Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.18 KB, 20 trang )

BÀI LÀM
Hiện nay, với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
số lưọng máy móc, thiết bị hiện đại mang tính tự động hóa cao được sử dụng
ngày một nhiều, cùng với đó kéo theo tai nạn gia tăng ảnh hưởng đến an
toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của mọi người. Những sự vật mà hoạt
động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại được gọi là nguồn nguy
hiểm cao độ. Trong xã hội, khi quyền, lợi ích bị xâm phạm đều có khuynh
hướng đòi hỏi một sự bồi thường nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho
người bị thiệt hại. Trong các quy định của BLDS về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, Điều 623 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt
hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động
của các nguồn nguy hiểm cao độ. Pháp luật dân sự thế giới cũng như Việt
Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có thể hiểu một cách khái
quát, đó là loại trách nhiệm phát sinh cho người sở hữu, chiếm hữu nguồn
nguy hiểm cao độ khi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại
cho môi trường và những người xung quanh.

1


1/ Nguồn nguy hiểm cao độ là gì?
Điều 623, BLDS 2005 quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm
phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ,
thú dữ và các nguồn nguy hiểm khác do pháp luật quy định”.
Như vậy, điều 623 BLDS 2005 không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm
cao độ mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
Theo đó, có những loại nguồn nguy hiểm cao độ sau đây:


+ Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: hiện nay chưa có một văn bản
pháp luật nào chính thức đưa ra khái niệm “phương tiện giao thông vận tải
cơ giới”. Khoản 18, điều 3, Luật giao thông đường bộ 2008 quy định:
“Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm
xe ô tô; máy kéo; rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai
bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe
tương tự”. Tuy nhiên, phương tiện giao thông vận tải cơ giới không chỉ giới
hạn ở đường bộ còn có thể có phương tiện giao thông vận tải đường sắt,
phương tiện giao thông cơ giới đường thủy và phương tiện giao thông cơ
giới đường hàng không.
Như vậy, liệu có phải tất cả các phương tiện giao thông vận tải cơ giới đều
được coi là nguồn nguy hiểm cao độ hay không? Pháp luật Việt Nam vẫn
chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Trên thực tế, có những loại phương
tiện đang nằm ngoài “sự kiểm soát” của pháp luật khi quy định về “nguồn
nguy hiểm cao độ”, chẳng hạn như xe đạp điện, xe babetta, Java hay xe máy
thi công, máy xúc, máy ủi… - có thể coi đây là những loại xe tương tự theo
sự liệt kê tại khoản 18, Điều 3, Luật giao thông đường bộ 2008.
Tàu biển được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Theo Bộ luật Hàng hải: “Tàu
biển là tàu hoặc cấu trúc nổi di động khác chuyên dùng hoạt động trên biển”
(Điều 11, Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005)
2


Đối với phương tiện giao thông vận tải đường thủy nội thì tại khoản 7,
điều 3, luật giao thông đường thủy nội địa (sau đây gọi là phương tiện) là
tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác, có động cơ hoặc không có động cơ,
chuyên hoạt động trên đường thủy nội địa”.
Đối với tàu bay là phương tiện trong hoạt động vận chuyển hàng không thì:
“tàu bay là thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với
không khí, bao gồm máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiết bị

