vậy, do điều kiện cụ thể của đất nước, trẻ em Việt Nam
được hiểu nhỏ hơn trẻ em quy định trong Công ước.
1.1.1.2. Trẻ em - đối tượng luôn nhận sự quan tâm đặc biệt của

Đảng và Nhà nước ta
Trẻ em là người kế tục sự nghiệp cách mạng của thế hệ đi trước, vì
vậy, các em luôn nhận sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và toàn xã
hội qua đạo lý dân tộc, đạo đức xã hội và trách nhiệm pháp lý. Điều này thể
hiện rõ tại điều 65, Hiến pháp nước CHXHCN năm 1992: “Trẻ em được gia
đình, Nhà nước, và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục” [63, tr.39]; điều 5,
Luật BVCS&GDTE (sửa đổ, bổ sung): “Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và công dân.
Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan
đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu” [65, tr.6].



Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tình yêu thương vô bờ
cho trẻ em. Người viết trong bài Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo
dục thiếu niên, nhi đồng: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của
đất nước… Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành
phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các bé cho tốt” [60, tr.467-468].
Thực hiện lời dạy của Người, trong mọi chặng đường phát triển đất nước,
Đảng, Nhà nước ta luôn xác định “Quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng
một lớp người mới không những phục vụ cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa
hiện nay mà còn cho sự nghiệp xây dựng cộng sản chủ nghĩa sau này” [57,
tr.14]. Vì vậy, công tác BVCS&GDTE được Đảng đưa ra bàn luận tại các kỳ
đại hội, hội nghị lớn. Điển hình nhất là tại Hội nghị toàn quốc kiểm điểm 4
năm thực hiện Chỉ thị 38-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa
VII, Đảng đã tập trung bàn luận nhiều biện pháp đẩy mạnh công tác
BVCS&GDTE. Tại đây, nguyên Tổng Bí thư Trung ương Đảng - Lê Khả
Phiêu phát biểu:
Một trong những quan điểm cơ bản chi phối toàn bộ đường
lối của Đảng ta là coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, mà trẻ em là lớp măng non, là nguồn hạnh phúc của mỗi gia
đình, là tương lai của dân tộc... khi các em còn chưa phát triển đầy
đủ, còn non nớt cả thể chất và tinh thần, dễ bị tổn thương thì việc
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn luôn là mối quan tâm đặc
biệt, hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta [75, tr.1].
Trẻ em chiếm tỷ lệ càng cao, Đảng và Nhà nước càng quan tâm hơn.
Từ khi ký Công ước, Việt Nam luôn tôn trọng và luật hoá các quyền cơ bản
của trẻ em trên cơ sở phù hợp với hiến pháp và pháp luật Việt Nam, cụ thể là
Luật BVCS&GDTE nhiều lần đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với từng



giai đoạn phát triển; hàng loạt các chương trình hành động quốc gia vì trẻ
em đã được triển khai. Trong cuộc tiếp đón Phó Giám đốc điều hành Quỹ
Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) - Kul Gautam, ngày 27.3.2007, tại Hà
Nội, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội - Trương Quang Được khẳng định:
“Việt Nam luôn hết sức nỗ lực thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế và bảo
vệ quyền trẻ em. Đây cũng là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam” [92, tr.2].
1.1.2. Trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Vài nét về Thành phố Hồ Chí Minh năng động và phát triển

Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng
là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của miền Nam Việt Nam.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông
Cửu Long, “Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích tự nhiên 2.095 km 2, khí
hậu nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo, nhiệt độ trung bình từ 25-27 độ [66,
tr.447]. Tính đến ngày 1.4.2009, Thành phố có trên 7,1 triệu dân đang sinh
sống tại 24 quận, huyện. Về cơ cấu dân tộc, người Kinh chiếm 92,9%, tiếp
đến là người Hoa với 6,69%, còn lại là các dân tộc Chăm, Khơ me
Chính vị trí địa lý đã làm cho TP HCM đa dạng về văn hóa. Sự giao
lưu văn hóa giữa các dân tộc đang sinh sống và làm việc trên địa bàn, sự hấp
thụ thêm nhiều nền văn hóa của các nước trên thế giới qua hoạt động kinh tế,
du lịch càng làm cho Thành phố tuy hình thành chỉ hơn 300 năm, đã chứa
đựng trong lòng nhiều giá trị văn hoá nhân văn - văn hoá lịch sử trên nền
tảng văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Với vai trò là một trong
những trung tâm văn hóa lớn của cả nước, TP HCM hiện có 22 đơn vị nghệ
thuật, 9 rạp hát, 11 bảo tàng, 22 rạp chiếu phim, 25 thư viện.
Về kinh tế, TP HCM là địa phương đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, đạt
được những thành tựu quan trọng trong việc khuyến khích các thành phần kinh



tế cùng phát triển. Hiện nay, TP HCM vẫn giữ vai trò đầu tàu kinh tế của Việt
Nam. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người ở Thành phố đạt 2.100
USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 730 USD/năm vào năm
2006. “Năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố cao hơn tốc độ
chung cả nước 1,6 lần (ước đạt 11%). Tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa
bàn Thành phố ước đạt 290.905 tỷ đồng (giá thực tế), tăng khoảng 11% (năm
2007 là 12,6%)” [86].
Về nhân văn, con người Thành phố luôn thể hiện tính năng động, sáng
tạo, nhạy bén với kỹ thuật và công nghệ mới. GS, TS. Nguyễn Minh Hòa
nhận định: “Thành phố là nơi mà bất kỳ ai, cho dù trước đó sống ở nơi đâu,
khi đến định cư nơi đây đều trở nên năng động, cởi mở, hòa đồng, bớt dần
màu mè hình thức, đố kỵ, cực đoan để hướng đến tính hiệu quả và thực dụng
tích cực” [31, tr.11].
Từ những đặc điểm trên,
TP HCM được cả thế giới biết đến không chỉ là một
thành phố anh hùng trong các cuộc chiến tranh chống ngoại
xâm, mà còn biết đến là một trong năm thành phố lớn nhất
Đông Nam Á (Bangkok, Metro Malia, Jakarta, Kuala Lumpur,
TP HCM) và là thành phố đông dân nhất Việt Nam, hơn thế
nữa nó là thành phố năng động, cởi mở, có tốc độ tăng trưởng
kinh tế vào loại nhanh ở Đông Nam Á trong hai thập kỷ qua
[31, tr.3,11].
Bước vào thế kỷ mới, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và cách
mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, TP HCM đang tăng tốc
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010. Trong đó, mục
tiêu phát triển kinh tế song hành với mục tiêu phát triển con người. Cụ thể,
TP HCM phấn đấu đạt “quy mô dân số khoảng 10 triệu người và GDP bình


quân đầu người đạt khoảng 4540 USD vào năm 2010” [66, tr.447]. Để đạt

mục tiêu,
Thành phố quan tâm nhiều hơn công tác chăm lo phát triển, nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo để nhanh chóng nâng cao dân
trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đào tạo nguồn nhân
tài cho Thành phố và cho đất nước; phát triển đi đôi với chỉ đạo và
quản lý chặt chẽ các hoạt động phát thanh, truyền hình, internet, báo
chí, xuất bản… và quan tâm chăm sóc trẻ em [62, tr.23].
1.1.2.2. Trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh

“Thành phố Hồ Chí Minh hiện có hơn 7,1 triệu dân (chưa tính người
vãng lai), trong đó có 1,86 triệu trẻ em dưới 16 tuổi” [95]. So với các thành
phố khác, trẻ em ở TP HCM đông nhất cả nước.

