Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

NHẬN xét NHỮNG bất cập, THIẾU sót TRONG các QUY ĐỊNH của các QUY ĐỊNH của PHÁP LUẬT về các điều KIỆN có HIỆU lực của hợp ĐỒNG dân sự và một số KIẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.01 KB, 20 trang )

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1. Khái niệm hợp đồng dân sự
Hợp đồng dân sự là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân
sự và là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa mãn quyền, lợi ích hợp pháp của
các chủ thể trong xã hội. Hợp đồng nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng được
hình thành từ hai cơ sở:
- Cơ sở khách quan để hình thành hợp đồng: Xã hội ngày càng phát triển, sự
phân công lao động ngày càng thể hiện rõ rệt. Theo đó, mỗi chủ thể chỉ có thể
đảm trách một hoặc một số công việc nhất định trong xã hội. Trong khi đó, nhu
cầu của con người ngày càng một gia tăng theo sự phát triển của các điều kiện về
vật chất và tinh thần. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, các chủ thể phải tham gia
nhiều quan hệ hợp đồng khác nhau, trong đó có hợp đồng dân sự.
- Cơ sở chủ quan để hình thành quan hệ hợp đồng: vì lợi ích của bản thân mình
nên chủ thể sẽ tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự. Như vậy, cơ sở chủ
quan để hình thành quan hệ hợp đồng là ý chí và sự tự do ý chí của chủ thể trong
quan hệ hợp đồng mà chủ thể tham gia. Nếu tham gia quan hệ hợp đồng mà
không có sự tự do ý chí của chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó thì hợp đồng
dân sự có thể bị vô hiệu.
Như vậy, một xã hội muốn tồn tại và phát triển, nhu cầu của con người muốn
được thỏa mãn thì buộc các chủ thể phải tìm đến với nhau thông qua quan hệ hợp
đồng và trong quan hệ hợp đồng đó phải có sự tự do ý chí của chủ thể.
Hợp đồng dân sự được xác lập sẽ hình thành mối quan hệ pháp lý giữa các
chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng, mối liên hệ pháp lý này được đảm bảo thực
hiện bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Do đó, có thể nói rằng sau khi hợp
đồng được thiết lập, sự ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
được thể hiện rõ nét, theo đó bên nào vi phạm cam kết, thỏa thuận phải gánh chịu
hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi vi phạm của mình. Chính vì lý do này, có rất
nhiều thuật ngữ khác nhau được dùng cho quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể


như bản cam kết, bản giao kèo, khế ước, luật riêng của các bên tham gia giao


kết...
Điều 388 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 quy định: “ Hợp đồng dân sự là
sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Theo đó, để hình thành hợp đồng dân sự phải có các yếu tố sau:
+ Hợp đồng dân sự phải có sự tham gia của các bên: Hợp đồng là sự thỏa thuận
của các chủ thể liên quan đến xác lập các quyền, nghĩa vụ nhằm đem lại lợi ích
cho mình hoặc đem lại lợi ích cho người khác.
+ Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất ý
chí giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó.
+ Hậu quả pháp lý của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là
nhằm làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
+ Sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giả tạo, lừa
dối, nhầm lẫn, đe dọa...
2. Đặc điểm hợp đồng dân sự
2.1. Hợp đồng là hành vi pháp lí song phương
Điều 121 BLDS năm 2005 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”. Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự phổ biến nhất trong đời sống
hàng ngày. Theo Điều 388 BLDS năm 2005 cũng quy định: “Hợp đồng là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên như vậy, hợp đồng là hành vi
pháp lí song phương. Hành vi pháp lí này đòi hỏi sự thể hiện và thống nhất ý chí
của hai hay nhiều bên làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự.
Hành vi pháp lí này cũng khác so với hành vi pháp lí đơn phương: Hành vi
pháp lí đơn phương chỉ được xác lập theo ý chí của một chủ thể duy nhất như
hành vi lập di chúc hay hành vi từ chối hưởng di chúc… Tính chất của hợp đồng
là sự thống nhất ý chí giữa hai hay nhiều người. Mục đích của hợp đồng chính là
2



việc mỗi bên theo đuổi những lợi ích riêng của mình và hợp đồng là kết quả của
sự dung hoà các lợi ích đối lập nhau.
Thông thường hợp đồng có hai bên tham gia trong đó thể hiện sự thống nhất
ý chí của các chủ thể trong một quan hệ cụ thể (mua, bán, cho thuê…), nhưng
bên cạnh đó cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia và mỗi bên trong hợp
đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia. Hành vi pháp lí là hành vi có
mục đích của các chủ thể nhằm phát sinh hệ quả pháp lí. Đó là phương tiện để
thực hiện ý chí của các chủ thể tạo ra các quan hệ xã hội nói chung và các quan
hệ pháp luật dân sự nói riêng. Hành vi pháp lí chính là những sự kiện xuất hiện
theo ý chí của con người và sự hiện diện của chúng đưa đến những hệ quả pháp lí
nhất định mà pháp luật đã quy định. Nhưng để một hành vi pháp lí làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt một quan hệ pháp luật dân sự thì hành vi đó phải là hành vi
mà chủ thể thực hiện phải phản ánh đúng ý chí của chủ thể đó. Sự phản ánh đúng
ý chí của chủ thể được biểu hiện trên hai mặt là chủ quan và khách quan. Mặt
chủ quan của sự thể hiện ý chí biểu hiện khả năng của chủ thể tự xác định cho
mình mục đích hành động và định hướng cho hành động đạt được mục đích đã
xác định trước. Để được như vậy ý chí đó phải có tính độc lập, phản ánh thái độ
tự nguyện, tự giác của chủ thể và ý chí đó được biểu hiện ra bên ngoài dưới một
hình thức nhất định. Mặt khách quan của sự thể hiện ý chí là ý chí đó phải được
thể hiện ra bên ngoài cho mọi người biết dưới một hành vi nhất định. Chủ thể
tham gia vào hợp đồng phải có sự thống nhất ý chí và thể hiện ý chí đó ra bên
ngoài. Hợp đồng được tạo lập là do sự hợp tác của hai hay nhiều bên, giữa các
bên đã có sự thoả thuận, sự thoả thuận này đủ để tạo lập nên hợp đồng. Sự thoả
thuận đó không cần phải theo một công thức nào cả do đó người ta có thể lập hợp
đồng bằng cách trao đổi thư tay, thư điện tử hay qua điện thoại. Ý chí của các
chủ thể sẽ không làm phát sinh bất cứ một hệ pháp lí nào nếu nó không được
biểu hiện ra bên ngoài cho mọi người biết dưới một hình thức nhất định.
2.2. Hợp đồng là nguồn chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ
Theo Khoản 1, Điều 13 Bộ luật dân sự 2005, giao dịch dân sự là một trong

những căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Cũng theo Khoản 1, Điều 281
3


Bộ luật dân sự 2005 căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là hợp đồng dân sự. Hợp
đồng là kết quả của sự thống nhất ý chí tự nguyện, trở thành nguồn chủ yếu làm
phát sinh nghĩa vụ. Tại Điều 280 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Nghĩa vụ dân
sự là việc mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa
vụ) phải chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc
hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”. Theo như cách định nghiã trên nghĩa
vụ được hiểu là mối quan hệ về mặt pháp lí. Như vậy có lẽ chưa được chính xác
và cách định nghĩa này cũng khác so với cách định nghĩa ở các bộ dân luật ở Việt
Nam trước đó như Điều 644 Bộ dân luật Bắc Kì 1931“Nghĩa vụ là mối liên lạc
về luật thực tại hay luật thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay
đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người đó. Người bị bó buộc vào nghĩa vụ
gọi là người mắc nợ, người được hưởng nghĩa vụ gọi là chủ nợ”. Có thể thấy
rằng tuy có khác nhau về ngôn từ nhưng nghĩa vụ trong các quy định nói trên đều
được hiểu thống nhất là một quan hệ pháp luật khi xem xét nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng.
Như vậy, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là hành vi pháp lí song
phương, là căn cứ phát sinh nghĩa vụ. Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng trở thành
hình thức pháp lí chủ yếu mà nhờ đó các quan hệ dân sự phong phú, đa dạng của
nền kinh tế được xác lập, củng cố.
II. CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
Hợp đồng dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa mãn quyền và
lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Ngoài ra, hợp
đồng dân sự còn là căn cứ để Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác giải
quyết tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên, để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp lý
thì hợp đồng đó phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy

định.
Điều 121 BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
4


sự”. Như vậy, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự chính là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 122 BLDS 2005.
Theo đó, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự đó là:
- Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự;
- Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
- Người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện;
- Hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp
pháp luật có quy định.
1. Điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng dân sự
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự mà cụ thể ở đây là quan hệ hợp đồng
là những “người” tham gia vào quan hệ đó. Phạm vi người tham gia quan hệ hợp
đồng bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Điều kiện để hợp
đồng có hiệu lực là “ người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự”- như
vậy “ người” ở đây phải được nhìn nhận dưới góc độ pháp lí tức là không chỉ là
cá nhân mà còn bao gồm pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.
1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng là cá nhân
Điều17 BLDS năm 2005 quy định: “năng lực hành vi của cá nhân là khả
năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ
dân sự”. Do vậy, chỉ có những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và
khả năng nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng và tự mình chịu trách nhiệm
trong hợp đồng. Bộ luật dân sự Việt Nam cũng không quy định cá nhân tham gia
hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự đẩy đủ mà đối với cá nhân ở các độ

tuổi khác nhau sẽ có năng lực hành vi dân sự khác nhau và từ đó sẽ có khả năng
tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng khác nhau.
+ Thứ nhất, đối với những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: là
những người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
không bị mất năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
5


có toàn quyền tham gia mọi giao dịch dân sự và cũng đồng thời phải gánh chịu
mọi trách nhiệm và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi pháp lý mà họ thực hiện.
Như vậy, pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi
tối đa của người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng. Họ có đủ tư cách chủ thể,
toàn quyền tham gia xác lập hợp đồng và tự mình chịu trách nhiệm về những
hành vi do họ thực hiện. Tuy nhiên,theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình
đối với nữ từ 18 tuổi (17 tuổi + 1 ngày) trở lên có quyền kết hôn nhưng người
phụ nữ dù đủ tuổi kết hôn vẫn chưa có đủ năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, khi họ
tham gia vào quan hệ hợp đồng phải được sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật nếu không hợp đồng sẽ bị vô hiệu.
Mặt khác, quy định có người năng lực hành vi là một trong những điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng không được hiểu theo nghĩa cứ có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ thì có thể tham gia mọi giao dịch mà trên thực tế vẫn có những quy
định mang tính hạn chế người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ tham gia vào
một số giao dịch nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của những người liên
quan. Đó là trường hợp được quy định tại Khoản 5 Điều 144 BLDS năm 2005 về
người đại diện không được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình
hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó hay các giao
dịch dân sự giữa người giám hộ và người được giám hộ đều vô hiệu chỉ trừ
trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự
đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Hay tại khoản 3, Điều 69 BLDS 2005
quy định: “các giao dịch dân sự giữa người giám hộ và người được giám hộ có

liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao
dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người
giám sát việc giám hộ”.
Ngoài ra, đối với những cá nhân tuy có đủ năng lực hành vi dân sự nhưng có
thể tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua người đại diện theo quy định
của pháp luật trừ trường hợp pháp luật quy định cá nhân đó phải tự mình tham
gia xác lập, thực hiện hợp đồng đó.
6