bay khác, trừ thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ
với không khí tương hỗ với không khí phản giữ lại từ bề mặt trái đất”.
(Khoản 1, Điều 13, Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006)
Đối với phương tiện giao thông đường sắt, khoản 20 điều 3 luật đường sắt
2005 quy định: “Phương tiện giao thông đường sắt là đầu máy, toa xe, toa xe
động lực, phương tiện chuyên dùng di chuyển trên đường sắt”. Tuy nhiên,
nếu các phương tiện chuyên dùng thô sơ di chuyển trên đường sắt thì không
coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
Như vậy tùy từng trường hợp cụ thể để xác định phương tiện giao thông vận
tải cơ giới nào là nguồn nguy hiểm cao độ.
+ Hệ thống tải điện: Luật điện lực 2004 không đưa ra khái niệm hệ thống
tải điện mà chỉ đưa ra khái niệm “lưới điện”, “thiết bị đo đếm điện”:
“Lưới điện là hệ thống đường dây tải tải điện, máy biến áp và trang thiết bị
phụ trợ để truyền dẫn điện. Lưới điện, theo mục đích sử dụng và quản lý vận
hành, được phân biệt thành lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối…
Thiết bị đo đếm điện là thiết bị đo công suất, điện năng, dòng điện, điện áp,
tần số, hệ số công suất, bao gồm các loại công tơ, các loại đồng hồ đo điện
và các thiết bị, phụ kiện kèm theo.”
Tuy nhiên, trong hệ thống truyền tải điện còn có thể có hệ thống trang thiết
bị phát điện. Do đó, hệ thống trang thiết bị điện cũng được coi là bộ phận
trong hệ thống truyền tải điện.
+ Nhà máy được hiểu là “xí nghiệp, cơ sở sản xuất của nền đại công
nghiệp, thường sử dụng máy móc tương đối hiện đại với quy mô lớn,: Nhà
máy cơ khí, nhà máy điện…”. Nhà máy công nghiệp bao gồm nhà máy công
nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ…
3


+ Vũ khí: Không nên đồng nhất khái niệm vũ khí với khái niệm vũ khí quân
dụng vì ngoài các loại vũ khí quân dụng còn có nhiều loại vũ khí khác cũng

có khả năng sát thương , gây nguy hiểm cho con người. Ví dụ như các loại
sung tự chế, bình xịt cay, các chất độc hại như axit, súng săn, súng kíp, súng
hoả mai, dao găm, mã tấu, giáo mác, thuốc nổ và kíp mìn dùng trong sản
xuất …Vì vậy, khi xác định vũ khí là nguồn nguy hiểm cao độ cần hiểu là tất
cả các loại vũ khí có khả năng sát thương, gây nguy hiểm cho con người.
+ Chất cháy, chất nổ và chất phóng xạ:
_ Chất nổ là chất có khả năng gây nên một phản ứng hoá học nhanh, mạnh,
toả nhiều nhiệt và ánh sáng, đồng thời sinh khí và tạo ra tiếng nổ như kíp
mìn, các loại thuốc nổ, dây nổ, dây cháy chậm, thuốc phóng..v..v..
Cần lưu ý rằng chỉ có kíp mìn, thuốc nổ, dây nổ, dây cháy chậm (kể cả trang
bị cho lực lượng vũ trang) dùng trong sản xuất, xây dựng dân dụng và các
mục đích kinh tế khác ngoài huấn luyện, chiến đấu và phục vụ chiến đấu
mới được coi là chất nổ.
_ Chất cháy là chất có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ôxy trong không
khí, nước hoặc khi có tác động của các yếu tố khác và những chất dễ tự bốc
cháy ở nhiệt độ không cao, như: diêm tiêu (ka-li-ni trat), phốt pho, thuốc
đạn...
_Chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân, gồm những đồng
vị không bền của các nguyên tố hoá học có khả năng phát ra các chùm tia
An-pha, Bê-ta, Gam-ma... Tác hại đặc trưng của chất phóng xạ là gây bệnh,
phóng xạ đối với người và động vật.
Qua sự liệt kê các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ, trên cơ
sở xem xét, đánh giá về các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ
trong các văn bản hướng dẫn có thể đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao
độ như sau: Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất định do pháp
luật quy định luôn tiềm ẩn khả năng sát thương và nguy cơ gây thiệt hại cho
con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối.