Bảng 1.1: Trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh so với các thành phố khác
Ghi chú:

Thành phố Cần Thơ

: 260.000/1,2 triệu dân

Thành phố Hà Nội

: 1,5 triệu/6,4 triệu dân

Thành phố Hồ Chí Minh

: 1,86 triệu/7,1 triệu dân

Bà Phan Thanh Minh - Trưởng Phòng Bảo vệ và chăm sóc trẻ em
TP HCM thuộc Sở LĐTB&XH cho rằng: “Đây là nguồn lực dồi dào và

cũng là nỗi lo lớn trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của


Thành phố hiện nay”. Là thành phố có nền công nghiệp, du lịch phát
triển, TP HCM không chỉ thu hút lực lượng lao động người lớn (tỷ lệ dân
nhập cư chiếm khoảng 30% dân số Thành phố), mà còn thu hút một lượng
lớn trẻ em [79]. Có trẻ theo cha mẹ lập nghiệp, cũng có trẻ tự di cư một
mình. Các em kiếm sống bằng nhiều việc như bán vé số, đánh giày, phục
vụ quán ăn… Với mức thu nhập trung bình 20.000 đồng/ngày đã làm cho
tỷ lệ trẻ em nghèo của Thành phố tăng thêm. “Ngoài số trẻ lao động xa
gia đình chưa thống kê được, toàn Thành phố có 16.500 trẻ có hoàn cảnh
khó khăn cần được hỗ trợ, trong đó, trẻ từ các tỉnh khác đến chiếm 70%”
[82].
Nghèo đi đôi với các vấn đề an sinh xã hội. Tình trạng trẻ em lang
thang, ăn xin, bị lạm dụng tình dục, phạm pháp ở Thành phố chiếm tỷ lệ cao,
đứng đầu cả nước.
Năm 2008, trong tổng số 11.500 bị can bị khởi tố thì có 1.118
bị can dưới 18 tuổi, chiếm tỷ lệ bình quân 9,7% ở các loại tội
phạm, đặc biệt một số loại tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm
trọng chiếm tỷ lệ cao như cướp giật tài sản 17,2%, giết người
19,3%, cướp tài sản 30,2%, hiếp dâm trẻ em 51%. Đáng chú ý là,
có một số vụ giết người, cố ý gây thương tích mà đối tượng phạm
tội hoặc nạn nhân là học sinh cấp 2, cấp 3. Theo Viện phó Viện
Kiểm sát nhân dân TP HCM - Nguyễn Ngọc Điệp, có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có nguyên nhân kinh
tế xã hội, bị tác động của mặt trái thị trường, sự phân hoá giàu nghèo, dân cư tăng đột biến về cơ học [55].
Tuy còn một phận trẻ em ở TP HCM sống trong khó khăn, phức tạp
nhưng nhìn chung trẻ em ở Thành phố luôn được các cấp ủy đảng, chính
quyền quan tâm thông qua việc cụ thể hóa luật, các văn bản dưới luật liên
quan đến trẻ em, đưa công tác BVCS&GDTE vào trong các nghị quyết phát



triển kinh tế, xã hội của Thành phố. Đặc biệt, hàng năm, Thành phố thực
hiện các chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Từ năm 2006-2008,
có 1.700 em được chăm sóc, nuôi dạy tại 6 Trung tâm Bảo trợ xã hội thuộc
Sở LĐTB&XH, 1.300 em được hưởng trợ cấp thường xuyên tại cộng đồng
với mức 150.000 đồng/em/tháng. Ngoài ra, Thành phố còn thực hiện một số
chế độ hỗ trợ cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn như cấp xe lăn miễn phí, cấp
thẻ xe buýt miễn phí, miễn giảm học phí...
Phải thừa nhận rằng, so với trẻ em ở các tỉnh, thành khác, trẻ em ở TP
HCM may mắn thừa hưởng một nền văn hoá đa dạng, tiên tiến, một nền
kinh tế phát triển cùng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại. Các em
có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt nhờ mạng lưới y tế rộng khắp từ xã,
phường, quận, huyện đến các bệnh viện lớn nhất miền Nam, trong đó có 2
bệnh viện dành riêng cho đối tượng trẻ em là Nhi Đồng 1 và Nhi Đồng 2.
Việc học hành của trẻ em cũng được Thành ủy, UBND Thành phố chăm lo
với hệ thống trường lớp khang trang, trang thiết bị giảng dạy hiện đại. Hàng
năm, “TP HCM huy động 100% trẻ em vào mẫu giáo, 100% trẻ đến trường
tiểu học, và 99,9% trẻ đến trường trung học cơ sở” [79]. Ngoài hệ thống
trường công lập, trên địa bàn Thành phố còn có hàng chục trường mầm non,
tiểu học, trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT) dân lập đạt
tiêu chuẩn quốc tế, tạo cơ hội cho trẻ em được học tập, tiếp cận với các
phương pháp giảng dạy hiện đại của thế giới, đáp ứng nhu cầu trau dồi trình
độ ngoại ngữ, vi tính, phát huy năng khiếu của phần lớn trẻ em ở Thành phố.
Về giải trí, mỗi quận, huyện của Thành phố đều có nhà thiếu nhi, trung tâm
văn hóa - thể dục - thể thao, nhiều tụ điểm vui chơi giải trí lớn như Đầm
Sen, Suối Tiên, Sài Gòn Water Park… Hệ thống thư viện không ngừng được
mở rộng. Hiện nay, Thư viện Tổng hợp TP HCM có phòng đọc dành riêng
cho trẻ em với hàng ngàn đầu sách, báo tiếng Việt lẫn tiếng Anh nhằm hỗ
trợ trẻ em trau dồi kiến thức.



