Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận tâm lí học phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.21 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nghiên cứu tâm lí là một vấn đề khá khó khăn, bởi tâm lí là một bộ môn khoa học
mang tính chất rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành khoa học khác. Với khả năng và giới
hạn cho phép, bài viết dưới đây chỉ đi sâu vào phân tích một số vấn đề liên quan đến nguồn
gốc của tâm lí, một số sự khác biệt giữa các lí thuyết phát triển tâm lí của một số nhà tâm lí
học vĩ đại thế kỉ XIX – XX.
Mặc dù lĩnh vực mà bài viết đề cập đến phần dưới đây đã có nhiều nhà tâm lí học đề
cập đến. Tôi chỉ hệ thống lại và trên cơ sở đó nêu lên một số đánh giá, nhận xét chủ quan
của riêng mình về vấn đề đặt ra. Tất nhiên, bài viết mang tính lí giải, giải thích một số giả
thiết được đặt ra, cụ thể là: Chứng minh hoạt động là yếu tố quyết định đến sự phát triển
tâm lí con người? So sánh lí thuyết phát triển của J. Watson với L.X Vugotxki và thuyết của
E. Ericson với S. Freud. Đồng thời đưa ra một số ứng dụng của thuyết phân tâm trong thực
hành công tác xã hội. Hy vọng bài viết sẽ mang lại cho bạn đọc những kiến thức hữu ích
cũng như là một nguồn tài liệu thiết thực cho quá trình tìm hiểu và học tập phân môn Tâm lí
học phát triển và các lĩnh vực có liên quan.
Mặc dù, khi tìm hiểu, nghiên cứu để viết bài đã có sự hỗ trợ của đồng nghiệp. Tuy
nhiên, vấn đề của chúng ta đặt ra mang tính chất trừu tượng, rộng lớn, thật sự rất khó lòng
để phân tích, lí giải một cách hoàn mĩ, đầy đủ nhất. rất mong bạn đọc bỏ qua và đóng góp ý
kiến để cho vấn đề của chúng ta trở nên hoàn thiện và phong phú hơn, chính xác hơn.
Xin chào và trân trọng cảm ơn bạn đọc!


MỤC LỤC

I. Dẫn nhập................................................................................................................. trang 02
II. Nội dung........................................................................................................................... 02
1. Hoạt động - yếu tố quyết định sự phát triển tâm lí người........................................... 02
1.1. Vài nét về tâm lí người............................................................................................... 02
1.2. Sự phát triển tâm lí người........................................................................................... 03
1.3. Hoạt động - yếu tố quyết định sự phát triển tâm lí người......................................... 05
1.3.1. Hoạt động là gì?................................................................................................ 05


1.3.2. Đặc điểm của hoạt động.................................................................................... 06
1.3.3. Cơ chế tiến hành hoạt động............................................................................... 07
1.3.4. Hoạt động - yếu tố quyết định sự phát triển tâm lí người................................ 09
2. Sự giống nhau và khác nhau trong lí thuyết phát triển tâm lí của J.
Watson với L.X. Vugotxki và của S. Freud với E. Ericson..........................................12
2.1. Sự giống và khác nhau giữa thuyết Watson và thuyết Vugotxki................................12
2.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa thuyết Ericson và Freud......................................15
3. Một số ứng dụng thuyết phân tâm của Freud trong thực hành Công tác xã hội......20
3.1. Phương pháp trị liệu của S. Freud trong phân tâm học............................................20
3.1.1. Phương pháp lâm sàng......................................................................................20
3.1.2. Phương pháp phân tích tâm lí...........................................................................20
3.2. Ứng dụng thuyết phân tâm học trong thực hành công tác xã hội.............................21
III. Thay lời kết.....................................................................................................................23