4



Ngoài những nguồn nguy hiểm cao độ được liệt kê trong khoản 1 Điều 623,
BLDS 2005 thì còn có những nguồn nguy hiểm cao độ khác theo qui định
của pháp luật. Trong thực tế có những sự vật chưa từng được pháp luật quy
định là nguồn nguy hiểm cao độ nhưng nếu có đầy đủ tính chất của nguồn
nguy hiểm cao độ thì có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ không, ví dụ:
hoạt động gây thiệt hại của xe đạp điện, xe máy có dung tích xi lanh dưới
50 cm3 (khái niệm “phương tiện giao thông vận tải cơ giới” trong các văn
bản hiện nay không quy định những phương tiện này là nguồn nguy hiểm
cao độ), ong vò vẽ, rắn độc, chó dại, trâu điên…Những vật và các loại động
vật này dù không thuộc một trong các loại nguồn nguy hiểm cao độ được qui
định tại điều 623 BLDS nhưng vẫn có khả năng gây nguy hiểm cho con
người. Vif vậy, theo em thì khi xem xét sự vật gây thiệt hại có phải là nguồn
nguy hiểm cao độ hay không, cần căn cứ vào tính chất của sự vật đó như:
mức độ nguy hiểm; khả năng kiểm soát của con người đối với sự vật; quy
định của pháp luật liên quan đến việc trông giữ, sử dụng…
Đối với trường hợp chó dại, trâu điên mà gây thiệt hại thì sẽ áp dụng bồi
thường thiệt hại đối với chủ sở hữu, người quản lí theo qui định tại Điều 625
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra. Vì chó dại, trâu điên
cũng là những súc vật đã được thuần hóa, nuôi trong nhà nhưng mắc bệnh
dại, điên khiến chúng có thể tấn công con người và các tài sản khác bất cứ
lúc nào, gây ra hậu quả nguy hiểm khó lường. Lúc này, người chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu sử dụng, sử dụng chúng phải có
trách nhiệm quản lí, không để chúng có cơ hội thoát ra ngoài và gây nguy
hiểm cho người khác. Trong khi đó, ong bò vẽ, rắn độc mặc dù không phải
là “thú dữ” (theo các định nghĩa trong từ điển) nhưng phải coi là nguồn nguy
hiểm cao độ vì đây là loại động vật còn mang tính hoang dã, chưa được
thuần hóa và có tính chất nguy hiểm lớn.

5



Xe đạp điện hay xe máy có dung tích xi lanh dưới 50cm3 là những phương
tiện giao thông có gắn động cơ, khi tham gia giao thông có thể đạt vận tốc
lớn, có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản người
khác, vì vậy cần được xem là nguồn nguy hiểm cao độ.
Như vậy, nguồn nguy hiểm cao độ không chỉ bao gồm những sự vật được
liệt kê tại Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn bao gồm những sự vật khác mà
hoạt động của chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường
xung quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây
thiệt hại. Đối với nguồn nguy hiểm cao độ, pháp luật thường có những quy
định nghiêm ngặt trong việc trông giữ, vận hành, sử dụng, vận chuyển…
chúng để tránh gây thiệt hại. Vì vậy, xác định nguồn nguy hiểm cao độ
không chỉ căn cứ vào khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ tại Điều 623 Bộ
luật dân sự mà còn phải căn cứ vào các văn bản, các quy định khác có liên
quan.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra
A, Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao
độ.
Bản thân các loại nguồn nguy hiểm cao độ đã chứa đựng sự phức tạp, khi
chúng gây thiệt hại, trong nhiều trường hợp chúng ta rất khó có thể xác định
được thiệt hại là do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay là do các nguyên
nhân khác. Thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là rất đa dạng,
các nhà làm luật không thể dự trù hết mọi khả năng trên thực tế. Vì vậy, khi
có những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà thỏa mãn các dấu
hiệu sau thì sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ:
Thứ nhất: Những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang
trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải

6


cơ giới đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện;
nhà máy công nghiệp đang hoạt động…Trường hợp thiệt hại xảy ra khi
nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái “tĩnh” – không hoạt động thì
không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, ví dụ: Anh A
dựng chiếc xe máy của mình trong sân nhà mình( Tuân thủ quy cách về kĩ
thuật). Cháu B vào nhà anh chơi và đùa nghịch gần đó, rồi trèo lên chiếc xe
làm xe máy đổ xuống đè lên chân làm gãy chân cháu B. Trong trường hợp
này, chiếc xe hoàn toàn đang ở trong trạng thái tĩnh, và đã được anh A dựng
đúng quy cách, đảm bảo an toàn. Lỗi ở đây là do cháu B_ bên bị thiệt hại
nên anh A không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tương tự, ô tô
dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt
hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện… mà gây thiệt hại
thì không được xác định là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thứ hai, thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy
hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Như đã nói ở trên, thiệt hại do các loại nguồn nguy hiểm cao độ gây ra rất đa
dạng. Trên thực tế, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chủ yếu là là
các loại nguồn nguy hiểm là vật phải có sự tham gia điều khiển của con
người thì mới gây thiệt hại nhưng lại thiệt hại đó lại không do lỗi của con
người mà do chính bản thân nguồn nguy hiểm đó gây ra. Có nhiều quan
điểm cho rằng các vật là vô tri vô giác, vì vậy chúng không thể gây thiệt hại
nếu không có sự tác động của con người. Quan điểm này cho rằng đằng sau
việc gây thiệt hại của một vật bao giờ cũng có sự tác động của con người.
Chiếc xe gây tai nạn là do người lái xe làm cho nó chuyển động. Quan điểm
này đánh đồng tất cả các thiệt hại đều do con người gây ra, vì vậy các thiệt
hại đều quy về một nguyên tắc bồi thường thiệt hại nói chung.
Tuy nhiên, không phải mọi thiệt hại do vật gây ra đều có sự tác động của

con người. Nhiều trường hợp, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ nằm
7


ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người và tự thân nguồn nguy hiểm cao
độ gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác
động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
Đối với những trường hợp có thiệt hại xảy ra liên quan đến nguồn nguy
hiểm cao độ nhưng do “tác động của con người”, do hành vi của con người
gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Hầu hết các vụ tai nạn, thiệt hại đều có sự tham gia của vật với vai
trò trung gian như là công cụ, phương tiện mà con người sử dụng để gây
thiệt hại như: Lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn, dùng chất cháy gây
hỏa hoạn, đặt mìn để đánh cá, gây thiệt hại cho người khác, Nhốt người vào
chuồng rắn, bẫy ong…Những trường hợp này thiệt hại xảy ra hoàn toàn do
hành vi của con người tác động vào vật, con vật. Vì vậy, trong những trường
hợp trên thì phải áp dụng nguyên tắc chung của bồi thường thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao
độ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì
sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc
nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà
máy do trục trặc kỹ thuật…
Để phân biệt rõ việc chúng ta sẽ áp dụng bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra hay thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ có
tác động của con người, có thể phân tích từ ví dụ sau:
Anh A là chủ sở hữu chiếc xe tải. Trước khi đưa xe vào tham gia giao thông,
anh có kiểm tra xe, chiếc xe vẫn đảm bảo độ an toàn. Trên đoạn đường bằng,
xe anh vẫn chạy bình thường nhưng đến khi xuống một con dốc thì xe bỗng

nhiên nổ lốp, phanh xe bị đứt khiến anh không thể kiểm soát được và chiếc
xe đã đâm vào một đám học sinh dưới chân dốc khiến cho 1 em nhỏ bị chết,
8


2 em bị thương. Trong trường hợp này, anh A phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo qui định tại điều
623 BLDS 2005.
Nhưng cũng trong trường hợp phanh xe bị đứt, lốp xe bất ngờ nổ như vậy và
gây ra thiệt hại nhưng có yếu tố lỗi của anh A là khi kiểm tra xe và biết chắc
phanh xe không đmả bảo an toàn nhưng vẫn đưa vào lưu thông và gây ra
thiệt hại nghiêm trọng như trên thì A sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo
Điều 204, BLHS qui định về tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông
đường bộ không đảm bảo an toàn. Hoặc chiếc xe tải không bị trục trặc về kĩ
thuật nhưng do anh A đã phóng nhanh, vượt ẩu và gây ra tai nạn thì trường
hợp này cũng không xác định bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thứ ba, là hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có
tính trái pháp luật. Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công
trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Các công ti khai thác
đá dùng mìn để phá đá theo đúng quy trình kĩ thuật cũng không được coi là
trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ
mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp
luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên
đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp
luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị
thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ
luật dân sự). Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật

của nguồn nguy hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con
người.