Đặc biệt, trẻ em ở TP HCM có điều kiện tiếp cận, hưởng thụ hàng
chục sản phẩm văn hóa được sản xuất từ 39 đơn vị báo chí và 113 văn phòng
đại diện báo chí trung ương và các tỉnh, 3 nhà xuất bản của Thành phố và 21
chi nhánh nhà xuất bản trung ương cùng mạng lưới thông tấn xã, các đài PT,
TH địa phương và trung ương. TP HCM có báo chí dành cho trẻ em rất phát
triển, không thua kém so với báo chí dành cho người lớn.
Từ đầu những năm 2000, TP HCM có sự bùng phát về
tăng trưởng thông tin báo chí, bùng phát về số lượng phát hành,
nâng chỉ số được thu nhận và hưởng thụ thông tin của nhân dân
với nhu cầu và trình độ không ngừng tăng lên nhiều lần so với
trước. Trong danh sách các báo ngày và tuần báo tăng ấn phẩm,
tăng trang, số lượng phát hành lớn nhất ở TP HCM phải kể đến
Báo Khăn Quàng Đỏ với tờ Mực Tím [20, tr.121].
1.1.2.3. Tâm lý tiếp nhận báo chí của trẻ em Thành phố Hồ Chí

Minh
Vị trí địa lý ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, phong tục tập quán từ đó
dẫn đến hệ quả về thói quen, văn hóa đọc, nghe, xem của người dân Thành
phố, trong đó có trẻ em.
Trẻ em phát triển phụ thuộc vào điều kiện sống và chịu sự phi phối
của xã hội, nhất là về kinh tế, văn hóa… Vì thế, có ý kiến cho rằng trẻ em ở
Thành phố phát triển sớm hơn trẻ em ở nông thôn. Điều này hoàn toàn đúng.
Bởi càng sống trong môi trường năng động, hiện đại thì nhu cầu vui chơi
giải trí, học tập của trẻ em càng cao. Dù vậy, về phương diện nào đó, trẻ em
ở TP HCM cũng như những trẻ em khác, vẫn phải trải qua những giai đoạn
phát triển cơ bản “phát triển thể chất - sinh lý, phát triển nhận thức và phát
triển nhân cách” [26]. Đặc biệt, giai đoạn phát triển tâm lý chủ yếu chia
theo từng nhóm tuổi cụ thể như tuổi trước đi học (từ 0-6 tuổi), tuổi nhi đồng

(cấp tiểu học, từ 6-12 tuổi), tuổi thiếu niên (cấp THCS và THPT, từ 12-18


tuổi). Và, theo nhà tâm lý học Eric Ericson, sự phát triển nhân cách của trẻ
em được chia thành 5 giai đoạn: sơ sinh; nhà trẻ; mẫu giáo; đi học; vị thành
niên.
- Giai đoạn sơ sinh (từ 0-1,5 tuổi) là giai đoạn trẻ em chủ yếu ăn, ngủ,
phối hợp với các phản xạ mang tính bột phát. Đến khoảng từ 4-12 tháng
tuổi, trẻ mới phát triển các động tác biểu cảm, cộng sinh cảm xúc. Các em
rất cần sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ.
- Giai đoạn nhà trẻ (từ 1,5-3 tuổi) là lúc trẻ mới tập đi, tập định hướng,
hình thành sự tự chủ (cảm giác sự tự kiểm soát và quyết định). Đặc điểm nổi
bật của trẻ trong giai đoạn này là tỏ ra độc lập và không vâng lời.
Ở hai giai đoạn trên, trẻ em chưa có khả năng tiếp nhận báo chí. Báo
chí cho trẻ em ở giai đoạn này chính là kênh thông tin hỗ trợ đắc lực cho
người lớn, nhất là các bậc cha mẹ, thầy cô nhằm cung cấp những kiến thức
cần thiết trong việc chăm sóc thể chất lẫn tinh thần cho trẻ em, giúp các em
vượt qua cuộc “khủng hoảng lứa tuổi”, “tuổi bất trị” (theo cách gọi của J.
Henry và P. Bertrand, 1998; Vưgôtsky, 1987) [94]. Đây chính là nền tảng,
cơ sở vững chắc cho sự phát triển tâm lý của trẻ sau này.
- Giai đoạn mẫu giáo (từ 3-6 tuổi) là giai đoạn trẻ em thể hiện sự hiếu
thắng, hiếu động, hiếu kỳ, bắt chước và giàu sức tưởng tượng. Ở lứa tuổi
này, trẻ em tiếp nhận được báo chí, nhất là TH nhưng tiếp nhận một cách thụ
động, máy móc. Trẻ thích xem những gì mới, lạ và bắt chước lời nói, hành
động của nhân vật. Các em chưa phân biệt lợi - hại, tốt - xấu. Vì thế, các ấn
phẩm báo chí, những chương trình TH, PT dành cho trẻ em mang tính khám
phá, giáo dục, hỗ trợ trẻ em phát triển nhận thức trực quan, hướng dẫn trẻ
tiếp cận và tìm hiểu thế giới âm thanh, màu sắc, thế giới động vật, thực vật,
môi trường xung quanh… là rất cần thiết.
- Giai đoạn đi học (từ 6-tuổi dậy thì): Từ lớp 1-2, trẻ em chú ý vô thức

và tư duy hình tượng cụ thể. Từ lớp 2-9, các em đã nhận thức được ngôn


ngữ nói, ngôn ngữ viết và hình ảnh. Vì thế, các em có khả năng tiếp cận và
chịu ảnh hưởng từ báo chí. Hiện nay, trẻ em ở TP HCM, từ 6 tuổi trở lên đã
tiếp cận được với báo chí như đọc báo, nghe PT, xem TH, truy cập internet.
Ngoài ra, các em có khả năng tham gia sản xuất báo chí, ví dụ như tham gia
các chương trình TH, PT dành cho thiếu nhi. Đặc biệt, các em đã nhận thức,
nhận xét được các tác phẩm báo chí. Chẳng hạn, sau khi xem xong bộ phim
hoạt hình, các em có thể nhận xét hay hay dở; nhân vật trong bộ phim có
hành vi tốt hay xấu. Vì thế, những câu chuyện thường nhật dễ hiểu, gần gũi,
những vấn đề khoa học - đời sống, thưởng thức… rất cần đối với trẻ em, góp
phần kích thích sự sáng tạo của trẻ, giúp trẻ hiểu và học những điều hay lẽ
phải, có cách cư xử và hành vi đúng. Các em cũng cần nhiều chuyên trang,
chuyên mục, chương trình về từng vấn đề cụ thể của lứa tuổi nhằm mở rộng
hiểu biết, suy nghĩ, kiểm soát, điều chỉnh hành động của mình.
- Giai đoạn vị thành niên (từ tuổi dậy thì-18 tuổi) là giai đoạn trẻ em
phát triển nhanh về thể lực và trí lực. Đây là thời kỳ then chốt sự phát triển
tâm lý của con người. Về trí nhớ, nam từ 11-12 tuổi, nữ từ 10-11 tuổi đã
chuyển một phần từ ghi nhớ máy móc sang ghi nhớ ý nghĩa. Nam từ 14-15
tuổi, nữ từ 13-14 tuổi chuyển từ nhớ ý nghĩa từng phần sang nhớ ý nghĩa
toàn bộ. Về tư duy, từ tư duy cụ thể, lấy tôi làm trung tâm đã phát triển tới tư
duy lô gíc, tư duy trừu tượng; khả năng phân tích, tổng hợp, suy luận và
phán đoán được nâng cao. Về tính tình, ở thời kỳ đầu và giữa của tuổi dậy
thì, tính tình các em không ổn định, rất dễ chuyển từ cực này sang cực khác.
Nguyên nhân, nếu xét theo cơ chế sinh lý là do chức năng nội tiết phát triển
nhanh nhưng tác dụng ức chế của vỏ não thì chưa ở mức hoàn hảo. Nếu xét
ở khía cạnh xã hội, đó chính là mâu thuẫn giữa nhu cầu ngày càng nhiều và
mạnh của vị thành niên với nhận thức chưa đầy đủ về tính phức tạp của xã
hội, cũng như chưa hiểu rõ tính hợp lý và tính khả thi trong hành vi của bản