+ Thứ hai, đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15
tuổi đến dưới 18 tuổi: trên thực tế, người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có thể
tham gia lao động. Xuất phát từ lý do này mà pháp luật dân sự đã chấp nhận một
số giao dịch dân sự nhất định phát sinh hậu quả pháp lý nếu giao dịch dân sự đó
do người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi xác lập, thực hiện. theo khoản 2 Điều 20
BLDS quy định: “Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười
tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự mà không cần có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Nhưng cũng cần lưu ý pháp luật dân sự quy định một số giao dịch cụ thể chỉ
có thể do người đã thành niên xác lập mới có hiệu lực, đặc biệt là các hợp đồng
pháp luật bắt buộc phải có công chứng. Trong trường hợp đó người chưa thành
niên dù có tài sản riêng cũng không có năng lực hành vi dân sự để giao kết hợp
đồng.
+ Thứ ba, đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 6 tuổi
đến dưới 15 tuổi, người bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự:
Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi được xác định là những người mà sự nhận
thức và khả năng làm chủ hành vi của mình chưa được đầy đủ, do đó họ có
những hạn chế nhất định. Do đó người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi khi tham gia
vào một hợp đồng dân sự nào đó phải được người theo pháp luật đồng ý. Đối với

người bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi thì: “…Giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản của người hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý
của người đại diện theo pháp luật…”
+ Thứ tư, đối với người dưới 6 tuổi và người bị Tòa Án tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự: Những người này không có quyền tham gia xác lập và thực
hiện bất cứ một giao dịch dân sự nào. Mọi giao dịch của những người này phải
do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập thực hiện (Điều 21, 22 BLDS
2005). Nguyên nhân là do họ chưa đủ ý chí cũng như lý trí để hiểu được hành vi
và hậu quả của những hành vi đó.
7


Người bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì phải có người
giám hộ và mọi giao dịch liên quan đều phải được xác lập, thực hiện thông qua
người giám hộ (Điều 22);
Người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì các giao dịch
liên quan tới tài sản của họ phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp
luật, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu hàng ngày, với những hợp đồng liên quan
tới tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật ( Điều 23 BLDS 2005).
Như vậy, có thể nói khả năng tham gia hợp đồng dân sự của người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự tương đương với khả năng tham gia giao dịch dân sự
của người có năng lực hành vi dân sự một phần. Nhìn chung, để có thể xác lập,
thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự thích
ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng mà chủ thể đó tham gia.
Một trường hợp đã được dự liệu trong pháp luật dân sự tại Điều 133 đó là
trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự nhưng đã xác lập, thực hiện giao dịch vào đúng thời điểm không
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì sẽ bị tuyên là vô hiệu. Đây có thể
được coi là trường hợp ngoại lệ của trường hợp người có năng lực hành vi dân sự

đầy đủ không bị mất năng lực hành vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự song đã xác lập giao dịch trái với ý chí của họ nên họ có quyền yêu cầu
Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình bởi
khi đó đã vi phạm tính tự nguyện khi tham gia giao dịch.
1.2. Chủ thể tham gia hợp đồng là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
- Đối với pháp nhân: Pháp nhân là một thực thể pháp lý, khi tham gia vào
các hợp đồng dân sự thì phải thông qua hành vi của người đại diện của pháp nhân
( đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền). Khi tham gia vào các hợp
đồng dân sự thì những người diện cho pháp nhân cần phải tuân thủ các quy định
của pháp luật về đại diện, phạm vi thẩm quyền đại diện để xác định hiệu lực pháp
lý của các hợp đồng này.. Ngoài ra trong việc tham gia các hợp đồng dân sự,
8


pháp nhân chỉ được phép tham gia các hợp đồng phù hợp với mục đích hoạt
động, phạm vi kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh của pháp nhân…
- Đối với hộ gia đình: Khi tham gia vào các hợp đồng dân sự thì chủ hộ (là
người đại diện theo pháp luật của hộ gia đình) có thể trực tiếp tham gia hoặc có
thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên tham gia vào việc xác lập, thực
hiện hợp đồng. Theo quy định của pháp luật thì “ Giao dịch dân sự do người đại
diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của họ làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình” (khoản 2 Điều 107 BLDS)
Thông thường, giao dịch dân sự do chủ hộ hoặc thành viên đã thành niên khác
được chủ hộ ủy quyền xác lập, thực hiện vì lợi ích của hộ gia đình sẽ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình trong hợp đồng dân sự. Tuy nhiên đối với
việc định đoạt tư liệu sản xuất hoặc tài sản chung của hộ gia đình có giá trị lớn
thì buộc phải có sự đồng ý của các thành viên trong gia đình từ đủ 15 tuổi trở lên,
đối với các loại tài sản chung khác phải được sự đồng ý của đa số các thành viên
từ đủ 15 tuổi trở lên.
- Đối với tổ hợp tác: Khi tham gia vào các hợp đồng dân sự thì tổ trưởng tổ