9


B, Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật
của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên
nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt
hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ. Khi xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là xác định
thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng.
Ví dụ: A là chủ sở hữu của một quán gas. B là khách hàng. Trong lúc B vào
kho gas để xem thì xảy ra chập nổ ga và cháy kho chứa ga khiến cho B bị
bỏng khá nặng, nhưng vẫn có thể cứu sống nếu được cứu chữa kịp thời. B
được đưa đến bệnh viện nhưng không được các bác sĩ cứu chữa kịp thời nên
B chết. Trường hợp này, việc cháy kho gas không phải là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến cái chết của B mà là do sự cẩu thả, thiếu trách nhiệm của các
bác sĩ đã không cứu chữa kịp thời cho B dẫn đến hậu quả B bị chết. Vì vậy,
khi xác định trách nhiệm bồi thường cho B có thể A chỉ phải liên đới chịu
trách nhiệm vì là chủ sở hữu của nguồn nguy hiểm cao độ.
C, Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại
cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người
không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do
mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm
cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài
sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn

nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo
chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây
thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi xảy ra thiệt hại
10


không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao
độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
D, Vẫn tồn tại yếu tố lỗi nhưng đây không phải điều kiện phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ
khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền
lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị
thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt
hại. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp có thiệt hại xảy ra và cần
phải truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng không do lỗi của ai cả.
Vì vậy, việc xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi nhiều khi
không bảo đảm được một cách hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi
việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và
chính đáng. Thực tế cho thấy các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi
nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng
với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về
tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Nếu trong mọi trường hợp xảy
ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi thì không khác gì gián tiếp
bác bỏ quyền đòi bồi thường thiệt hại của nạn nhân. Vì vậy, khi có việc gây
thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường
hợp người gây thiệt hại không có lỗi.
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những
trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi không

cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định
“Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Quy định này đã
dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau:

11


Cách hiểu thứ nhất căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại, nghĩa là khi có
thiệt haioj xảy ra mà nguyên nhân là do nguồn nguy hiểm cao độ thì chủ sở
hữu, người được chủ sở hữu giao quản lí, chiếm hữu, sử dụng nguồn nguye
hiểm cao độ phải chịu trách nhiệm bồi thường bbaats kể họ có lỗi hay
không. Như vậy, những thiệt hại do phương tiện giao thông, công trình, thú
dữ, do sử dụng vũ khí, chất nổ, chất cháy, điện… gây ra đều được áp dụng
trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trường hợp thiệt
hại do hành vi của con người, không liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm
cao độ thì áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc xác định trách nhiệm theo quan điểm này có ưu điểm bảo vệ được
quyền lợi cho nạn nhân nhưng lại có khuynh hướng đè nặng trách nhiệm cho
người sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ, bởi lẽ có nhiều
trường hợp thiệt hại xảy ra là do hành vi trái pháp luật, do lỗi của người
khác. Ví dụ: Do có mối thù với A, B đã bí mật tháo phanh xe ô tô của A với
mục đích gây tai nạn cho A. Khi A đang lái xe trên đường, do xe mất phanh
nên A gây tai nạn cho C là người đang tham gia giao thông. Trong trường
hợp này, A là chủ sở hữu đồng thời là người đang chiếm hữu nguồn nguy
hiểm cao độ nên theo quan điểm trên, A có trách nhiệm bồi thường. Cách
xác định trách nhiệm bồi thường như vậy là không hợp lý và xác định không
chính xác người phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường.
Quan điểm thứ hai cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm hoàn toàn loại trừ yếu tố lỗi của

người sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có một phần lỗi của người đang trông
giữ, vận hành, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn không có lỗi của
con người thì mới áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra. Trên thực tế rất khó xác định thiệt hại xảy ra hoàn toàn
12