thân. Vì nguyện vọng và hiện thực chưa thống nhất được nên dẫn đến những


xáo động lớn trong tính tình. Nhưng nhìn chung, dù có tính thất thường và
lưỡng cực, thì đặc điểm tính nết của lứa tuổi vị thành niên vẫn là mạnh mẽ,
tình cảm phong phú và nhiệt tình. Ngoài ra, ở lứa tuổi này, các em có sự
phát triển mạnh mẽ về tâm lý giới tính, có thể chia thành 3 giai đoạn: giai
đoạn có ý thức phân biệt người khác giới, giai đoạn sắp trở thành người khác
giới và mối tình đầu.
Có thể nói, trẻ em ở giai đoạn này rất cần sự đa dạng hoá của báo chí,
nhất là về nội dung. Các em rất cần những kiến thức về giới tính, định hướng
nghề nghiệp, cung cấp tri thức, kinh nghiệm xã hội - lịch sử, cách ứng xử
trong tình bạn, tình yêu, thông tin thời sự nóng bỏng liên quan đến lứa tuổi
dậy thì… Báo chí cho trẻ em dựa vào đặc điểm nổi bật này để sáng tạo ra
những tác phẩm báo chí đáp ứng nhu cầu của các em. Tác phẩm báo chí hay
sẽ tác động tích cực đến nhận thức và hành vi của nhóm tuổi này. Để các em
phát triển hoàn hảo nhân cách, thẩm mỹ, báo chí cho trẻ em phải mang tính
định hướng và giáo dục cao. Nên lưu ý tính liều lượng và tính lưỡng cực của
lứa tuổi này, bởi nó có tác động trực tiếp đến việc hình thành định hướng giá
trị, thị hiếu thẩm mỹ và nhân cách của vị thành niên. Báo chí cũng cần tổ
chức các hoạt động giao lưu trực tiếp và gián tiếp, sử dụng có hiệu quả sự
tham gia của trẻ em trong hoạt động sáng tạo.
Tóm lại, sự phân chia giai đoạn phát triển nhận thức và phát triển
nhân cách của trẻ em nhằm khẳng định những đòi hỏi riêng biệt của trẻ em
đối với báo chí dành cho chính mình.
1.2. BÁO CHÍ VÀ TRẺ EM
1.2.1. Báo chí và các chức năng xã hội của báo chí
1.2.1.1. Khái niệm báo chí

Tại điều 3, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm

1999, quy định:


Báo chí gồm báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin
thông tấn); báo nói (chương trình phát thanh); báo hình (chương
trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện
bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau); báo điện tử (được thực
hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân
tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài [18, tr.212].
Trong đó:
- Báo in ở đây là những ấn phẩm xuất bản định kỳ, đăng tải các sự
kiện và vấn đề thời sự, phát hành rộng rãi nhằm phục vụ công chúng - nhóm
đối tượng nào đó với mục đích nhất định.
- Báo nói (phát thanh) là kênh truyền thông đại chúng sử dụng kỹ
thuật sóng điện từ và hệ thống truyền dẫn truyền đi âm thanh tác động trực
tiếp vào thính giác người tiếp nhận. Hay nói cách khác, báo nói là một
phương tiện truyền thông đại chúng truyền tải thông tin dưới dạng ngôn ngữ
và âm thanh, không có hình ảnh.
- Báo hình (truyền hình) là kênh truyền thông chuyển tải thông điệp
bằng hình ảnh động với đầy đủ sắc màu vốn có từ cuộc sống cùng với lời
nói, âm nhạc, tiếng động. Sự xuất hiện của TH như một điều thần kỳ trong
sáng tạo của con người. Với sự kết hợp giữa hình ảnh động và âm thanh, TH
mang lại cho con người cảm giác về một cuộc sống rất thật hiện diện trước
mắt.
- Báo mạng điện tử là kênh truyền thông đặc thù, kênh truyền thông
đa phương tiện, truyền tải dung lượng thông tin khổng lồ, có thể nói là vô
hạn định với tốc độ siêu nhanh nhờ vào mạng thông tin toàn cầu internet
(International Network).
1.2.1.2. Chức năng xã hội của báo chí


Xuất phát từ nền tảng cơ sở lý luận: Báo chí Việt Nam đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự giám sát và xây dựng của nhân


dân. Ngay tại điều 1, Luật Báo chí ban hành ngày 2.1.1989 đã khẳng định:
“Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin
đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ
chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ
chức); là diễn đàn của nhân dân” [89].
Trong tác phẩm Cơ sở lý luận báo chí do PGS, TS. Tạ Ngọc Tấn (chủ
biên) đã nêu chức năng của báo chí gồm “chức năng tư tưởng, chức năng
quản lý và giám sát xã hội, chức năng khai sáng - giải trí” [84, tr.83-128].
Tác phẩm Cơ sở lý luận báo chí truyền thông của Trường Đại học Quốc gia
Hà Nội cho rằng, báo chí có chức năng “giáo dục tư tưởng, chức năng quản
lý và giám sát xã hội, chức năng phát triển văn hóa và giải trí” [81, tr.7393].
Nói đến báo chí là nói đến thông tin, là nói đến những sự kiện, vấn đề
mới nảy sinh hoặc đang thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhiều giai
tầng trong xã hội. Chức năng thông tin là chức năng đầu tiên và cũng là chức
năng muôn đời của báo chí. Nguyên Tổng Bí thư - Lê Khả Phiêu trong bài
phát biểu tại Hội thảo toàn quốc Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân
của nhà báo do Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức ngày 27.12.1998 đã nhấn
mạnh:
Thông tin là chức năng cơ bản của báo chí, xã hội càng phát
triển thì nhu cầu thông tin càng cao, càng đa dạng, phong phú. Là
nhà báo chân chính, phải lựa chọn, xử lý thông tin nhanh chóng,
trung thực, chính xác, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của
công chúng, đúng định hướng chính trị của Đảng, tác động tích
cực có hiệu quả đến tiến bộ xã hội. Đó là sức mạnh của báo chí
[32].
Báo chí là loại hình truyền thông quan trọng của Đảng thực hiện chức

