Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

NHỮNG NHÂN tố tác ĐỘNG đến vấn đề GIẢI QUYẾT VIỆC làm TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.59 KB, 15 trang )

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Nếu trừu tượng hóa các mối quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình lao động sản xuất, mà chỉ xét việc làm như một tổng thể các điều kiện vật
chất, các điều kiện pháp lý trong đó quá trình lao động (làm việc) có thể được diễn
ra, thì việc làm chịu chi phối bởi các nhân tố sau:
1.2.1. Tài nguyên đất đai là đối tượng lao động cơ bản, là nhân tố chủ
yếu tạo ra việc làm cho người lao động
Đất đai là một yếu tố của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt không chỉ đối
với nông nghiệp mà còn đối với công nghiệp, dịch vụ phi nông nghiệp…
Nước ta có diện tích hơn 330.000 km 2 đứng thứ 58 trên thế giới; diện tích
bình quân đầu người là 0,45 ha, đứng thứ 159 trong số hơn 200 nước trên thế giới.
Hiện nay cả nước có 8,1 triệu ha đất nông nghiệp, bình quân 0,68 ha/hộ nông
nghiệp, (đặc biệt vùng đồng bằng sông Hồng bình quân một lao động nông nghiệp
chỉ có 600 m2) thì nhu cầu lao động ở nông thôn cho nông nghiệp tối đa chỉ 19
triệu người. Nếu không phát triển mạnh việc làm phi nông nghiệp, sẽ dư thừa tương
đối lao động rất lớn, khoảng 10 triệu người [8, tr. 25].
Do yêu cầu của quá trình đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp ngày bị mất
dần, nhất là ở những vùng nông thôn ven đô thị lớn, thị xã, thị trấn, hai bên trục
đường giao thông… Cùng với quá trình đô thị hóa đang diễn ra khá mạnh, lao
động nông thôn đang có xu hướng tăng lên. Tình hình trên dẫn đến bình quân diện
tích đất canh tác trên một lao động ở nông thôn Việt Nam vào loại thấp nhất thế
giới và do đó thời gian sử dụng ngày công nông nghiệp rất thấp. Theo tài liệu điều
tra, chỉ có 18% lao động nông nghiệp làm 210 ngày/năm, còn lại làm dưới 200
ngày/năm, trong đó, 21% chỉ làm việc 90 ngày/năm (mỗi ngày làm bình quân từ 45 giờ). Theo tính toán, nếu căn cứ vào quỹ đất và làm thuần nông, lao động nông


thôn




thừa

ít

nhất

khoảng

30%

(tương

đương

8-9 triệu người) [9, tr. 86-87].
Hiện nay nước ta có khoảng 3 triệu ha đất nông nghiệp có khả năng khai
thác, 9 triệu ha rừng và đất trống đồi trọc, 90 vạn ha mặt nước, ao, hồ và hàng vạn
ha đất ven biển, nếu có chính sách tốt sẽ giải quyết được việc làm cho hàng triệu
lao động. Việc sử dụng đất trong các doanh nghiệp nông lâm nghiệp cũng còn
nhiều

lãng

phí.