không có lỗi của con người và như vậy, dường như quy định về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khó có thể áp dụng
trên thực tế. Ví dụ các loại nguồn nguy hiểm cao độ như phương tiện giao
thông vận tải, vũ khí.. thường phải có sự tác động của con người vào chúng
mới có thể vận hành được và gây ra thiệt hại, trường hợp chúng không được
quản lí, sử dụng theo qui định của pháp luật mà gây ra thietj hại ( xe không
được dựng đúng cách, đổ xuống đè lên người) thì thiệt hại ở đây vẫn có yếu
tố lỗi của nguuwoif chủ sở hữu, người được giao quản lí, sử dụng tài sản.
Quan điểm thứ ba kết hợp giwuax hai quan điểm trên. Theo đó, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi
hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài khả năng
kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người
trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không
áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói
chung. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
không loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản
lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi
của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên
nhân có tính quyết định đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu
nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả

trong trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong việc trông
giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ. Theo qui định của Điều
luật và những phân tích trên, có thể khẳng định yếu tố lỗi không phải là một
điều kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm
này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực
tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của
13


nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người ( tự
chập cháy điện trong kho chứa xăng gây hỏa hoạn, thiệt hại nghiêm trọng)
hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên
lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc,
lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ
rằng xe vẫn vận hành tốt…)
2. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra
Căn cứ vào khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể được áp dụng
với các chủ thể sau:
- Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ;
- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ;
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Tùy vào từng truwowngfhowpj cụ thể mà xác định ai là nguiwoif phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra liên quan đến nguồn
nguy hiểm cao độ.
A, Xác định trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu.

Thứ nhất, trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dngj nguồn
nguy hiểm cao độ. Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu là người có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Việc thực
hiện quyền sở hữu của chủ sở hữu không được gây tổn hại tới lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, nếu nguồn nguy
hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác trong trường hợp chủ sở hữu đang
trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.
14


Trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy
hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo ý chí của chủ sở hữu.
Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người
khác theo ý chí của chủ sở hữu, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ vẫn có
quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý) đối với tài sản. Khi cho
thuê, cho mượn hay chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao
động, mặc dù chủ sở hữu không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản
nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản,
cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản. Bộ luật dân sự 2005 quy định
“nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sư dụng thì những
người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Các thỏa thuận phải không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm
trốn tránh việc bồi thường.
Ví dụ: Các thoả thuận sau đây được coi là không trái pháp luật, đạo đức xã
hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:
+ Cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
+ Chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu,
sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường;
+ Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt

hại trước.
Tuy nhiên, nếu cho rằng khi chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm
cao độ cho người khác là chủ sở hữu hoàn toàn hết trách nhiệm, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại thuộc về người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ là không hợp lý. Quy định của Bộ luật dân sự 2005 hiện nay
hoàn toàn chưa phân định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong các trường hợp khác nhau. Nghị quyết
số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự
15


2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mặc dù đã đưa ra được một số
ví dụ cụ thể mang tính chất hướng dẫn về vấn đề này nhưng lại chưa đưa ra
được các quy định mang tính chất khái quát chung.
Trường hợp nữa là nếu nguuwoif chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ mà có
lỗi trong việc để người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
trái phép ( ví dụ không tuân thủ các quy trình về bảo quản, quản lí tài sản
theo qui định của pháp luật..) mà nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử
dụng trái phép đó gây ra thiệt hại thì vẫn phải liên đới bồi thường thiệt hại
(Khoản 4, Điều 623, BlDS 2005).
B, Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người được chuyển
giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao quyền chiếm hữu,
sử dụng theo một giao dịch dân sự. Chủ sở hữu có thể chuyển giao quyền
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho chủ thể khác thông qua
hợp đồng: mượn, thuê, cầm cố, gửi giữ… tài sản hoặc ủy quyền cho người
khác quản lý tài sản của mình. Đây là những hợp đồng dân sự được xác lập
trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, vì vậy sự cam kết thỏa thuận được coi như
pháp luật đối với các bên. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy

hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận đó. Trong trường hợp
các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng
nguyên tắc chung của pháp luật. Bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi
giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài
sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất
định, trong đó có nghĩa vụ trông coi, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ,
không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Trường hợp
nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu,
quản lý của họ, họ bị coi là có lỗi trong việc quản lý, sử dụng và phải chịu
trách nhiệm bồi thường.
16


