Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

phân tích về nguyên tắc tập trung dân chủ và ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.35 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………1
I. Khái niệm và đặc điểm các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước…...1
1. Khái niệm nguyên tắc trong quản lí hành chính……………………………….1
2. Đặc điểm của các nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước……..2
II. Nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước…………..2
1. Lí luận chung về nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành
chính nhà nước……………………………………………………………………2
2. Cơ sở pháp lí…………………………………………………………………..3
3. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành chính
nhà nước ………………………………………………………………………....3
3.1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực
nhà nước cùng cấp………………………………………………………………..3
3.2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với
trung ương………………………………………………………………………..5
3.3. Việc phân cấp quản lí………………………………………………………...6
3.4. Hướng về cơ sở………………………………………………………………7
3.5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương……7
III. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành chính
nhà nước………………………………………………………………………….8
KẾT LUẬN………………………………………………………………...…….10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


MỞ ĐẦU
Cũng giống như bất kì hoạt động có mục đích nào, quản lí hành chính nhà
nước được tiến hành trên những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ
đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho chủ thể quản lí hành chính


nhà nước thực hiện có hiệu quả các cơng việc của mình trên các lĩnh vực đã được
phân cơng. Quản lí hành chính nhà nước ở nước ta dựa trên một hệ thống các
ngun tắc có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nguyên tắc tập
trung - dân chủ là một trong những nguyên tắc thể hiện bản chất nhà nước sâu sắc
và có ý nghĩa khơng chỉ trong quản lí hành chính mà cịn có vai trị quan trọng
trong cả hoạt động quản lí nhà nước nói chung. Bài tiểu luận dưới đây em xin đi
phân tích về nguyên tắc tập trung - dân chủ và ý nghĩa của nguyên tắc này trong
quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
I. Khái niệm và đặc điểm các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước
Trước tiên để tìm hiểu các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước cần
hiểu thế nào là quản lí hành chính nhà nước.
Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được
thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung
là đảm bảo sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà
nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây
dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị.
Nói cách khác, quản lí hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành – điều
hành của nhà nước.
1. Khái niệm nguyên tắc trong quản lí hành chính
Theo nghĩa chung nhất, “nguyên tắc” được hiểu là những điều cơ bản nhất
thiết phải theo trong một loạt các việc làm. Nguyên tắc cơ bản là những quy chế do
con người đặt ra. Trong khoa học pháp lý, các nguyên tắc trong quản lý hành chính
được xác định là những tư tưởng chủ đạo dựa trên cơ sở khoa học nhất định bắt
nguồn từ bản chất chế độ, được quy định trong pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức
và hoạt động quản lý.
Ở góc độ của Luật hành chính, nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước
là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung chứa đựng những nội
2



dung,tư tưởng chủ đạo làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động của quản lý hành
chính nhà nước.
2. Đặc điểm của các nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước
- Các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật của Nhà nước, từ Hiến pháp, các văn bản luật đến văn bản dưới
luật. Điều này thể hiện tính pháp lý của các nguyên tắc trong quản lý hành chính
Nhà nước.
- Các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước thể hiện tính khách quan và
khoa học. Ph.Anghen cho rằng: “Nguyên tắc không phải là được ứng dụng vào
giới tự nhiên và lịch sử loài người mà được rút ra trong giới tự nhiên và lịch sử
loài người. Khơng phải giới tự nhiên và lồi người thích ứng với nguyên tắc mà
trái lại nguyên tắc chỉ đúng nếu nó phù hợp với giới tự nhên và lịch sử”. Do đó,
tính khách quan: được các nhà quản lý đúc rút từ thực tiễn quản lý hành chính,
phản ánh thực tiễn quản lý hành chính Nhà nước. Tính khoa học: Phù hợp với thực
tiễn quản lý, phù hợp với đối tượng quản lý, phù hợp với quy luật phát triển tự
nhiên và xã hội, và xây dựng bởi kỹ năng lập pháp.
- Các nguyên tắc trong quản lý hành chính mang tính chính trị, nguyên tắc
này được xây dựng từ bản chất chế độ của Việt Nam: Nhà nước của nhân dân, do
dân và vì dân.
- Các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước mang tính ổn định cao do bản
thân các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước là sự phản ánh các quy luật
khách quan quản lý hành chính nhà nước nên tính ổn định của chúng chúng trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn phải được bảo đảm.
- Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có tính hệ thống, các
ngun tắc khơng tồn tại một cách độc lập mà tạo thành một hệ thống nhất, chặt
chẽ với nhau.
II. Nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước
1. Lí luận chung về nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành chính
nhà nước
Trong quản lí hành chính nhà nước, tập trung có nghĩa là: nhằm đảm bảo thâu

tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lí để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện
3


chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Dân chủ tức là hướng tới việc mở rộng
quyền cho đối tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí,
phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong q trình thực hiện chính
sách, pháp luật. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và
dân chủ, nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm
bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.
“Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hịa với
nhau. Nếu thiên về tập trung mà khơng chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung
quan liêu, độc đoán trái với bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân
chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt động của bộ
máy nhà nước kém hiệu quả”(1). Vì vậy cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ,
chặt chẽ việc đảm bảo cả hai yếu tố này trong quản lí hành chính nhà nước.
2. Cơ sở pháp lí
Tập trung - dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và
hoạt động của nhà nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ
chức dựa trên nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung – dân chủ được quy định ở
Điều 6 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Quốc hội, hội đồng
nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập
trung và dân chủ, nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ;
vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Không những ở nước ta,
các nước xã hội chủ nghĩa cũng ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp và cũng
xác định là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
3. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành chính nhà
nước
3.1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực

nhà nước cùng cấp
Điều 6, Hiến pháp 1992 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân”.
4


Như vậy, hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do
nhân dân bầu ra, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua cơ quan quyền
lực nhà nước để thay mình trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Để thực hiện
chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, một
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương đã được hình
thành. Trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ln có sự
phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
+ Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong
việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Ở
trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính Phủ và trao cho nó quyền hành pháp. Ở
địa phương, các ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực
hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương. Các cơ quan khác
trong hệ thống cơ quan nhà nước như bộ,cơ quan ngang bộ…đều do cơ quan quyền
lực nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ.
Ví dụ: Chính phủ do Quốc Hội bầu ra, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với thủ tướng;
phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với phó thủ tướng, bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của thủ tướng, bỏ phiếu tín nhiệm đối
với các thành viên của chính phủ.
+ Tiếp theo, trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước ln chịu sự chỉ
đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo
cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Ví dụ: ở
trung ương, Chính phủ chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội, ủy ban

thương vụ Quốc hội; ở địa phương, UBND phải chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước hội đồng nhân dân cùng cấp.
Sự phụ thuộc trên đều nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân
lao động.
+ Bên cạnh đó, yếu tố dân chủ thể hiện rõ trong việc cơ quan quyền lực nhà
nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong
việc chỉ đạo thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực
nhà nước. Ví dụ như Nghị định của Chính phủ ngoài những Nghị định quy định chi
5


tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội thì Chính phủ cịn ban hành những Nghị định để quy định
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ thành lập.
+ Ngoài ra, các cơ quan quyền lực nhà nước còn tạo điều kiện thuận lợi cần
thiết để các cơ quan hành chính nhà nước hồn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình là quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tóm lại, trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ln
có sự phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, chính điều này đã thể
hiện yếu tố tập trung cũng như dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ, có như
vậy hoạt động quản lí hành chính nhà nước mới được kiểm soát bởi tập thể - đại
diện cho nhân dân, mới đảm bảo sự thống nhất quyền lực trong quản lí hành chính
nhà nước trong cả nước.
3.2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương
Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực
để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Sự phục tùng này
biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và hoạt động.
+ Thứ nhất, tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra

cấp dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Ví dụ: UBND xã chịu sự quản
lý của UBND huyện, các sở thuộc UBND tỉnh phải chịu sự quản lí, điều hành của
các bộ chức năng. Tuy nhiên sự phục tùng này phải dực trên cơ sở quy định của
pháp luật. Thực hiện tốt mối quan hệ này thì cấp trên và trung ương mới tập trung,
thống nhất được quyền lực nhà nước để chỉ đạo giám sát tổ chức và hoạt động của
cấp dưới địa phương-tránh được xu hướng tự do tùy tiện, tách ra khỏi khuôn khổ
pháp luật, coi thường cấp trên ở trung ương và ở các cấp quản lí hành chính nhà
nước.
+ Thứ hai, cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa
phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lí hành
chính nhà nước. Làm như vậy để khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm
mất tính chủ động sáng tạo của địa phương và cấp dưới.