Theo

quy


hoạch

đất

dành

cho

các

nông,

lâm trường quốc doanh lên tới 1,2 triệu ha, nhưng trên thực tế mới sử dụng khoảng
40%, trong khi đó dân lại thiếu đất để canh tác.
Việc di dân xây dựng các vùng kinh tế mới là hướng quan trọng để giải
quyết việc làm cho các vùng nông thôn, trước hết là vùng đồng bằng sông Hồng nơi có mật độ dân số cao nhất cả nước, khoảng 800 người/km2.
1.2.2. Máy móc thiết bị là tư liệu sản xuất - yếu tố cơ bản của quá trình
sản xuất
Theo C.Mác thì vấn đề chủ yếu ở đây là vấn đề giới hạn kinh tế hay điều
kiện kinh tế của việc áp dụng máy móc. Máy móc nâng cao năng suất lao động,
hay nói cách khác, nó làm giảm số lượng lao động xã hội cần thiết hao phí vào việc
sản xuất một đơn vị sản phẩm; tuy nhiên, máy móc lại đòi hỏi phải hao phí lao
động để tạo ra nó. Do đó, nếu lao động do máy móc tiết kiệm được bằng với số lao
động cần thiết để sản xuất máy móc đó, thì như Mác nói: trong trường hợp này, lao
động chỉ đổi chỗ thôi, nghĩa là tổng số lao động cần thiết để sản xuất một hàng hóa
không giảm bớt, hay năng suất lao động không tăng lên. Trong điều kiện đó, việc
áp dụng máy móc có sự khác nhau về mặt kinh tế: lao động được giảm bớt trong
phạm vi này (ở nơi mà máy móc là tư liệu sản xuất) nhưng lại bị chuyển sang
phạm vi khác (ở nơi sản xuất máy móc).
Dưới CNTB, máy móc tạo ra khả năng sử dụng rộng rãi lao động trẻ em và

lao động phụ nữ. Giá trị của sức lao động giảm xuống là do: "... Bằng cách ném tất


cả mọi thành viên trong gia đình người công nhân vào thị trường lao động, máy
móc cũng phân phối giá trị sức lao động của đàn ông cho toàn thể gia đình người
đó" [20, tr. 569]. Nói cách khác việc thu hút lao động trẻ em và lao động phụ nữ là
một nguồn mới để sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Ở đây, việc thu được giá trị
thặng dư tương đối không phải do nâng cao năng suất lao động, mà là do nâng cao
trình độ bóc lột. Nếu gạt bỏ bản chất tư bản chủ nghĩa của nó mà chỉ xét máy móc
thiết bị như là một điều kiện vật chất tiên quyết cho việc tạo lập ra những khối
lượng lớn việc làm cho người lao động, thì việc sử dụng máy móc là cơ sở thiết lập
ra các xí nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời là cơ sở để nâng cao năng suất lao động tạo
thu nhập và việc làm.
CNH, HĐH ở nước ta hiện nay được coi là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế. Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2001 - 2010 mà Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua: "Chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH theo
định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp" [12, tr. 148].
CNH, HĐH là quá trình đổi mới trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình
sản xuất, nhằm đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao trên phương pháp sản
xuất công nghiệp. Đồng thời, phát triển các ngành công nghệ cao. Đó là những
công nghệ dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại như công nghệ
tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới, công nghệ gia công chính xác trong chế
tạo máy, tự động hóa, năng lượng mới.
Đối với lĩnh vực lao động - việc làm, sự phát triển của khoa học công nghệ
mang lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng đồng thời
cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy, việc
phổ biến các phương tiện tự động hóa sẽ làm cho những nước có sức lao động rẻ
và dư thừa (như Việt Nam) bị mất dần ưu thế. Xu hướng hiện nay là tăng lao động
khoa học kỹ thuật, trí thức, phi sản xuất trực tiếp và giảm lao động giản đơn, kỹ