hợp tác là người đại diện theo pháp luật của tổ hợp tác. Ngoài việc trực tiếp đại
diện cho tổ hợp tác tham gia các hợp đồng dân sự thì tổ trưởng tổ hợp tác có thể
ủy quyền cho tổ viên của mình thực hiện những công việc cần thiết cho tổ hợp
tác. Tuy nhiên việc đinh đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được
toàn bộ tổ viên đồng ý, đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng
ý.
2. Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng dân sự
Bộ luật dân sự quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng (giao dịch dân
sự” là: “mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội”. Theo Điều 123 BLDS 2005: “Mục đích của
hợp đồng là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được”. Lợi ích hợp
pháp là các hành vi mà các bên trong hợp đồng sẽ thực hiện để đem lại một kết
quả nhất định. Hợp đồng lại là căn cứ phát sinh nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa
vụ chính là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện. Vì vậy,
9


lợi ích hợp pháp đó có thể là vật, công việc phải thực hiện hoặc không được thực
hiện. Không thể có hành vi mang tính ý chí khi các chủ thể tham gia vào việc xác
lập, thực hiện hợp đồng lại không nhằm vào một mục đích nhất định. Mục đích
của hợp đồng là yếu tố không thể thiếu trong hợp đồng, là cơ sở xác định việc
xác lập, thực hiện hợp đồng đó có hiệu lực pháp lí hay không.
Điều cấm của pháp luật là “những quy định của pháp luật không cho phép
chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”, còn đạo đức xã hội là “những chuẩn
mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng
thừa nhận và tôn trọng”. Trong trường hợp hợp đồng đã xác lập vi phạm điều
cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội sẽ dẫn đến hậu quả pháp lí hợp đồng vô
hiệu tuyết đối (vô hiệu đương nhiên). Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối không có hiệu
lực từ thời điểm giao kết và mặc nhiên bị coi là vô hiệu. Đối với trường hợp này,
các bên tham gia hợp đồng, những người có quyền, lợi ích liên quan đều có

quyền yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu để bảo vệ lợi ích chung, lợi ích
cộng đồng. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu không hạn chế.
Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Thường thì nội
dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như: đối tượng của hợp đồng là tài sản
hay công việc, chất lượng của đối tượng đó; giá và phương thức thanh toán; thời
hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng… (Điều 402). Bất kỳ điều khoản nào trong số
đó vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì hợp đồng cũng bị
coi là vô hiệu. Ví dụ: trong Quyết định Giám đốc thẩm số 18/2005/DS-GĐT
ngày 22/6/2005 của HĐTP –TANDTC hợp đồng mua bán nhà được xác lập giữa
người chuyển nhượng (Việt Nam) với người nhận chuyển nhượng (người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, không thuộc diện được phép có quyền sở hữu nhà ở
tại Việt Nam), thì bị xem là vô hiệu vì “có nội dung trái pháp luật”.
Như vậy, để hợp đồng có hiệu lực thì mục đích cũng như nội dung của hợp
đồng phải không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Hợp đồng có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội thì bị vô hiệu.
3. Điều kiện về sự tự nguyện trong hợp đồng dân sự
10


Bản chất của hợp đồng là sự thống nhất ý chí và sự bày tỏ ý chí nên người
tham gia hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. Sự tự nguyện xác lập, thực hiện
hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có tham gia hay không tham gia
vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà không chịu sự chi phối
hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác. Pháp luật đòi hỏi
những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. Tự
nguyện còn là nguyên tắc pháp lý cơ bản của pháp luật dân sự. Ý chí tự nguyện
của chủ thể là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu không được biểu hiện ra
bên ngoài, thì người khác không thể biết được. Không có tự do ý chí và sự bày tỏ
ý chí hoặc phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố này, thì sẽ không có sự tự

nguyện. Hợp đồng do chủ thể xác lập, thực hiện không tự nguyện, thì có thể bị
vô hiệu hoặc đương nhiên vô hiệu. Những trường hợp không có sự tự nguyện là
những trường hợp mà việc xác lập, thực hiện hợp đồng không đúng ý chí đích
thực của chủ thể hoặc không có sự thống nhất giữa ý chí của chủ thể với sự bày
tỏ ý chí của chính chủ thể đó ra bên ngoài. Theo quy định của BLDS 2005, hợp
đồng bị coi là được xác lập thiếu yếu tố tự nguyện nếu thuộc một trong năm
trường hợp sau đây:
3.1. Hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn
Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của hợp đồng mà tham
gia vào hợp đồng gây thiệt hại cho mình hoặc cho phía bên kia. Ví dụ: người
mua bảo hiểm tưởng là khi mua bảo hiểm thì được hưởng tiền bảo hiểm trong
mọi trường hợp có rủi ro, nhưng thực tế là điều khoản bảo hiểm đã có những loại
trừ nên một số loại rủi ro sẽ không được bảo hiểm. Pháp luật Việt Nam chỉ chấp
nhận hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng. Hợp đồng bị
nhầm lẫn về nội dung có thể bị vô hiệu theo quy định tại Điều 131 BLDS 2005:
“Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch
dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay
đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn
có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu”. Sự nhầm lẫn phải xuất
phát từ nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc, sự
11


nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng căn cứ vào nội dung của hợp đồng được xác
lập.
3.2. Hợp đồng được xác lập trên cở sở của sự lừa dối, đe doạ
Lừa dối trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 132 Bộ luật dân sự
2005 đó là hành vi cố ý của một bên hoặc của bên thứ ba nhằm làm cho bên kia
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch
dân sự đã xác lập. Sự lừa dối chỉ là nguyên nhân làm cho hợp đồng vô hiệu nếu

sự lừa dối của một bên là nguyên nhân thúc đẩy bên kia giao kết hợp đồng. Như
vậy, trong lừa dối cũng có yếu tố nhầm lẫn nhưng sự nhầm lẫn này là do đối
phương cố ý gây ra bằng những mưu mô, thủ đoạn gian xảo. Biểu hiện của sự lừa
dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật, cung cấp giấy chứng nhận giả
liên quan đến tình trạng tài sản...khiến cho bên kia tin vào các thông tin đó mà
xác lập hợp đồng bất lợi cho họ hoặc trái với nguyện vọng đích thực của họ.
Pháp luật Việt Nam qui định ba trường hợp lừa dối là lừa dối về chủ thể, lừa dối
về đối tượng và lừa dối về nội dung của hợp đồng.
“Đe doạ trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người
thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ,
vợ, chồng, con của mình” [ Điều 132 BLDS 2005 ]. So với Bộ luật dân sự 1995
thì Bộ luật dân sự 2005 đã có sự sửa đổi khi quy định thêm sự đe doạ đó có thể
do một bên giao kết hợp đồng thực hiện hoặc có thể do một người thứ ba thực
hiện. Mặt khác sự đe doạ này tác động đến đối tượng được quy định cụ thể là
cha, mẹ, vợ, chồng, con là hàng thừa kế thứ nhất chứ không quy định chung là “
người thân thích” như Bộ luật dân sự 1995 nữa. Sự đe dọa thường được hiểu là
việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng hành vi bạo lực, vật chất
hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí hoặc làm mất khả năng
kháng cự nên đã xác lập hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ.
3.3. Hợp đồng được xác lập khi một bên không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình
12


“Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng
thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu
cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu” [ Điều 133]. Đây là trường
hợp đặc biệt của người có năng lực hành vi dân sự nhưng lại xác lập hợp đồng
vào thời điểm họ không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Do tại thời

điểm giao kết họ bị rơi vào trạng thái làm họ bị mất hoàn toàn ý chí tự chủ, độc
lập của mình nên việc thể hiện ý chí trong hợp đồng cũng như việc nhận thức hậu
quả hành vi của mình là không chính xác do vậy không phù hợp với điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng “người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện”. Ví dụ
như một người tham gia kí kết hợp đồng trong tình trạng anh ta đang bị say rượu.
Rõ ràng anh ta trong tình trạng bình thường hoàn toàn có đủ năng lực hành vi
dân sự, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình nhưng tại thời
điểm anh ta bị say rượu, anh ta không nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình, mất ý chí tự chủ nên trong trường hợp này hợp đồng giao kết vô hiệu do vi
phạm tính tự nguyện. Vấn đề pháp lý đặt ra là anh ta phải chứng minh được tại
thời điểm xác lập hợp đồng, anh ta đang ở trong tình trạng không có khả năng
nhận thức, điều khiển hành vi của mình.
4. Điều kiện về hình thức của hợp đồng dân sự
Ngoài ba điều kiện cơ bản trên, Bộ luật quy định một điều kiện liên quan
đến hình thức của hợp đồng. Khoản 2 Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005 quy
định: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
trong trường hợp pháp luật có quy định”. Như vậy, nếu pháp luật quy định thì
hình thức của hợp đồng chính là một trong những điều kiện để hợp đồng có hiệu
lực pháp luật, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Khoản 1 Điều 401 BLDS năm 2005 quy định hình thức của hợp đồng có 3
dạng:
- Thứ nhất, hợp đồng bằng lời nói (hợp đồng miệng): đây là hình thức cổ
xưa nhất, được các bên trao đổi và xác lập bằng miệng. Không phải ngẫu nhiên
mà các nhà làm luật ghi nhận hình thức lời nói là một trong những phương tiện
ghi nhận nội dung thoả thuận về quyền, nghĩa vụ của các bên. Bởi với việc
13


truyền tải thông tin bằng lời nói, bao gồm cả việc thể hiện tâm lí tình cảm, cách
suy xét, đánh giá sự vật, hiện tượng không chỉ chính xác mà còn có khả năng