năng giáo dục tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dặn: “… Chính trị phải


làm chủ”, “Chính trị đúng thì việc khác mới đúng” [61, tr.414]. Theo quan
điểm của V.I. Lênin, báo chí “tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức
tập thể” [45, tr.5], đưa đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đến với các tầng lớp nhân dân, tạo nên hành động cách mạng sôi nổi,
rộng khắp, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN. Mặt khác, báo chí còn là diễn đàn tin cậy của nhân dân,
phản ánh tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước. Báo chí tuyên truyền, cổ vũ các nhân tố mới, những điển hình tiên
tiến, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu
cực trong xã hội, chống thông tin quan điểm sai trái, âm mưu “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch, phản động.
Báo chí còn có vai trò quan trọng và sức mạnh to lớn trong hoạt động
kiểm tra, giám sát, can dự vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Báo chí
thực hiện chức năng quản lý và giám sát xã hội bằng việc cung cấp thông tin
cho xã hội, hình thành và định hướng dư luận xã hội theo mục đích nhất
định của chế độ, của giai cấp, bằng các nội dung chủ yếu như: đăng tải, phổ
biến, giải thích đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các cấp, ngành
cho các tổ chức và các thành viên xã hội biết, hiểu, nhận thức và hành động
trong thực tiễn; tham gia tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các ngành trong xã hội;
phản ánh, phân tích kịp thời tình hình thực tế, hiện trạng công việc của các
địa phương, cơ sở sản xuất hoặc một số vấn đề nào đó trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; cùng nhân dân đề xuất sáng kiến, đưa ra kiến nghị,
giải pháp cho hoạt động quản lý hiệu quả hơn.
Bên cạnh chức năng giáo dục tư tưởng và quản lý, giám sát xã hội,
phát triển văn hóa và giải trí là một trong những chức năng khách quan của
báo chí. Báo chí là kênh truyền bá, phổ biến một cách sinh động, hấp dẫn



các loại hình và tác phẩm văn hóa - văn nghệ để nâng cao trình độ hiểu biết
và đáp ứng nhu cầu văn hóa - giải trí của nhân dân. Thực hiện chức năng
này, báo chí quan tâm hàng đầu đến những giá trị văn hóa - nhân văn. Đó là
phổ biến tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc, điêu khắc, hội họa, kiến
trúc… Đây là điều kiện quan trọng để đại chúng hóa các giá trị văn hóa, tinh
thần tốt đẹp của dân tộc và nhân loại, giúp cho mọi thành viên của xã hội
không ngừng bổ sung vốn tri thức, làm phong phú thêm đời sống tinh thần
của mình.
Báo chí vừa là công cụ tích cực, hữu hiệu trong việc truyền
bá sản phẩm văn hóa, vừa là địa chỉ hội tụ và kiểm nghiệm những
giá trị văn hóa. Sức mạnh và ưu thế của báo chí trong việc truyền
bá, phổ biến các sản phẩm văn hóa - giải trí là thông qua hoạt
động này để cùng lúc đạt hai mục đích: giáo dục chính trị - tư
tưởng và giáo dục đạo đức, thẩm mỹ cho công chúng, hướng công
chúng tới chân - thiện - mỹ, làm phong phú và giàu có đời sống
tinh thần của họ. Vì vậy, có thể nói, báo chí là thước đo tầm cao
của văn hóa, là công cụ để truyền bá, hướng dẫn và lưu giữ các
nội dung và giá trị văn hóa và bản thân báo chí cũng là văn hóa
[81, tr.92].
Đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của xã hội, làm phong phú
thêm nội dung thông tin của báo chí và đáp ứng nhu cầu thiết thực của nhân
dân, báo chí còn thực hiện chức năng quảng cáo, dịch vụ, chỉ dẫn, dự báo
thời tiết, giá cả thị trường… Qua những hoạt động này, báo chí có thể giúp
công chúng tìm kiếm những hàng hóa và dịch vụ cần thiết, tiết kiệm thời
gian và mang lại không ít lợi ích kinh tế cho người dân. Đồng thời truyền bá
phong tục, tập quán, đạo đức, lối sống của một dân tộc.
Với các chức năng trên, báo chí không ngừng tác động đến tư tưởng,
tình cảm, đạo đức, nhân cách, lối sống của con người, trong mối quan hệ



mọi lĩnh vực đời sống xã hội, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội trên
bình diện cộng đồng cũng như hình thành nhân cách cá nhân, trong đó có trẻ
em.
1.2.2. Mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em

Báo chí và trẻ em có mối quan hệ gắn kết với nhau. Trẻ em là đối
tượng phản ánh của báo chí. Báo chí tiếp cận vấn đề từ trẻ em để sáng tạo
ra những tác phẩm báo chí cho trẻ em và cho cả người lớn. Trẻ em là công
chúng của báo chí, là đối tượng tiếp nhận, theo dõi, đánh giá các sản
phẩm báo chí. Đồng thời, trẻ em còn là người tham gia sáng tạo tác phẩm
báo chí (trực tiếp hoặc gián tiếp). Ngược lại, báo chí là diễn đàn để trẻ em
nói lên tiếng nói, suy nghĩ của mình về cuộc sống xung quanh; là phương
tiện truyền tải những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước dành cho trẻ em và là công cụ giám sát việc thực hiện, thu nhận ý
kiến phản hồi của trẻ em, các bậc cha mẹ để Đảng, Nhà nước kịp thời điều
chỉnh, bổ sung chính sách, pháp luật cho phù hợp với lợi ích của trẻ em.
Báo chí ngày nay trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với đời
sống của trẻ em. Trẻ em xem báo chí là trường học thứ hai để trau dồi
kiến thức, mở rộng tầm nhìn.
Mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em được xác định khi Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam ra đời. Tại điều 69 quy định: “Công dân có quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin” [63, tr.39-40]. Như
mọi công dân khác, trẻ em “có quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến
và tham gia hoạt động xã hội. Cụ thể là có quyền được tiếp cận thông tin
phù hợp với sự phát triển của trẻ em, được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về
những vấn đề mình quan tâm. Trẻ em được tham gia hoạt động xã hội phù
hợp với nhu cầu và năng lực của mình” [65, tr.11].
Khi Việt Nam ký Công ước, trẻ em càng được hưởng các quyền chính

đáng của mình:


- Quyền được thông tin: Trẻ em có quyền được đọc sách báo,
xem các chương trình truyền hình và nghe các chương trình phát
thanh phù hợp với lứa tuổi của các em. Các bậc cha mẹ cần biết
con mình đọc gì và xem gì, để hướng dẫn các em tránh đọc, xem
những điều làm cho các em sợ hãi, nhầm lẫn hoặc làm hại đến các
em.
- Quyền được tự do bày tỏ ý kiến: Trong tất cả mọi quyết
định có ảnh hưởng đến trẻ em được đưa ra trong gia đình, trường
học, toà án, bệnh viện hay tại bất kỳ một cơ quan nào khác, người
lớn cần lắng nghe ý kiến của các em và làm những điều tốt nhất
cho các em [65, tr.81,83,84].
- Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả
năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do bày tỏ
những quan điểm đó về tất cả mọi vấn đề tác động đến trẻ em, những
quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng phù
hợp với độ tuổi và độ trưởng thành của trẻ. Với mục đích đó, trẻ em
phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình [1, tr.26-28].
Để đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến của trẻ em,
“gia đình, Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện, giúp đỡ trẻ em
được tiếp cận thông tin phù hợp, được phát triển tư duy sáng tạo và bày tỏ
nguyện vọng; có trách nhiệm lắng nghe và giải quyết nguyện vọng chính
đáng của trẻ em” [65, tr.18].
Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội,
là diễn đàn của nhân dân, vì vậy báo chí có trách nhiệm cung cấp thông tin
và sẵn sàng tiếp nhận thông tin của trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em thực
hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và quyền được nhận thông tin phù
hợp với lứa tuổi của mình. Báo chí phải góp sức đem lại lợi ích tốt nhất cho

trẻ em như điều 5, Luật BVCS&GDTE đã ghi “Trong mọi hoạt động của cơ


quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ
em phải được quan tâm hàng đầu” [65, tr.6].
Như vậy, mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em là mối quan hệ khăng
khít. Việc tiếp nhận thông tin đa dạng là nhu cầu đồng thời là một trong
những quyền cơ bản của trẻ em mà toàn xã hội phải quan tâm. PGS, TS. Mai
Quỳnh Nam nhận định: “Nhà nước Việt Nam thừa nhận chức năng quan
trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng và đảm bảo rằng trẻ em
được thu nhận thông tin. Nhà nước cũng khuyến khích các cơ quan thông tin
đại chúng phổ biến các thông tin và tư liệu có lợi về xã hội và văn hóa cho
trẻ em” [53, tr.97].
1.3. BÁO CHÍ CHO TRẺ EM
1.3.1. Báo chí cho trẻ em
1.3.1.1. Khái niệm

Báo chí cho trẻ em là những sản phẩm báo chí (báo in, báo hình, báo
nói, báo điện tử…) được sản xuất ra để phục vụ nhu cầu đọc, nghe, xem của
trẻ em với mục đích định hướng, giáo dục thẩm mỹ, hình thành nhân cách
cho trẻ thông qua việc cung cấp những thông tin bổ ích, hỗ trợ kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm sống, tạo môi trường vừa giải trí vừa học tập cho các em,
giúp các em phát triển toàn diện về thể chất lẫn tinh thần. Hay nói cụ thể
hơn, báo chí cho trẻ em là những ấn phẩm, các chương trình TH, chương
trình PT dành cho trẻ em. Trong đó:
- Ấn phẩm báo chí cho trẻ em là các tờ báo, tạp chí, đặc san, cẩm
nang… có nội dung phản ánh và đối tượng phục vụ phần lớn là trẻ em.
- Chương trình TH và chương trình PT cho trẻ em được hiểu ở góc độ
sau đây:
+ Chương trình PT ở đây chính “là sự liên kết, sắp xếp hợp lý tin,

bài, băng tư liệu, âm nhạc trong một thời lượng nhất định được mở đầu


bằng nhạc hiệu và kết thúc bằng lời chào tạm biệt nhằm đáp ứng nhu cầu
tuyên truyền của cơ quan báo phát thanh, đồng thời mang lại hiệu quả cao
nhất đối với người nghe” [73, tr.216]. Chương trình PT được coi như một tờ
báo, có đối tượng tác động riêng, có nội dung phản ánh riêng cũng như
phương thức thể hiện riêng. Hiện nay có rất nhiều loại chương trình PT, tuỳ
theo tiêu chí phân loại. Nếu lấy lĩnh vực phản ánh là tiêu chí thì có chương
trình kinh tế, văn hoá, an ninh...; lấy lứa tuổi làm tiêu chí thì có chương trình
thiếu nhi, chương trình thanh niên, chương trình phụ nữ...; còn lấy nhu cầu
thính giả thì có Câu lạc bộ Bạn yêu nhạc, Câu lạc bộ Bạn yêu sân khấu...
Như vậy, chương trình PT cho trẻ em là các chương trình PT thiếu nhi
có nội dung phản ánh và đối tượng tác động chính là các em thiếu nhi.
+ Chương trình TH cho trẻ em cũng là một tác phẩm báo chí cụ thể,
riêng lẻ. Đó là những chương trình chỉ dành để phản ánh hoặc truyền tải
thông điệp hay thông tin nào đó về một vấn đề cụ thể của trẻ em, liên quan
đến trẻ em nhằm tác động vào nhận thức và hành vi của trẻ em.
Trong xu hướng hiện nay, với mục đích đem lại những gì tốt đẹp nhất cho
trẻ em, báo chí cho trẻ em không chỉ tác động đến trẻ em mà còn tác động đến
người lớn (chủ yếu là các bậc cha mẹ, thầy cô) thông qua việc cung cấp những
kiến thức về tâm lý trẻ em, cách chăm sóc, giáo dục trẻ em… để định hướng, nâng
cao nhận thức và hành vi cho cha mẹ, thầy cô trong việc BVCS&GDTE.
1.3.1.2. Đặc trưng của báo chí cho trẻ em

Báo chí cho trẻ em có hai loại:
- Báo chí cho trẻ em do người lớn làm ra phục vụ cho trẻ em. Đây là
những sản phẩm báo chí cho trẻ em mang tính định hướng, giáo dục, giải trí
căn cứ trên những mục tiêu người lớn đã hoạch định.
- Báo chí cho trẻ em do người lớn làm ra và có sự tham gia sản xuất

của trẻ em. Đây là những sản phẩm báo chí mang tính định hướng, giáo dục,


giải trí căn cứ trên những mục tiêu người lớn đã hoạch định, trong đó có sự
tham gia sản xuất của trẻ em. Sự tham gia này thể hiện ở 3 góc độ:
+ Thứ nhất là, trẻ em tham gia (xuất hiện) trong các sản phẩm báo chí
- tác phẩm của người lớn với tư cách là đối tượng được phản ánh. Ở góc độ
này, trẻ em bao gồm trẻ sơ sinh, nhi đồng, thiếu niên. Thông thường, trẻ em
được báo chí đề cập đến như là nhân vật trung tâm với nhiều hình ảnh khác
nhau trong các tin tức, phóng sự thời sự, các chương trình chuyên đề…
+ Thứ hai là, trẻ em là đối tượng hưởng thụ các sản phẩm báo chí do
người lớn sản xuất như đọc báo, xem, nghe đài.
+ Thứ ba là, trẻ em tham gia sản xuất báo chí. Ví dụ, các em viết bài
cho báo in, tham gia sản xuất các chương trình PT, TH với vai trò là người
dẫn chương trình, diễn viên, viết kịch bản, đọc lời bình…
1.3.1.3. Các nhóm sản phẩm báo chí cho trẻ em

“Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng góp phần quan trọng
trong quá trình thông tin giáo dục - truyền thông (IEC: Information Aducation - Communication). Đặc trưng của quá trình này là sự chuyển hóa
thông tin thành kiến thức, nhận thức, thái độ và hành vi” [17, tr.166]. Vì
vậy, báo chí cho trẻ em ngoài có vai trò quan trọng trong việc định hướng
giáo dục, tư vấn kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử để xây dựng hành vi xã hội,
thiết lập các phẩm chất cơ bản của nhân cách cho trẻ em còn phải làm rõ
quyền và nghĩa vụ của trẻ em đối với mọi thành viên trong gia đình; định
hướng nhận thức cho các bậc cha mẹ về quyền và trách nhiệm nuôi dưỡng,
yêu thương, chăm sóc vật chất và tinh thần đối với con mình. Các sản phẩm
báo chí cho trẻ em không chỉ tác động trực tiếp đến trẻ em mà còn phải tác
động vào nhà trường, gia đình, xã hội; là cầu nối tạo nên sự kết hợp chặt chẽ
giữa nhà trường - gia đình - xã hội để tác động tốt đến nhân cách trẻ em.



Từ đây, với mục đích “cho trẻ em và vì trẻ em”, báo chí cho trẻ em
gồm các nhóm sản phẩm sau đây:
- Nhóm sản phẩm báo chí tăng cường giáo dục gia đình: Đây là
nhóm phục vụ cho trẻ em và người lớn, chủ yếu là con cái và cha mẹ.
Cụ thể là các tờ báo, tạp chí, các chương trình PT, TH cung cấp kiến
thức về mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa trách nhiệm
BVCS&GD của cha mẹ đối với con cái và nghĩa vụ của con cái đối với
cha mẹ.
- Nhóm sản phẩm báo chí tác động vào quá trình học tập và rèn
luyện của trẻ em trong nhà trường: Đó là tờ báo, tạp chí, các chương
trình PT, TH ra đời dựa trên sự phối hợp với ngành giáo dục để tác
động theo chiều rộng, chiều sâu quá trình học tập, tiếp thu tri thức của
trẻ em.
- Nhóm sản phẩm báo chí theo sát những mục tiêu cụ thể của
chính sách chăm sóc, giáo dục trẻ em trong toàn xã hội: Đây là
nhóm sản phẩm báo chí cho trẻ em nhiều nhất hiện nay, bao gồm
các ấn phẩm, chương trình PT, TH dành cho từng nhóm tuổi, từ lứa
tuổi mẫu giáo đến lứa tuổi THPT [17, tr.165-170].
1.3.1.4. Các mảng nội dung chính của báo chí cho trẻ em

Báo chí cho trẻ em hiện nay gồm các mảng nội dung chính sau:
- Nội dung mang tính giải trí: Báo chí tạo môi trường giải trí lành
mạnh, bổ ích cho trẻ em. Trên TH gồm phim (phim hoạt hình và phim thiếu
nhi), văn nghệ (ca nhạc, kịch, kịch rối, hoạt cảnh thiếu nhi, múa rối), trò chơi
TH. Trên báo in gồm: truyện tranh, truyện cười, mục đố vui, điện ảnh, ca
nhạc, thời trang… Trên PT là trang văn nghệ, bao gồm các chương trình ca
nhạc thiếu nhi, ca nhạc theo yêu cầu, chương trình dạy hát, kể chuyện, đọc
truyện, đọc thơ, các cuộc thi tiếng hát trên sóng…



- Nội dung cung cấp kiến thức khoa học - đời sống: Báo chí cung cấp
những kiến thức phổ thông trong nhà trường và xã hội giúp trẻ em mở rộng
sự hiểu biết của mình về thế giới xung quanh như: kiến thức về động vật,
thực vật; tâm lý trẻ em; cách thức học tập, chăm sóc sức khỏe cho trẻ em …
- Nội dung chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm sống: Báo chí giới thiệu
những gương mặt điển hình người tốt - việc tốt; những bài học kinh nghiệm;
mô hình hoạt động hiệu quả; tư vấn giải quyết tình huống trong cuộc sống
xung quanh trẻ em (bạn bè, nhà trường, gia đình và xã hội).
- Thông tin, thời sự: Báo chí cập nhật thông tin về những vấn đề nóng
bỏng của trẻ em, liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của trẻ em, những vấn
đề đang được trẻ em quan tâm.
- Nội dung định hướng tiêu dùng: Báo chí định hướng cho trẻ em có
sự lựa chọn đúng đắn trong đời sống vật chất và tinh thần như ăn, uống, vui
chơi.
1.3.1.5. Chất lượng của báo chí cho trẻ em

- Theo từ điển tiếng Việt, do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà
Nẵng - Trung tâm Từ điển học, năm 2006: “chất lượng là cái tạo nên phẩm
chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc”.
- Theo từ điển tiếng Anh, chất lượng - quality là “tiêu chuẩn của cái gì
đó khi nó được so sánh với những thứ khác giống nó, xem nó tốt hay xấu ra
sao”.
Từ đây có thể hiểu, chất lượng báo chí cho trẻ em là những giá trị về
mặt lợi ích cũng như tính vốn có của nó mà ở đó nó có thể là căn cứ để phân
biệt báo chí dành cho trẻ em và báo chí dành cho người lớn. Chất lượng
được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng, người tiếp nhận, ở hai
mặt nội dung và hình thức:
+ Nội dung: Việc đánh giá chất lượng nội dung luôn là yếu tố đầu tiên
để công chúng nhận định, đánh giá tờ báo, xem tờ báo đó nội dung có phong