năng thấp. Như vậy trong xã hội hiện đại, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò
quan trọng trong quá trình tìm kiếm việc làm. Các quốc gia không lường trước
được hiện tượng này của sự phát triển khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng
mất cân đối trong nguồn nhân lực. Hiện nay, ngay cả nước Mỹ vẫn còn thừa
khoảng 10 triệu chỗ làm việc và chỉ có hơn 2 triệu người thất nghiệp toàn phần
nhưng không thể bố trí được việc làm vì không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật [29,
tr. 18]. Vì vậy, xu hướng chắc chắn xảy ra khi phát triển khoa học và công nghệ là
sự gia tăng thất nghiệp của đội ngũ công nhân không lành nghề. Ngay ở Việt nam,
nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có liên doanh, có sử dụng công nghệ
tiên tiến cũng không tuyển dụng đủ lao động vì tỷ lệ lao động được qua đào tạo
còn thấp. Thực tế cho thấy trang bị máy móc thiết bị càng hiện đại thì nguy cơ thất
nghiệp càng cao. Do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung là giải
pháp cơ bản để hạn chế thất nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này, trước hết cần
có những biện pháp nhằm tăng cường năng lực thể chế của các cơ quan hoạt động
trong lĩnh vực lao động - việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương trình việc làm
quốc gia thông qua nhiều hoạt động: đào tạo nghề cho nông dân, phát triển nông
thôn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng đầu tư cơ sở hạ tầng và dịch vụ
xã hội…
1.2.3. Dân số và vấn đề tỷ lệ tăng dân số hợp lý cũng là điều kiện để giải
quyết việc làm cho người lao động
Khi nhắc đến dân số, người ta thường nghĩ ngay đến chuyện ngăn ngừa nhịp
độ tăng sinh sản, chú ý đến giảm tỷ lệ sinh đến mức thấp nhất. Trên thực tế, không
hẳn như vậy. Chẳng hạn, trên một số vùng miền núi xa xôi, hẻo lánh, có những dân
tộc, số dân hiện nay chỉ còn tính hàng trăm. Như vậy, ở những vùng này chúng ta
có đặt vấn đề giảm tỷ lệ sinh đẻ không? Sự thực dân số là một vấn đề nằm trong
yếu tố tự nhiên nhưng lại liên quan rất lớn đến quá trình phát triển xã hội. Nó là
quá trình thường xuyên, liên tục tái sản xuất ra con người và cuộc sống con người



với tính cách là những cá thể xã hội mang những nhu cầu và đòi hỏi vốn có, là quá
trình trân trọng, giữ gìn và nâng cao nòi giống. Vấn đề đặt ra ở đây là cần hướng
tới việc bảo tồn tính cân bằng, ổn định bên trong của sự phát triển dân số. Tính ổn
định đó chịu sự chi phối của hàng loạt điều kiện, không loại trừ điều kiện nào: trình
độ phát triển sản xuất, mức độ tăng trưởng kinh tế, tính chất các quan hệ xã hội,
pháp luật, chuẩn mực đạo đức truyền thống, định hướng giá trị, các yếu tố văn hóa
(dân trí, thẩm mỹ, truyền thông, giáo dục, y tế…), việc kết hợp tâm lý dân tộc và
xu hướng thời đại v.v…
Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai tăng cũng càng
nhanh, đồng thời nó sẽ tạo áp lực lớn đến giải quyết việc làm dưới nhiều chiều
cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải chi tiêu nhiều hơn cho
các mục đích tiêu dùng, ít đầu tư cho sản xuất, phát triển, nhất là cho phát triển
nguồn nhân lực. Quy mô nguồn lao động lớn, cơ hội việc làm ở nông thôn ít, dẫn
đến tình trạng di dân từ nông thôn ra đô thị vì mục đích mưu sinh kiếm sống. Thành
phần phổ biến trong hiện tượng thường là lao động trẻ, khỏe có vốn kiến thức khá
nhất ở khu vực nông thôn. Hậu quả là nông thôn bị mất đi nguồn lao động có sức
khỏe, có khả năng tiếp thu những tri thức mới cần thiết cho sự nghiệp CNH, HĐH
nông thôn. Nhưng tại đô thị, bộ phận lao động này cũng khó cạnh tranh để có thể có
việc làm trong khu vực kinh tế hiện đại mà chỉ chủ yếu gia nhập khu vực phi kết cấu.
Việc sử dụng nguồn nhân lực bị lãng phí. Đó là chưa kể đến số di dân mùa vụ, hình
thành các chợ lao động, làm phức tạp cho công tác quản lý đô thị, làm gia tăng tệ
nạn xã hội.
Gia tăng dân số nhanh khiến cho việc phân bố dân cư bất hợp lý, không gắn
lao động với đất đai, tài nguyên, đối tượng lao động, với cơ sở vật chất, kỹ thuật
khiến cho tạo việc làm khó khăn, thất nghiệp và thiếu việc làm cao.