6


3.3. Việc phân cấp quản lí
Phân cấp quản lí là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới
nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí hành
chính nhà nước. Đây là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên,
sự phân cấp quản lí chỉ thực sự có hiệu quả khi đảm bảo được một số yêu cầu sau:
+ Việc phân cấp quản lí phải đảm bảo cho trung ương có quyền quyết định
trong những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm bảo đảm
sự phát triển cân đối và hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và
thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc. Ví dụ: Khoản 1 Điều 82 Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003 có quy định về nhiệm vụ và
quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh: “xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội, phát triển ngành, phát triển đơ thị và nơng thơn trong phạm vi
quản lí; xây dựng kế hoạch dài hạn và hàng năm để phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh trình Hội đồng nhân dân thơng qua để trình Chính phủ phê duyệt”. Như vậy,

mặc dù việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là của cơ quan quản lí
cấp cơ sở nhưng quyết định cuối cùng lại thuộc về cơ quan quản lí hành chính ở
trung ương.
+ Mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính
chủ động sáng tạo trong quản lí. Điều này được biểu hiện khá rõ ràng trên thực tế,
chẳng hạn như Ủy ban nhân dân tỉnh được quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh. Mạnh dạn phân cấp quản lí
cho địa phương và cơ sở là biện pháp đảm bảo tập trung, tránh cho trung ương và
cấp trên phải ơm đồm các cơng việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa
phương và cơ sở.
+ Việc phân cấp phải thật cụ thể, hợp lí trên cơ sở những quy định của pháp
luật. Phân cấp quản lí giữa các cấp trong bộ máy quản lí hành chính nhà nước là
cơng việc hết sức tạp do đó, việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lí cần
phải có sự cân nhắc, tính tốn kĩ lưỡng, hợp lí, tránh đưa ra những quyết định
mang tính chung chung, tùy tiện. Nghị định số 71/2003/NĐ-CP ngày 19/06/2003
của Chính phủ về phân cấp quản lí biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước là một
văn bản quy định cho sự phân cấp quản lí trong quản lí hành chính nhà nước.
7


3.4. Hướng về cơ sở
Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của
cải, vật chất, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao
động.
Hướng về cơ sở là một hoạt động mang tính thực tiễn cao bởi vì chỉ khi nào
tiếp cận, nắm bắt được mọi diễn biến tình hình của từng đơn vị cơ sở thì Nhà nước
mới rút ra được kết luận, những kinh nghiệm quản lí phù hợp từ đó đưa ra những
quyết sách quản lí hợp lí, đúng đắn cho tồn cục.
+ Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng
dân chủ trên cơ sở quản lí tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn

vị kinh tế, văn hóa – xã hội trực thuộc.
+ Các đơn vị kinh tế được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp
pháp, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời cũng được nhà nước
hướng dẫn, giúp đỡ về vật chất, tinh thần.
+ Các đơn vị văn hóa – xã hội của hệ thống đơn vị các cơ sở luôn được Nhà
nước quan tâm, cung cấp những trang thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về
vật chất, tinh thần nhằm tạo những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động
có hiệu quả.
+ Nhà nước cũng có các chính sách và biện pháp quản lý một cách thống
nhất và chặt chẽ tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở.
3.5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoat
động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng
trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ
thể. Ví dụ : UBND tỉnh A một mặt chịu sự chỉ đạo của HĐND tỉnh A theo chiều
ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều dọc. Ðối với cơ quan
chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền chun mơn cấp trên trực tiếp. Ví dụ: Sở Tư pháp Tỉnh B, một mặt phụ
thuộc vào UBND Tỉnh B, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Tư pháp.
8


Ở địa phương, ủy ban nhân dân các cấp trước hết phụ thuộc vào hội đồng
nhân dân cùng cấp (mối phụ thuộc ngang). Đồng thời chúng còn phụ thuộc vào cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc
dọc). Ngay tại Điều 2 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân đã
khẳng định: “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách

nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên”. Hoặc
cũng như tại Điều 7 của Luật này quy định rất rõ: “Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu
sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cáp trên. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo
của Chính phủ”. Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát
huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương để hồn thành nhiệm vụ cấp trên
giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước
để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo nên một hoạt động chung thống nhất.
III. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành chính nhà
nước
Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định:”Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
việt nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân Nhà nước ta là nhà nước chun chính vơ sản ,theo chế độ
xã hội chủ nghĩa. Áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước
nói chung và trong quản lý hành chính nói riêng là điều tất yếu và rất cần thiết.
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa rất lớn trong quản lý hành
chính nhà nước ở Việt nam hiện nay.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản, đóng vai trị là tư tưởng
chỉ đạo xun suốt trong q trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước, quản lý
xã hội. Trong hoạt động quản lý thì nguyên tắc này nó đảm bảo cho sự tập trung
quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý, điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính
sách pháp luật một cách thống nhất, đối tượng nguyên tắc này đảm bảo mở rộng
quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý,
phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng trong quá trình thực hiện chính sách
pháp luật.