2


I. Dẫn nhập
Tâm lí học là một lĩnh vực rất lớn đối với những ai tiếp xúc, học tập và nghiên cứu
nó. Bởi đây là một lĩnh vực nghiên cứu sâu về con người. Cụ thể đó là những biến đổi, phát
triển về tâm lí, tâm tư, tình cảm, xúc cảm, trí tuệ, tính cách của con người, mà những vấn đề
này thật sự rất khó để phân tích, để hiểu hết, vì những yếu tố này ở mỗi người là khác nhau
và luôn luôn biến động, phát triển không ngừng.
Trên thực tế qua quá trình phát triển cho đến nay, tâm lí học đã phân chia thành nhiều
nhánh, nhiều trường phái lĩnh vực khác nhau như: tâm lí học hành vi, tâm lí học hoạt động,
tâm lí học Gestal, tâm lí học phân tâm, tâm lí học nhận thức, tâm lí học nhân văn… Xét về
tổng quát thì có rất nhiều lí thuyết liên quan đến tâm lí học vẫn chưa đề cập đến. Riêng đối
với tâm lí học phát triển chúng ta chỉ đề cập đến một số lí thuyết, một số trường phái được
xem là tiêu biểu trong hệ thống tâm lí học thế kỷ XX mà thôi. Cụ thể là bốn lí thuyết phổ
biến nhất đó là: tâm lí học hành vi, tâm lí học phân tâm, tâm lí học phát sinh và tâm lí học

hoạt động.
Tuy nhiên, vì khả năng và trong giới hạn cho phép, bài viết này chỉ đề cập đến một
số khía cạnh trong tâm lí học phát triển nhằm phần nào làm rõ hơn một số vấn đề cần quan
tâm có liên quan đến lĩnh vực tâm lí học phát triển. Vậy cụ thể bài viết quan tâm đến vấn đề
gì? Đề cập đến khía cạnh nào trong tâm lí học phát triển? Trong giới hạn, bài viết sẽ tìm
hiểu và chứng minh vì sao hoạt động là yếu tố quyết định đến sự phát triển tâm lí của con
người? Đồng thời, so sánh lí thuyết phát triển của J. Watson với L.X. Vugotxki và của S.
Freud với E. Ericson. Bên cạnh đó, tài liệu này còn đề cập đến việc ứng dụng thuyết phân
tâm học của S. Freud vào trong thực hành công tác xã hội. Hy vọng với những phân tích,
nhận định và đánh giá về các vần đề trên sẽ mang lại cho bạn đọc sự hữu ích, thuận lợi trong
học tập và nghiên cứu học phần tâm lí học phát triển, nhất là đối với các bạn sinh viên
chuyên ngành công tác xã hội.
II. Nội dung
1. Hoạt động - Yếu tố quyết định đến sự phát triển của tâm lí con người
1.1. Vài nét về tâm lí con người
Theo cuốn “Giáo trình Tâm lí học đại cương” do Nguyễn Quan Uẩn chủ biên thì:
“Tâm lí học (Psychologie) là khoa học về tâm hồn. Nói một cách khác thì tâm lí bao gồm tất
cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi
hành đồng, hoạt động của con người. Các hiện tượng tâm lí đóng vai trò quan trọng đặc biệt
trong đời sống con người, trong quan hệ giữa con người với con người và con người với cả
xã hội loài người”1.
Như vậy, tâm lí là một hiện tượng nảy sinh trong đầu óc con người thông qua việc
phản ảnh lại hiện thực khách quan, đồng thời, tâm lí còn là yếu tố chi phối, điều hành hoạt
động của con người. Về điều này, “chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng khẳng định rằng:
Tâm lí người là sự phản hảnh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lí
người có bản chất xã hội - lịch sử”2. Như vậy thì tâm lí con người bắt nguồn từ đâu?
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì tâm lí người không phải do thượng đế, do trời
sinh ra, cũng không phải do não tiết ra như gan tiết mật, mà tâm lí người là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào não con người thông qua “lăng kính chủ quan”. Theo đó, thế giới
khách quan luôn tồn tại bằng các thuộc tính không gian, thời gian và luôn vận động. Phản

ảnh là thuộc tính phổ biến trôngmị dạng vật chất. Trong cuốn “Giáo trình Chủ nghĩa Mác 1
2

Nguyễn Quang Uẩn chủ biên (2003), Giáo trình Tâm lí học đại cương, Nxb ĐHSP Hà Nội, trang 19.
Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, đã dẫn, trang 21.