Dân số tăng nhanh sẽ làm cho đất nước khó khăn trong việc nâng cao chất

lượng nguồn lao động. Đầu tư vào lớp trẻ ít, chất lượng trong tương lai của nguồn
lao động thấp. Khó có khả năng đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng của những
người trong tuổi lao động. Kinh nghiệm và tri thức của người lao động cao tuổi
cũng khó được phát huy bởi phải nhường chỗ cho lớp trẻ. Đất nước luôn ở tình
trạng các giải pháp tình thế để giải quyết lao động dôi dư, mà cho về nghỉ trước
tuổi luôn là giải pháp đầu tiên được nghĩ đến.
Nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu kinh
tế - xã hội đáng phấn khởi. Tuy nhiên do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ quá
nhanh, nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ tạo việc
làm không tăng kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao động. Thời kỳ 1976 - 1980, tỷ
lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm là 3,25% nhưng tỷ lệ tăng việc làm chỉ
là 2,8%. Con số tương ứng của thời kỳ 1981 - 1985 là 2,87% và 2,67%; còn của
thời kỳ 1986 - 1990 là 3,06% và 2,54%. Trong giai đoạn 1991 - 1996 chúng ta đã
giải quyết được trên 6 triệu việc làm. Năm 1997 giải quyết được 1,2 triệu và năm
1998 là 1,4 triệu [7, tr. 42]. Tuy nhiên, trên thực tế số người bước vào độ tuổi lao
động hàng năm vẫn lớn hơn nhiều so với chỗ làm việc mà chúng ta có thể tạo ra.
Đó là một sức ép lớn, ngoài ra còn phải kể đến sức ép của số lao động bị mất việc
làm do tác động của khủng hoảng kinh tế, của sức cạnh tranh yếu kém của nền
kinh tế nước ta. Chỉ tính riêng trong khu vực Nhà nước, đến cuối năm 1998 đã có
khoảng 10% số lao động không bố trí được việc làm. Theo điều tra của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm
1997 là 6,01%, năm 1998 là 6,85%; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực
nông thôn giảm từ 73% năm 1997 xuống còn 71% năm 1998. Các số liệu thống kê
và dự báo dân số còn cho thấy năm 1990 số người trong độ tuổi lao động mới là
35,7 triệu người, năm 2000 là 46,5 triệu và năm 2015 con số này sẽ lên tới
62 triệu người. So với năm 1990, năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu người trong độ tuổi
lao động. Đây chính là bài toán mà chúng ta phải giải quyết để tạo ra sự phát triển
bền vững của đất nước.



1.2.4. Thị trường hàng hóa sức lao động (gọi tắt là thị trường lao động)
Thị trường hàng hóa sức lao động là toàn bộ các quan hệ kinh tế hình thành
trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Trên thị trường lao động, mức cung, cầu về lao
động ảnh hưởng tới tiền công lao động và sự thay đổi mức tiền công cũng ảnh
hưởng tới cung, cầu về lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động bao gồm
những người cần thuê và đang sử dụng sức lao động của người khác và những
người có nhu cầu đi làm thuê hoặc đang làm việc cho người khác bằng sức lao
động của mình để được nhận một khoản tiền công.
Khi nghiên cứu thị trường lao động, dưới góc độ việc làm thì nội dung quyết
định nhất là quan hệ cung - cầu về lao động. Giải quyết việc làm hay giảm thất
nghiệp, trong cơ chế thị trường, về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa cung
và cầu về lao động trên thị trường lao động.
Trước hết ta hãy làm rõ khái niệm cung về lao động và cầu về lao động.
Cung về lao động
Cung lao động là khối lượng lao động sẵn sàng được sử dụng, đó là toàn bộ
khối lượng thời gian mà những người lao động có khả năng và sẵn sàng làm việc
với những mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất định. Cung về lao
động phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Số người tham gia lực lượng lao động xã hội.
- Mức tiền công thực tế được nhận.
- Mối quan hệ lợi ích giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi.
- Mức sống của dân cư.
- Trình độ phát triển, phong tục tập quán…
Cầu về sức lao động (gọi tắt là cầu về lao động)