+ Trường hợp nguồn nguy hiemercao độ được chuyển giao nhưng không
được xác lập thành hợp đồng chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng mà gây
ra thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra đối với nguuwoif
đang thực tế chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
Ví dụ như Trường hợp anh A mượn xe tải của B để đi chở hàng (không có
hợp đồng thuê mượn, chuyển giao tài sản). Trên đường đi xe bất ngờ bị nổ
lốp khiến cho anh A không thể kiểm soát được và đã gây ra thiệt hại. Trường
hợp này anh B không phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Nhưng nếu như anh A là lái xe của một công ty X, được công ty giao nhiệm
vụ đi nhận hàng bằng xe tải của công ti. Trên đường đi, chiếc xe cũng bỗng
nhiên bị nổ lốp và gây ra thiệt hại, thì trường hợp này A sẽ không phải bồi
thường thiệt hại mà trách nhiệm thuộc về công ty X.
C, Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật, Bộ luật dân sự 2005 phân định thành 2 trường hợp.
+ Nếu chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ
hoàn toàn không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn

nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra. Chủ sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ sẽ được giải trừ
khỏi trách nhiệm bồi thường nếu họ chứng minh được đã tuân thủ đầy đủ
các nghĩa vụ trong việc bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy
hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cùng người chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật.

17


3, Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Mặc dù Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật này (như
Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP) đều dành ra những quy định riêng về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tuy nhiên vẫn
còn nhiều quy định bất cập, gây ra những tranh cãi, quan điểm khác nhau
trên thực tế áp dụng. Sau đây là một số quy định mà chúng tôi cho là bất
cập, cần sửa đổi, hoàn thiện:
Thứ nhất, cần hoàn thiện khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ. Như đã
trình bày ở trên, Khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 đưa ra khái niệm này chỉ
mang tính chất liệt kê, vì vậy không đầy đủ, thậm chí không thống nhất với
các quy định trong các văn bản pháp luật khác. Vậy, biện pháp để có được
khái niệm đầy đủ cà chặt chẽ nên thay đổi phương thức định nghĩa, thay vì
liệt kê chúng ta nên xác định tiêu chí chung để được coi là nguồn nguy hiểm
cao độ.
Thứ hai, về điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Hiện nay chưa có quy định nào phân định cụ thể:

khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và khi nào áp
dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Thực
tiễn cho thấy khi xét xử, nhiều trường hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan đến
nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con
người hay do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Ranh giới giữa hai
nguyên nhân này khá mong manh, nhiều trường hợp khó xác định nên trong
thực tiến xét xử, có thể sẽ bị đánh đồng; liên quan đến nguồn nguy hiểm cao
độ là chỉ việc áp dụng theo nội dung điều 623, BLDS 2005. Điều này có thể
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nạn nhân cũng như chủ sở hữu. Để điều
18


luật được chặt chẽ hơn, cần có quy định rõ ràng về việc trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại
là do sự tác động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thứ ba, pháp luật cần bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước đối với những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ trong tự
nhiên gây ra cho các chủ thể khác; Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
trong trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng
như: trưng dụng, tạm giữ…vì ngoài những trường hợp pháp luật quy định,
trên thực tế có trường hợp chủ sở hữu bắt buộc phải chuyển giao nguồn nguy
hiểm cao độ cho người khác theo quy định của pháp luật, ví dụ: người có
thẩm quyền của cơ quan nhà nước trưng dụng tài sản của các cá nhân, tổ
chức khi cần thiết để bảo vệ lợi ích chung; hoặc tạm thu giữ tài sản theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Trong những trường hợp
này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ bắt
buộc chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản theo quyết định của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Tập 2,
Nxb, CAND, Hà Nội, 2008.
2/ Bộ Luật Dân Sự Việt Nam 2005.
3/ Nghị quyết 03/ 2006 NĐ- HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao
ngày 0807/2006 hướng dẫn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra.

20



×