3


Lênin” có ghi: “Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ
thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. kết quả của sự phản ảnh này
phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận
tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây cũng là điều quan trọng minh
chứng cho nguồn gốc tự nhiên của ý thức, tâm lí người nói chung” 3.
Trong quá trình tiến hóa của thế giới vật chất, các vật thể càng ở bậc thang cao bao
nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy nhiêu. Theo đó, phản ánh diễn ra từ
đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hóa lẫn nhau, từ phản ánh cơ, vật lí, hóa học đến
phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lí.
Đối với từng cá nhân thì tâm lí người này hiển nhiên sẽ khác với tâm lí người kia.
Điều này do nhiều yếu tố chi phối, trước hết, do mỗi con người có những đặc điểm riêng về
cơ chế, giác quan, hệ thần kinh và não bộ. Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều
kiện giáo dục không như nhau, và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt
động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống. Vì thế, tâm lí người này khác với tâm lí
người kia.
Tóm lại, thế giới khách quan (thế giới vật chất) luôn tồn tại và phát triển không
ngừng. Trong đó, thế giới khách quan này tác động đến con người thông qua các giác quan
mà đích đến đó là não người. Bộ não người tiếp thu các kích thích từ môi trường, từ đó giải
mã và đáp trả các kích thích đó. Trong quá trình này tâm lí người bắt đầu nảy sinh, phát
triển. Điều này cho chúng ta thấy rằng, tâm lí con người có nguồn gốc từ thế giới khách
quan - thế giới vật chất.

Không chỉ có thế, “tâm lí con người còn có nguồn gốc từ xã hội” 4. Bởi nói đến con
người xã hội tức là nói đến các mối quan hệ giữa con người với con người. Và trong các
mối quan hệ này tất yếu sẽ có các hoạt động giao tiếp, trao đổi thông tin, đồng thời, kèm
theo đó là sự hình thành và phát triển về tâm lí.
Trên đây là một số nét về tâm lí người, về bản chất và nguồn gốc chung quy lại tâm lí
người xuất phát từ thế giới khách quan thông qua cơ chế phản ánh vào bộ não người. Tuy
nhiên, khi nói đến tâm lí người, quả thật đó là một vấn đề rất lớn, rất khó. Bởi tâm lí con
người luôn biến chuyển và phát triển không ngừng và ở mỗi người thì có những đặc điểm
tâm lí khác biệt nhau. Vậy, sự phát triển tâm lí con người như thế nào? Tại sao chúng ta có
thể nói hoạt động là yếu tố quyết định đến sự phát triển tâm lí của con người? Chúng ta hãy
cùng đi vào phân tích mấy vấn đề sau:
1.2. Sự phát triển tâm lí của con người
Theo các nhà tâm lí học thì sự nảy sinh và phát triển tâm lí người gắn liền với sự
sống. Theo đó, hiện tượng tâm lí đơn giản nhất đó là cảm giác, và từ hiện tượng tâm lí đơn
giản nhất này dần dần phát triển lên thành các hiện tượng tâm lí khác phức tạp hơn.
Khi nghiên cứu các thời kì phát triển tâm lí của con người các nhà tâm lí học đã phân
chia theo hai phương diện:
- Theo cấp độ phản ánh thì quá trình phát triển tâm lí của loài người trãi qua 3 thời
kì: Cảm giác, tri giác, tư duy (bằng tay và ngôn ngữ):
+ Thời kì Cảm giác: Là thời kì đầu tiên trong phản ánh tâm lí với đặc trưng là
cơ thể có khả năng đáp trả lại các kích thích riêng lẻ từ môi trường bên ngoài. Cảm giác là
cơ sở cho sự xuất hiện các thời kì phản ánh tâm lí cao hơn.

3
4

Bộ Giáo dục và đào tạo (2003), Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 190 – 191.
Giáo trình Triết học Mác – Lênin, đã dẫn, trang 193.