Cầu về lao động là số lượng sức lao động mà các chủ doanh nghiệp có khả
năng thuê và sẵn sàng thuê với các mức tiền công khác nhau trong một thời gian
nhất định.
Cũng như cung, cầu về lao động cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố:

- Cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
- Tiền công lao động.
- Các yếu tố về kỹ thuật, công nghệ.
- Mức độ ưu tiên đầu tư theo các ngành, vùng…
Quan hệ cung cầu về lao động chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó
quan trọng nhất là các yếu tố sau:
- Khả năng phát triển thị trường để thu hút lao động (mở rộng cầu về lao
động). Yếu tố này phụ thuộc vào mô hình và cơ cấu kinh tế: phát triển các ngành,
đặc biệt là ngành sử dụng nhiều lao động; phát triển các vùng, trước hết là các
vùng nông thôn nhiều tiềm năng thu hút được lao động; phát triển các thành phần
kinh tế và sự đan xen giữa các thành phần kinh tế; phát triển đa dạng các hình thức
tổ chức sản xuất - kinh doanh và mối liên kết giữa chúng; mở rộng không gian kinh
tế (trong nước và ngoài nước …).
- Sự phát triển của nguồn lao động: sự cung ứng sức lao động vào thị trường lao
động hàng năm; sự tồn đọng của lao động chưa có việc làm (thất nghiệp) trong một
thời điểm nhất định; mức độ căng thẳng hay sức ép về việc làm…
- Sự phù hợp giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế (việc làm) về
không gian và thời gian; vấn đề chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu thị
trường lao động.
- Khả năng tổ chức thị trường lao động, đặc biệt là phát triển các tổ chức xúc
tiến việc làm, dịch vụ việc làm…


Trong thị trường lao động, quan hệ cung - cầu về lao động được điều tiết
phù hợp với quy luật giá trị. Để hiểu thực chất của cơ chế điều chỉnh quan hệ cung
cầu về lao động trên thị trường, chúng ta phải xuất phát từ một phạm trù rất cơ bản
là hàng hóa sức lao động. Trong nền kinh tế thị trường, có quan hệ thuê mướn lao
động trên thị trường lao động, thì sức lao động ở mức độ nhất định còn là hàng
hóa. Sức lao động là hàng hóa nhưng không phải tất cả các mối quan hệ của con
người cũng trở thành hàng hóa, chỉ riêng lĩnh vực thuê mướn, sử dụng sức lao

động và trả công mới mang quan hệ hàng hóa - tiền tệ và chỉ trên mặt đó mà thôi.
Ở nước ta hiện nay, quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường biểu hiện
như sau:
Một là, trên phạm vi cả nước, cung về lao động lớn hơn cầu về lao động và
tình trạng này tiếp tục kéo dài trong những năm tới dẫn đến sức ép rất lớn về việc
làm. Ở đây, chủ yếu xét đến khả năng phát triển việc làm còn rất hạn chế, mặc dù
tiềm năng còn rất lớn. Bởi vì chúng ta thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng, chiến lược
lựa chọn công nghệ thích hợp chưa được xác định rõ ràng, cơ cấu kinh tế đang
trong quá trình chuyển dịch, nhưng diễn ra chậm chạp và khó khăn.
Hai là, cung lớn hơn cầu về lao động còn được xem xét về mặt tăng cung lao
động với tỷ lệ còn cao, hàng năm lao động tăng 3,2% - 3,5%, dẫn đến mỗi năm có
khoảng 1,1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Đến năm 2000 tỷ lệ tăng tự
nhiên nguồn lao động vẫn trên 2,8% [8, tr. 121-122]. Số này tham gia vào thị
trường lao động ngày một đông và với khả năng tự giải quyết việc làm rất khác
nhau. Song họ có điểm chung rất cơ bản là thường không có nghề. Vì vậy, công tác
dạy nghề và phổ cập nghề trở thành vấn đề cấp bách và có tính chiến lược, là khâu
then chốt nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của lao động trên thị trường.
Ba là, lao động nông thôn chiếm hơn 70% lao động của cả nước, nếu chỉ
làm thuần nông, tự cung, tự cấp, lao động thiếu hoặc không có việc làm lên đến
30%. Số này sẽ tự do di chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập trung để