truyền đạt tới đối tượng tiếp nhận một cách nhanh chóng nhất, với dung lượng
lớn nhất, tác động trực tiếp đến tâm lí, tình cảm, suy nghĩ của đối tượng tiếp
nhận. Lời nói chính là cách thức biểu hiện ý chí của một cá nhân và hình thức
hợp đồng bằng lời nói là phương thức thể hiện sự thống nhất ý chí của các chủ
thể trong hợp đồng. Theo đó, các bên giao kết hợp đồng trao đổi với nhau bằng
lời nói, trực tiếp hoặc thông qua điện thoại, điện đàm, giử thông điệp ddienj tử
bằng âm thanh (tiếng nói)...Hợp đồng bằng lời nói được xác lập bằng một hành
động cụ thể chứ không thể dưới dạng không hành động. Im lặng không được coi
là sự chấp nhận giao kết hợp đồng bởi con người không thể hiện ý chí của mình
một cách rõ ràng thông qua trạng thái này. Tuy nhiên, luật cũng quy định im lặng
là sự chấp nhận giao kết nếu như hết có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp
nhận giao kết (Khoản 2 Điều 404 BLDS năm 2005). Hình thức bằng lời nói được
các bên lựa chọn trong một số trường hợp nhất định bởi hình thức này chứa đựng
những yếu tố bất lợi. Để tránh trường hợp các bên liên quan phủ nhận sự tồn tại
của hợp đồng nên hình thức này chỉ áp dụng trong các hợp đồng có đặc điểm: Có
giá trị nhỏ, phục vụ cuộc sống hàng ngày; giữa các bên có độ tin cậy nhất định;
hợp đồng được thực hiện ngay lập tức và hoàn thành ngay sau thời điểm giao kết
trong thời gian tương đối ngắn ( ví dụ: hợp đồng mua bán hàng sinh hoạt ngày,
hợp đồng dịch vụ thông thường như vui chơi, giải trí, vận chuyển nhanh: xe ôm,
taxi...); nội dung các quyền, nghĩa vụ hợp đồng có tính đơn giản, thực hiện một
cách nhanh chóng, thuận tiện, không cần thiết có sự cẩn trọng quá mức bằng văn
bản. Hợp đồng miệng có hiệu lực tại thời điểm các bên đã trực tiếp thoả thuận
với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng.
Thực tiễn pháp lý cho thấy, do việc giao kết hợp đồng bằng lời nói có ưu
điểm là cách thức giao kết đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng và ít tốn kém nên
được sử dụng rất phổ biến trong giao dịch dân sự, nhưng ít được sử dụng hơn
trong giao dịch thương mại. Cũng vì sự tiện lợi của cách thức giao kết này mà
trên thực tế, có nhiều hợp đồng đáng lẽ phải được lập bằng văn bản hoặc bằng
14



văn bản có công chứng hoặc chứng thực (chẳng hạn như hợp đồng mua bán nhà,
hợp đồng thuê bất động sản), nhưng để giản tiện, các bên cũng thường lập dưới
hình thức lời nói, nên đã dẫn đến những tranh chấp rất khó giải quyết. Theo một
chuyên gia của TANDTC, có tới 90% các tranh chấp về hợp đồng mua bán (mà
chủ yếu là mua nhà đất mới đặt cọc) bị vô hiệu về hình thức. Điều đó cũng nói
lên nhược điểm của loại hình thức này là không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho
các bên, giá trị chứng minh không cao và dễ dẫn đến tình trạng phủ nhận của các
bên về sự tồn tại của hợp đồng nếu các bên không còn bằng chứng khác để
chứng minh về sự tồn tại của hợp đồng đó.
- Thứ hai, hợp đồng bằng văn bản: Văn bản (truyền thống) là hình thức
ngôn ngữ viết, được trình bày trên một chất liệu hữu hình nhằm thể hiện một nội
dung xác định mà người ta có thể đọc, lưu giữ và bảo đảm được sự toàn vẹn nội
dung đó. Khác với hợp đồng bằng lời nói vốn không để lại bằng chứng, thì hợp
đồng bằng văn bản đảm bảo sự thể hiện rõ ràng ý chí các bên cũng như nội dung
của từng điều khoản hợp đồng mà các bên muốn cam kết. Ngoài ra, hợp đồng
bằng văn bản cũng có thể trở thành bằng chứng hữu hiệu khi các bên có sự tranh
chấp, vì đây là hình thức có khả năng lưu giữ được ở trạng thái gần như nguyên
vẹn, trong một thời gian dài. Điều 124 BLDS 2005 có quy định các hình thức
giao dịch thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu cũng
được coi là giao dịch bằng văn bản. Hợp đồng bằng văn bản được các bên lựa
chọn trong các trường hợp: Hợp đồng có giá trị lớn; Hợp đồng có nội dung
quyền, nghĩa vụ phức tạp, phản ánh các quan hệ dân sự phong phú, đa dạng; Hợp
đồng được thực hiện trong một thời gian dài; Giữa các chủ thể trong hợp đồng
không có độ tin tưởng.
Hình thức bằng văn bản là hình thức duy nhất mà Nhà nước can thiệp vào
bằng những quy định cụ thể. Đối với một số loại hợp đồng nhất định, Nhà nước
can thiệp vào sự tự do ý chí bằng những quy định có tính chất bắt buộc đối với
hình thức hợp đồng bằng văn bản. Căn cứ vào mức độ can thiệp của Nhà nước
vào nguyên tắc tự do thể hiện ý chí của các bên trong hợp đồng mà hợp đồng

bằng văn bản được chia thành các loại:
15


+ Hợp đồng bằng văn bản thông thường: hợp đồng loại này chỉ cần lập
bằng văn bản thông thường trong đó ghi nhận quyền, nghĩa vụ của các bên là đủ.
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản
hợp đồng;
+ Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực, đăng kí hoặc xin
phép: đây là những dạng hợp đồng phần nhiều có đối tượng tài sản phải đăng kí
quyền sở hữu, những tài sản có giá trị đặc biệt trong đời sống dân sự không chỉ
bởi giá trị vật chất mà bởi chúng còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế được
(đất đai), là nơi cư trú của con người (nhà ở)…, hợp đồng có tính chất phức tạp
dễ xảy ra tranh chấp.
Hợp đồng dạng này cần có sự quản lí của Nhà nước bởi nó không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt, sản xuất kinh doanh của các chủ thể mà
còn ảnh hưởng lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, tác động đến
cuộc sống của cộng đồng dân cư, trật tự xã hội. Thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng là thời điểm văn bản hợp đồng được chứng nhận, chứng thực, đăng kí hoặc
cho phép.
- Thứ ba, hợp đồng thể hiện bằng hành vi cụ thể:
Hành vi cụ thể là một hình thức thể hiện của hợp đồng, hiểu theo nghĩa hẹp.
Bởi lẽ, việc tuyên bố ý chí bằng lời nói hay bằng chữ viết, suy cho cùng, cũng
đều bằng hành vi của con người. Tuy vậy, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ
thể được nói đến trong trường hợp này không phải được diễn đạt bằng lời nói hay
chữ viết mà chỉ được thể hiện bằng một hành động thuần túy. Thông thường,
hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được sử dụng khi bên thực hiện hành vi
giao kết hợp đồng đã biết rõ nội dung của hợp đồng và chấp nhận tất cả các điều
kiện mà bên kia đưa ra, và bên kia không loại trừ việc trả lời bằng hành vi, hoặc
không đưa ra một yêu cầu rõ ràng về hình thức của sự trả lời chấp nhận. Hình

thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được thể hiện ra bên ngoài khá đa dạng.
Hành vi cụ thể thường được sử dụng để xác lập các hợp đồng thông dụng, được
thực hiện ngay, và trở thành thói quen phổ biến của lĩnh vực hoạt động liên quan,
tại nơi giao dịch được xác lập. Ví dụ: hành vi mua hàng trong các quán ăn tự
16


phục vụ, với món ăn tự chọn được làm sẵn… Trong những trường hợp này, bên
có hành vi xác lập hợp đồng đã hiểu rõ nội dung và các điều kiện của hợp đồng,
còn bên kia cũng chấp nhận cách thức giao dịch bằng hành vi cụ thể đó. Hình
thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể cũng được sử dụng phổ biến trong các hoạt
động dịch vụ dành cho số đông đại chúng mà bên cung cấp dịch vụ đã có qui chế
hoạt động rõ ràng đã được công bố, hoặc giữa các bên đã có sự thỏa thuận về
việc một bên chấp nhận hành vi cụ thể của bên kia như là một hình thức giao kết,
thực hiện hợp đồng theo những quy ước, những điều kiện về pháp lý và kỹ thuật
mà các bên đã cam kết chấp nhận. Ví dụ: hành vi lựa chọn hàng hóa và thanh
toán tiền khi mua hàng tại siêu thị, gọi điện thoại công cộng thanh toán bằng
thẻ... Nhà làm luật cũng thừa nhận và quy định các hợp đồng được giao kết bằng
hành vi, kết hợp với các nghi thức đặc biệt khác do luật định. Ví dụ: nghi thức gõ
búa hoặc rung chuông trong hoạt động bán đấu giá tài sản. Ngay sau khi có
người trả giá cao nhất, người điều khiển phiên bán đấu giá sẽ nhắc lại ba lần giá
đã trả mà không có ai trả giá cao hơn (trong trường hợp đấu giá tăng dần), thì
người trả giá cao nhất (nhưng ít nhất phải bằng giá khởi điểm) là người được
mua tài sản đấu giá. Pháp luật hiện hành cũng thừa nhận hợp đồng được xác lập
bằng hành vi cụ thể trong các trường hợp đặc biệt, gọi là hợp đồng thực tế. Theo
đó, hợp đồng thực tế là những hợp đồng mà hiệu lực của nó phát sinh tại thời
điểm các bên thực tế đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng. Trong
các hợp đồng này, các bên có thể không dựa trên lời hứa hay văn bản đã được
cam kết để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ, vì lời hứa hay văn bản cam kết xác lập
hợp đồng cũng không có giá trị pháp lý chừng nào các bên chưa giao – nhận tài

sản trên thực tế. Hành vi giao - nhận tài sản là hình thức biểu hiện chủ yếu của
các hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng phát sinh tại thời điểm một hoặc các bên
chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng. Trong nhiều trường hợp, khi một
bên biết rõ nội dung lời đề nghị giao kết hợp đồng từ phía bên kia và thể hiện
đồng ý xác lập hợp đồng bằng một hành vi cụ thể, đã chuyển tín hiệu đồng ý đến
cho bên kia biết, thì hành vi cụ thể đó cũng được coi như hình thức biểu hiện của
hợp đồng.
17


Tóm lại, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự đã được quy định cụ thể
tại Khoản 1 Điều 122 BLDS năm 2005 được coi là những điều kiện bắt buộc để
hợp đồng có hiệu lực pháp luật. Điều kiện về hình thức chỉ áp dụng đối với một
số hợp đồng cụ thể như: hợp đồng mua bán bất động sản; hợp đồng thuê nhà; các
hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp;… Một hợp đồng
khi không tuân thủ một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì coi như
hợp đồng đó chưa được xác lập, không phát sinh hệ quả pháp lí và do đó không
làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Khi không đáp ứng
đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì theo quy định của pháp luật sẽ
không làm phát sinh hiệu lực với các bên và theo yêu cầu sẽ bị Toà án tuyên vô
hiệu. Mặc dù sự vô hiệu là do vi phạm điều kiện về chủ thể; điều kiện về nội
dung, mục đích của hợp đồng; điều kiện về sự tự nguyện hay điều kiện về hình
thức của hợp đồng và sự vô hiệu đó là tuyệt đối hay vô hiệu tương đối thì đều
dẫn đến hậu quả pháp lí như nhau.
III. NHẬN XÉT NHỮNG BẤT CẬP, THIẾU SÓT TRONG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ
HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Những bất cập, thiếu sót trong các quy định của pháp luật về các điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
- Nhìn chung thì trên thực tế việc áp dụng những quy định về điều kiện có hiệu lực