9


Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc có ảnh hưởng rất lớn trong
q trình các chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà

nước, nó có một ý nghĩa quan trọng khơng thể phủ nhận đối với quản lí hành chính
nhà nước:
Thứ nhất, nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước góp
phần tăng cường hiệu quả của hoạt động quản lí hành chính nhà nước vì:


Trước tiên tập trung dân chủ sẽ bảo đảm sự thống nhất trong quản lí hành

chính nhà nước và tập trung dân chủ sẽ tập hợp được ý kiến của tập thể thành một
ý kiến chung nhất. Khi có tập trung dân chủ sẽ khơng cịn tình trạng mỗi người một
ý, mỗi người làm một hướng khác nhau tạo ra sự lộn xộn trong quản lí và hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước. Ta có thể thấy Chính phủ thảo luận tập thể
và biểu quyết theo đa số tám nhóm vấn đề quan trọng. Như vậy, vừa có thể phát
huy sức mạnh đoàn kết của tập thể vừa tạo ra sự cơng bằng trong hoạt động quản lí
hành chính nhà nước.


Ngồi ra, tập trung dân chủ giúp cho hoạt động quản lí hành chính nhà nước

được khách quan khoa học. Nếu quản lí hành chính nhà nước mà chỉ dựa vào ý
kiến chủ quan, ý kiến của một hoặc một số các nhân liệu có thể đưa ra được quyết
định đúng đắn? Hơn nữa quản lí hành chính nhà nước là quản lí mang tính rộng rãi
và tồn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vì vậy tập trung dân chủ sẽ tạo
ra những phương hướng, biện pháp quản lí hành chính tối ưu nhất có thể áp dụng
lâu nhất, rộng nhất và sâu nhất có thể.
Thứ hai, tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước góp phần thực
hiện tốt tập trung dân chủ trong quản lí nhà nước. Quản lí nhà nước là hoạt động
của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các
chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Quản lí nhà nước trong lĩnh vực
hành pháp là quản lí hành chính nhà nước. Như vậy, thực tê quản lí hànhc hính nhà

nước là một bộ phận của quản lí nhà nước và khi cái bộ phận có làm tốt được thì
cái tổng thể mới tốt được. Tập trung dân chủ cũng là một trong các nguyên tắc hoạt
động của quản lí nhà nước, giả sử quản lí hành chính nhà nước không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng, không triệt để ngun tắc tập trung dân chủ thì liệu có
thể có một ngun tắc tập trung dân chủ hồn thiện, hiệu quả trong quản lí nhà
10


nước. Và nếu một nguyên tắc không thực hiện tốt thì dù những ngun tắc cịn lại
có tốt đến đâu đi nữa thì quản lí nhà nước cũng khơng đạt được hiệu quả, đáp ứng
được yêu cầu, mục đích đã đề ra.
Thứ ba, tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước góp phần đảm
bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân. Ta đã biết pháp chế xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với dân chủ, dân
chủ là một trong những tiền đề, những nguyên tắc đầu tiên để đảm bảo pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Khi có tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước, nghĩa
là Nhà nước đã mở rộng quyền quản lí hành chính nhà nước cho cả các đơn vị cơ
sở. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, do vậy ln tạo điều kiện
cho nhân dân tham gia quản lí nhà nước và nêu cao tinh thần của tập thể. Việc áp
dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước đã giúp cho
việc thực hiện quyền lực làm chủ của nhân dân (thông qua các cơ quan quyền lực
nhà nước ở trung ương và địa phương) hoàn thiện hơn, người dân có thể thực hiện
quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm bảo cho quần
chúng tích cực tham gia vào cơng tác quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cần
lưu ý là việc áp dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách nhiệm cá nhân,
nghĩa là, dân chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể, trong
công việc nhất định, ở thời gian xác định.
KẾT LUẬN
Xã hội ngày càng phát triển, Việt Nam đang ngày càng hội nhập và tiến xa
hơn sự phát triển của nước nhà ăn nhập vào nền kinh tế phát triển rộng của thế giới

hơn, điều đó càng địi hỏi hoạt động quản lí hành chính nhà nước nói riêng và quản
lí nhà nước nói chung linh hoạt, nhanh gọn và thuận tiện hơn. Việc áp dụng ra sao,
như thế nào những nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước đóng vai trị chủ
đạo trong việc quyết định cải cách hành chính nhà nước để phù hợp với sự phát
triển của xã hội, với yêu cầu của nhà nước và nhân dân. Do vậy thiết nghĩ các chủ
thể có thẩm quyền cần nâng cao năng lực quản lí, tình thần trách nhiệm, chủ động
sáng tạo khi áp dụng các nguyên tắc này vào hoạt động quản lí hành chính nhà
nước. Đồng thời phải hồn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật làm cơ sở
pháp lí cho những nguyên tắc này được thực hiện hiệu quả trên thực tế.
11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.
Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2008;
2. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân năm 2003;
3. Luật Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001);
4.
5.

12



×