tìm kiếm việc làm. Lao động tự do di chuyển từ nông thôn ra tìm kiếm việc làm ở
thành thị và các vùng khác sẽ làm cho cung về lao động trên thị trường lao động
càng lớn.
Bốn là, quan hệ cung cầu về lao động còn căng thẳng về mặt kết cấu, dẫn
đến tình trạng "thất nghiệp kết cấu". Điều này thể hiện ở chỗ một số ngành tiềm
năng còn lớn, có khả năng thu hút được nhiều lao động, nhưng chưa tạo ra được
những điều kiện để biến khả năng thành hiện thực (về vốn, hạ tầng cơ sở, kỹ thuật,
công nghệ, thị trường tiêu thụ…) như lâm nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ và du lịch…

Ở một số vùng miền núi, đồng bằng sông Cửu Long, ven biển còn nhiều đối tượng
lao động và thiếu lao động, nhưng khả năng di dân và di chuyển lao động đến rất
hạn chế.
Trong khi đang có xu hướng đẩy lao động ra ở một số lĩnh vực, đồng thời lại
xuất hiện một số lĩnh vực và hình thức khác đang có khả năng thu hút thêm lao
động như kinh tế hộ gia đình, khu vực phi kết cấu, doanh nghiệp nhỏ, nhưng lại
chưa có chính sách khuyến khích thỏa đáng. Đặc biệt là thiếu một đội ngũ lao
động trình độ cao để làm việc trong một số lĩnh vực áp dụng công nghệ mới
hoặc trong các khu chế xuất, các đơn vị kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…
1.2.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội nước ta còn
rất nhiều khó khăn. Đất nước vẫn chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội; tình hình lao động, việc làm trở thành vấn đề xã hội gay gắt và bức xúc, quan
hệ đến từng gia đình, là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, của toàn xã hội
và mọi người.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới và
bằng hệ thống các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi và nhân tố mới đa dạng để
các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng phát triển, tạo nhiều việc làm mới, đáp


ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống của người lao động, góp phần ổn định
tình hình kinh tế - xã hội.
Nhận thức, quan niệm và chủ trương về tạo việc làm trong nền kinh tế theo
cơ chế thị trường đã được thay đổi theo tư duy mới - Bước ngoặt trong đổi mới về
việc làm ở Việt Nam. Quan niệm về việc làm đã được ghi rõ ở Điều 13 chương II
Bộ luật Lao động: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Chủ trương về tạo việc làm đã được chỉ
rõ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng như sau:
"Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang

ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do
hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp
tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa
bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại,
đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở
nông thôn " [10, tr. 114-115].
Đối với người lao động: cơ hội lựa chọn việc làm ngày càng được mở rộng.
Từ chỗ thụ động, trông chờ vào sự bố trí công việc của Nhà nước, người lao động
trở nên năng động hơn, chủ động tự tạo việc làm trong các thành phần kinh tế cho
mình và cho người khác. Các quan hệ lao động - việc làm thay đổi theo hướng các
cá nhân được tự do phát huy năng lực của mình, được giải phóng khỏi khuôn phép
của cơ chế cũ và tự chủ hơn trong tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung cầu lao động trên thị trường.
Người sử dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp pháp, nên đẩy
mạnh đầu tư tạo việc làm. Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến
khích phát triển, mở ra khả năng to lớn tăng trưởng việc làm.
Đối với Nhà nước, vai trò trong giải quyết việc làm đã thay đổi cơ bản. Thay
vì bao cấp trong giải quyết việc làm, Nhà nước tập trung vào việc tạo ra cơ chế,
chính sách thông thoáng, tạo hành lang pháp luật, xóa bỏ hàng rào về hành chính