của hợp đồng đã được mọi người tìm hiểu và áp dụng phổ biến. Về điều kiện chủ
thể, điều kiện về mục đích, nội dung, điều kiện trong sự tự nguyện của hợp đồng
được nhìn nhận và vận dụng vào trong thực tế tương đối đúng cách, hợp lý, linh
động.
- Tuy nhiên, do sự đa dạng về hình thức hợp đồng – đây là vấn đề nhạy cảm, dễ
nhầm lẫn giữa các thoản thuận và quy định của pháp luật, đồng thời thực tiễn những
người áp dụng chưa thực sự hiểu và nắm vững luật định được quy định tại các Điều
122, 124, 401 BLDS 2005. Các quy định có những điểm bất cập cần phải được làm
rõ. Cụ thể:
18


Thứ nhất, Khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 quy định: “Hình thức giao dịch
dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy
định”. Trong quy định này, nhà làm luật chỉ đề cập đến “trường hợp pháp luật có
quy định”, mà không dự liệu khả năng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn hình
thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Việc quy định như vậy là
thiếu sót. Bởi lẽ, pháp luật không cấm các bên thỏa thuận xác lập hợp đồng theo
một hình thức xác định. Trong luật thực định, đối với nhiều loại hợp đồng, pháp
luật cũng cho phép các bên được tự do lựa chọn hình thức thích hợp để giao kết
hợp đồng. Ví dụ: “Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp
pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản” (Khoản 2 Điều
142). Trên thực tế, đối với các loại hợp đồng pháp luật không quy định hình thức
bắt buộc, thì các bên cũng có quyền thỏa thuận hình thức là một điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng. Mặt khác, việc điều luật nói trên bỏ qua quyền lựa chọn
hình thức làm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, là chưa phù hợp với yêu cầu
của nguyên tắc tự do hợp đồng. Vì bản chất của quan hệ pháp luật hợp đồng là
một loại quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực luật tư, nên quyền tự do của chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật này được pháp luật đề cao. Tự do lựa chọn hình thức
hợp đồng là một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc tự do hợp

đồng. Trên tinh thần đó, quyền tự do của các bên trong việc thỏa thuận chọn hình
thức là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, là một nội dung cần
phải được tôn trọng và được thừa nhận trong luật.
Thứ hai, quy định tại Khoản 1 Điều 401 còn dài dòng, và chưa linh hoạt.
Khoản 1 Điều 401 qui định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp
đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định”. Điều khoản này quy
định hình thức hợp đồng trong trường hợp pháp luật không có quy định bắt buộc
về hình thức. Tuy nhiên, cách diễn đạt của điều luật như vậy là dài dòng. Bởi lẽ,
trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng, các bên có thể lựa chọn xác lập hợp đồng
bằng bất kỳ hình thức nào. Một khi đã công nhận sự tự do trong việc lựa chọn
hình thức hợp đồng, thì cách thể hiện nội dung điều luật phải theo hướng mở,
19


chứ không nên “gò bó” các bên phải theo một “khuôn dạng định hình” nào cả.
Hơn nữa, xét về vai trò và chức năng, thì quy định tại Khoản 1 Điều 401 là quy
định cơ bản về hình thức hợp đồng, nên cũng được ngầm hiểu đây là quy định về
hình thức hợp đồng trong hoàn cảnh pháp luật không quy định hợp đồng phải
được lập theo bất kỳ hình thức nào. Trong trường hợp này, sự hiện diện của cụm
từ “khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một
hình thức nhất định” là không cần thiết vì làm cho điều luật trở nên dài dòng. Bởi
vậy, cụm từ nói trên cần được bỏ đi. Mặt khác, phương pháp liệt kê một danh
sách đóng các loại hình thức hợp đồng xác định đã làm cho điều luật kém linh
hoạt. Bởi vì, theo lẽ thông thường, khi giao kết hợp đồng, các bên không bị buộc
phải lập hợp đồng theo hình thức nào, trừ những hợp đồng pháp luật buộc phải
lập theo một hình thức xác định. Theo đó,về nguyên tắc, các bên có thể lập hợp
đồng bằng bất kỳ hình thức nào, kể cả bằng sự kết hợp của tất cả các hình thức
đó. Thậm chí, sự “im lặng”cũng được xem như là một hình thức trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng, trong trường hợp pháp luật có qui định (Điều 404 khoản 2).

2. Một số kiến nghị
Sửa đổi, bổ sung những bất cập của một số Điều và Khoản trong BLDS 2005
để quy định này trở nên linh hoạt, đầy đủ và tương thích hơn so với qui định về
hợp đồng trong các bộ luật khác chuyên ngành như: Bộ nguyên tắc về hợp đồng
thương mại quốc tế; sửa đổi, bổ sung làm cho nội dung của Điều luật này trở nên
ngắn gọn và thống nhất với các qui định khác; hoặc có thể bỏ đoạn 2 Khoản 2
Điều 401; bổ sung Khoản 3 Điều 401; sửa đổi, bổ sung Điều 134 BLDS 2005
theo hướng bãi bỏ cách giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu như
hiện nay, và thay vào đó là đường lối giải quyết mới, bằng cách qui định các căn
cứ cụ thể để công nhận, hoặc không công nhận giá trị pháp lý của giao dịch, nếu
giao dịch bị vi phạm hình thức mà các bên có tranh chấp.

20



×