phú không? có phù hợp, bổ ích không?; nội dung ấy có ý nghĩa, bài học gì
và tác động đến quan niệm, hành vi của công chúng không?
Từ đây, nội dung báo chí cho trẻ em được trẻ em xét dưới nhiều góc
độ: có phong phú và bổ ích cho trẻ em không? có cung cấp kiến thức, sự
hiểu biết về cuộc sống, kỹ năng sống hay tăng cường khả năng tư duy sáng
tạo của trẻ em hay không? việc cung cấp thông tin của báo chí có làm tăng
hiệu quả giáo dục và giải trí không?
+ Hình thức: Trẻ em luôn quan tâm đến mức độ sinh động, linh hoạt và
hấp dẫn của tờ báo. Hình thức ở đây thể hiện ở cách trình bày có phù hợp với
tâm lý tiếp nhận của trẻ em hay không?. Đối với TH, hình thức thường thể hiện
qua hình ảnh và âm thanh (kết cấu chương trình, cách bày trí, không gian, màu
sắc, hình ảnh, ngôn ngữ, phong cách người dẫn chương trình....). Đối với PT,
hình thức thể hiện chủ yếu là âm thanh (kết cấu chương trình, lời dẫn, ngôn ngữ
diễn đạt, phong cách người dẫn chương trình…). Đối với báo in, hình thức thể
hiện ở cách trình bày tờ báo (hình ảnh, màu sắc, cách thức thể hiện…).
Có thể nói, nội dung và hình thức có mối quan hệ hữu cơ, hỗ trợ, làm
nổi bật nhau. Báo chí cho trẻ em được đánh giá là chất lượng phải vừa hay
vừa bổ ích về mặt nội dung và hấp dẫn về mặt hình thức.
1.3.2. Công chúng trẻ em

Có nhiều khái niệm về công chúng:
- Nhà xã hội học Blumer cho rằng, thuật ngữ “công chúng” được sử
dụng để chỉ một nhóm người (a) đối mặt với sự kiện (b), chia sẻ trong quan
điểm của họ về việc làm thế nào để các quan điểm của họ gặp nhau, và (c)
liên quan đến việc bàn luận về vấn đề này. Theo ông, công chúng là những
nhóm người có sự quan tâm đến những vấn đề nhất định. Có thể xem công
chúng là một đám đông - một nhóm người phân tán, có một mối quan tâm
chung, liên quan hoặc tập trung về một dư luận (hay một ý kiến). Công



chúng là khối người phân tầng (cũng như xã hội), sự phân tầng này dựa trên
những khác biệt về kinh tế, khả năng hiểu biết, tôn giáo, tuổi tác….
- Khái niệm công chúng được từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội, năm 1988 giải thích như sau: “Công chúng là đông đảo
người đọc, người nghe, chứng kiến việc gì trong mối quan hệ với người diễn
thuyết, tác giả, diễn viên...”.
Từ hai khái niệm trên, công chúng được hiểu là toàn bộ các cá nhân
trong một không gian cộng đồng mà trong đó có thể trực tiếp tiếp cận chung
một vấn đề nhất định, ở một lĩnh vực nhất định, ví dụ như quan tâm đến tác
giả nào đó trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. Vì thế, công chúng bao gồm
trong đó nhiều loại công chúng khác nhau, ví dụ như công chúng báo chí,
công chúng văn học, công chúng âm nhạc, công chúng sân khấu...
Như vậy, trẻ em được gọi là công chúng báo chí khi các em là những
người đọc báo, xem đài, nghe đài. Theo TS. Đinh Văn Hường, công chúng
báo chí bao gồm “người đọc, người nghe, người xem, là lực lượng đông đảo
nhất của báo chí. Họ vừa là đối tượng phản ánh và phục vụ của báo chí,
vừa là những người tiêu thụ và hưởng thụ báo chí” [39, tr.69-70].
Hiện nay, Nhà nước mới chỉ công nhận 48 chức danh trong ngành
Văn hóa - Thông tin, trong đó các chức danh như phóng viên, biên tập viên,
phát thanh viên, cộng tác viên, thông tin viên… đã được xác định, còn công
chúng thì chưa. Công chúng chỉ là tên gọi thông thường chứ không phải
chức danh công chức Nhà nước. Tuy chức danh công chúng chưa được xác
định nhưng công chúng có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động báo
chí. Hiệu quả hoạt động của báo chí phụ thuộc vào khả năng ảnh hưởng của
báo chí đối với công chúng. “Công chúng không chỉ là đối tượng tác động,
đối tượng chi phối điều chỉnh mà còn là lực lượng xã hội quyết định vai trò,
vị thế xã hội của cơ quan báo chí” [15, tr.14].



Trong xã hội thông tin, mọi thông tin đến rất nhanh và đi cũng rất nhanh.
Mối quan tâm của các tầng lớp công chúng được trãi rộng trên rất nhiều luồng
thông tin khác và trên các phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Bên cạnh đó, “xã hội
Việt Nam đang chuyển đổi mạnh mẽ, mối quan tâm của công chúng với những
vấn đề khác với trước kia họ thường quan tâm do những định hướng và các mối
quan tâm về lợi ích khác nhau. Các nhóm công chúng cũng được chia nhỏ và
trở nên đa dạng” [80, tr.217]. Vì vậy, hiện nay, mỗi kênh thông tin đại chúng,
cụ thể là báo chí có xu hướng phục vụ cho một hoặc một số đối tượng công
chúng nhất định. Thực tế chứng minh, ngày càng có nhiều sản phẩm báo chí mới
ra đời phục vụ cho từng nhóm công chúng được chia nhỏ theo giới tính, tuổi tác,
nghề nghiệp, vùng miền, quốc tịch, dân tộc… Trẻ em chẳng những đã có báo chí
dành riêng cho mình mà còn có cả những ấn phẩm, chương trình PT, TH chia
theo từng nhóm tuổi, vùng miền, ví dụ như “báo Thiếu nhi dân tộc dành cho trẻ
em dân tộc; báo Họa mi, Rùa Vàng dành cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo; báo Nhi
Đồng Thành phố cho trẻ em lứa tuổi tiểu học…” [53, tr.96].
Tóm lại, đối với các ấn phẩm, chương trình TH, PT cho trẻ em thì đối
tượng công chúng trước hết là trẻ em. Trẻ em là đối tượng phản ánh của báo
chí, là người hưởng thụ, đánh giá sản phẩm tinh thần dành cho mình, đồng
thời là người tham gia vào quy trình sản xuất báo chí cho trẻ em.
Trẻ em được xem là nhóm công chúng xã hội đặc thù. So với các
nhóm công chúng khác, “trẻ em luôn có thế giới riêng của mình, cả về thể
chất, tâm - sinh lý, nhận thức, văn hoá cùng với nhu cầu, nguyện vọng và
cách thể hiện chúng” [15, tr.217]. Đồng thời trẻ em đang trong giai đoạn
phát triển tâm lý và thể chất, hình thành nhân cách nên dễ bị chi phối bởi
điều kiện sống. Vì thế, trẻ em cần được sự quan tâm BVCS&GD của gia
đình, nhà trường, xã hội và đương nhiên có vai trò của báo chí.



×