và tạo điều kiện vật chất đảm bảo cho mọi người được tự do đầu tư phát triển sản
xuất, tạo mở việc làm, tự do hành nghề, hợp tác và thuê mướn lao động. Cơ hội
việc làm được tăng lên và ít bị ràng buộc bởi các nguyên tắc hành chính và ý chí
chủ quan của Nhà nước. Từng bước hình thành cơ chế phân bố lao động theo các
quy luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế và chính sách xuất khẩu lao
động…
Giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp là mục tiêu xã hội hàng đầu của Đảng
và Nhà nước ta. Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm là chương trình
trọng điểm của Nhà nước. Đảng ta luôn coi: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết
định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh

xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân " [12, tr.
210].
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà
nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo
việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có rất
nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành một hệ
thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, hướng vào phát
triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau.
Theo Bộ luật Lao động, Nhà nước đã chuyển hẳn từ cơ chế quản lý hành
chính về lao động sang cơ chế thị trường. Việc triển khai Bộ luật này đã góp phần
quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước và ổn định xã hội trong thời gian qua.
Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: luật đầu tư nước ngoài, luật đất đai, luật
doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư trong nước… đã thúc đẩy các yếu tố của
các thị trường, trong đó thị trường lao động hình thành, mở ra tiềm năng mới giải
phóng các tiềm năng lao động và tạo mở việc làm. Đồng thời với các cải tiến trong
quản lý hành chính, hộ khẩu, hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, tiền tệ hóa tiền lương, tách chính sách tiền lương, thu nhập khỏi chính sách
xã hội, góp phần làm tăng tính cơ động của lao động. Phát triển hệ thống giáo


dục - đào tạo và dịch vụ việc làm nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Ngoài ra, bổ sung và hoàn thiện một số chính sách vĩ mô sau:
Chính sách huy động các nguồn vốn
Vốn là nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói
chung và giải quyết việc làm nói riêng. Sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản
xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng và năng suất lao động, nâng cao chất
lượng hàng hóa sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân
tố: tài nguyên, lao động…
Huy động tối đa các nguồn vốn trong nước kết hợp với việc thu hút các

nguồn vốn bên ngoài để phát triển sản xuất, mở rộng và phát triển việc làm cho lao
động toàn xã hội. "Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong
và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định,
vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với
khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài. Chiến lược lâu dài là phải huy động tối đa
nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư " [10, tr. 228].
Vốn trong nước là quan trọng nhất không chỉ ở tỷ lệ của nó trong tổng
nguồn vốn đầu tư phát triển, mà còn là nhân tố đảm bảo sự phát triển nhanh và bền
vững của nền kinh tế và là điều kiện, tiền đề để thu hút và sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn bên ngoài. Yêu cầu vốn đầu tư với quy mô lớn như vậy, điều kiện hiện
nay của nền kinh tế không thể đáp ứng đầy đủ được bằng nguồn vốn trong nước.
Do đó, thu hút các nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa rất quan trọng.
Chính sách đất đai
Chính sách đất đai luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta,
là một vấn đề quan trọng trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế và phát triển
nông nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong điều kiện phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN,


hội nhập và mở cửa, chính sách đất đai không chỉ là công cụ điều hành vĩ mô về
kinh tế, mà còn trực tiếp tác động đến đời sống xã hội, chính trị của đất nước, của
các địa phương và cuộc sống của hàng chục triệu con người.
Đối với nước ta đất đai là đối tượng cơ bản nhất của quá trình sản xuất và
phát triển việc làm, đặc biệt là ở nông thôn. Theo Luật Đất đai, đất đai thuộc sở
hữu của toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Người nông dân được Nhà
nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, được chuyển nhượng quyền sử dụng
ruộng đất để tập trung ruộng đất vào các hộ gia đình có khả năng sản xuất nông
nghiệp hàng hóa… Đó là những chính sách rất cơ bản trong lĩnh vực ruộng đất,
góp phần to lớn vào giải phóng tiềm năng lao động, tạo mở việc làm. Tuy nhiên,
dưới góc độ chính sách việc làm, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai theo

hướng khuyến khích nông dân đầu tư khai phá và sử dụng có hiệu quả ruộng đất,
tạo ra việc làm có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác.
Chính sách thuế
Thuế là nguồn thu quan trọng nhất, chủ yếu nhất của ngân sách Nhà nước, là
công cụ cơ bản điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư. Mặt khác, thuế còn là đòn
bẩy mạnh mẽ khuyến khích sản xuất phát triển, tạo mở việc làm. Xét cho cùng, thì
vấn đề sau mới là quan trọng nhất, quyết định nhất. Bởi vì chỉ có khuyến khích phát
triển sản xuất, tạo việc làm mới và tăng nguồn thu cho ngân sách ngày càng lớn. Mặc
dù nước ta đã có luật thuế, Chính phủ cũng luôn thay đổi mức thuế cụ thể cho phù
hợp với thực tế. Song, để khuyến khích các chủ thể kinh tế phát triển sản xuất, giải
quyết việc làm cho nhiều người trong cơ chế thị trường, Nhà nước "tiếp tục cải cách
hệ thống chính sách thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu, thực hiện công khai,
minh bạch, giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và
dân cư; khuyến khích phát triển sản xuất và đảm bảo công bằng xã hội. Tiến hành
cải cách thuế giai đoạn 3 theo hướng thu hẹp dần các mức thuế suất, giảm tỷ trọng
thuế gián thu, áp dụng các sắc thuế mới như thuế thu nhập cá nhân, thuế bất động
sản" [12, tr. 327].


Chính sách đầu tư
Chính sách đầu tư là hệ thống chính sách khuyến khích và bảo đảm đầu tư
của Nhà nước đối với các chủ thể tham gia đầu tư. Chính sách đầu tư phát triển dựa
vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia; chính sách tích lũy tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư, chính sách
tạo vốn và sử dụng vốn. Chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
hội nhập với khu vực và thế giới, giải phóng sức sản xuất xã hội. Ở tầm vĩ mô, đó
là quan điểm cơ bản để khuyến khích đầu tư. Lực lượng tham gia đầu tư được mở
rộng: vốn ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn của dân cư, nguồn
vốn đầu tư của nước ngoài. Hình thức đầu tư được mở rộng bao gồm: đầu tư của
ngân sách, tín dụng Nhà nước, tín dụng ngân hàng, và đầu tư gián tiếp thông qua

cổ phiếu, trái phiếu.
Chính sách khuyến khích đầu tư bao gồm hệ thống chính sách tạo điều kiện
và môi trường thuận lợi: sự ổn định về chính trị, xã hội, môi trường kinh tế, cơ sở
hạ tầng, tâm lý và hệ thống chính sách khuyến khích của Nhà nước vào những lĩnh
vực, vùng nhất định; chính sách khuyến khích đầu tư ngoài nước và chính sách
khuyến khích đầu tư trong nước.
Ngoài ra, Nhà nước sử dụng hệ thống các chính sách, tạo điều kiện và môi
trường khuyến khích đầu tư. Bằng hệ thống chính sách, Nhà nước có thể khuyến
khích đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng cần thiết thông qua các công cụ
thuế, tín dụng, giá đất đai, tỷ giá, chính sách bảo hộ có chọn lọc và có thời gian để
phát triển những ngành công nghiệp non trẻ.



×