4



+ Thời kì Tri giác: Là khả năng mà cơ thể đáp trả lại một tổ hợp kích thích
ngoại giới chứ không đáp lại từng kích thích riêng lẻ.
+ Thời kì Tư duy: Là thời kì phức tạp của tâm lí, được thể hiện qua những
hành động có “suy nghĩ” trước đó. Đối với con người, tư duy không chỉ bằng tay (hoạt
động) mà còn tư duy bằng ngôn ngữ. Đây cũng là đặc trưng tâm lí chỉ có ở người. Nhờ có
đặc trưng này mà hoạt động của con người mang tính mục đích, kế hoạch cao nhất, hoàn
chỉnh nhất, giúp con người không chỉ nhận thức, cải tạo thế giới mà còn nhận thức và sáng
tạo ra chính bản thân mình.
- Theo cấp độ hành vi thì quá trình phát triển tâm lí trải qua 3 thời kì: Bản năng, kỉ
xảo và trí tuệ:
+ Thời kì Bản năng: Ở góc độ tâm lí hành vi thì đây là thời kì mang tính bẩm
sinh di truyền, có cơ chế thần kinh là phản xạ không điều kiện.
+ Thời kì Kỹ xảo: Là hành vi mới do cá thể tự tạo bằng cách luyện tập hay lập
đi lập lại nhiều lần tới mức thuần thục trên cơ sở phản xạ có điều kiện. Chẳng hạn như ta sử
dụng máy vi tính (gõ văn bản words) mà không cần nhìn bàn phím.
+ Thời kì hành vi Trí tuệ: Là kết quả của quá trình luyện tập, do cá thể tự tạo
ra trong quá trình sống. Đối với con người thì hành vi trí tuệ được sinh ra trong hành động
nhằm nhận thức, thích ứng và cải tạo thế giới khách quan. Hành vi trí tuệ của con người gắn
liền với ngôn ngữ, đó chính là hành vi có ý thức.
Mặt khác, nếu xét ở phương diện cá thể thì sự phát triển tâm lí của con người là quá
trình chuyển đổi liên tục từ cấp độ này sang cấp độ khác tương ứng với các giai đoạn lứa
tuổi kế tiếp nhau. Ở mỗi cấp độ lứa tuổi, sự phát triển tâm lí đạt tới một chất lượng mới và
diễn ra theo các qui luật đặc thù. Gắn liền với sự phát triển tâm lí là hoạt động chủ đạo ở
từng giai đoạn lứa tuổi. Theo đó, các nàh tâm lí học đã phân chia các giai đoạn phát triển
tâm lí cá thể như sau:
- Giai đoạn tuổi sơ sinh, hài nhi gồm có:
+ Tuổi sơ sinh (0 - 2 tháng): Là tuổi “ăn ngủ” phối hợp với phản xạ bẩm sinh,
tác động bộc phát thực hiện các chức năng sinh lí người.

+ Tuổi hài nhi (3 - 12 tháng): Hoạt động chủ đạo là giao tiếp xúc cảm với
người lớn, trước hết là với cha mẹ.
- Giai đoạn tuổi nhà trẻ (1 - 2 tuổi): Hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật, bắt
chước hành động sử dụng đồ vật và tìm hiểu, khám phá các sự vật xung quanh.
- Giai đoạn tuổi mẫu giáo (3 - 5 tuổi): Hoạt động chủ đạo là vui chơi mà trung tâm là
trò chơi sắm vai.
- Giai đoạn tuổi đi học gồm có:
+ Thời kì đầu tuổi học (Nhi đồng, học sinh tiểu học: 6 - 12 tuổi): Hoạt động
chủ đạo là học tập, lĩnh hội nền tảng tri thức, phương pháp, công cụ nhận thức và các chuẩn
mực hành vi.
+ Thời kì giữa tuổi học (Thiếu niên, học sinh Trung học: 12 - 14, 15 tuổi):
Hoạt động chủ đạo là học tập và giao tiếp nhóm. Đây là lứa tuổi dậy thì với nhiều phẩm chất
tâm lí mới xuất hiện, đặc biệt là nhu cầu tình bạn, nhu cầu tự khẳng định mình.
+ Thời kì cuối tuổi học (Tuổi đầu thanh niên, học sinh Phổ thông: 15 - 18
tuổi): Hoạt động chủ đạo là học tập. Ở tuổi này đã hình thành thế giới quan, định hướng
nghề nghiệp.

5


- Giai đoạn tuổi thanh niên, sinh viên (19 - 25 tuổi): Hoạt động chủ đạo là học tập và
lao động. Đây là giai đoạn tiếp tục lĩnh hội các giá trị vật chất của xã hội theo nghề nghiệp
hoặc tham gia lao động sản xuất.
- Giai đoạn tuổi trưởng thành (25 tuổi trở đi): Hoạt động chủ đạo là lao động và hoạt
động xã hội
- Giai đoạn tuổi già (55 - 60 tuổi trở đi): Hoạt động chủ đạo là nghỉ ngơi. Ở giai
đoạn này, con người phản ứng chậm chạp dần, độ nhạy cẩm của các giác quan giảm đi rõ
rệt…Kèm theo đó là những biến đổi và thường xuất hiện những phẩm chất tâm lí mới, đặc
trưng của lứa tuổi về hưu.
Tóm lại, mỗi giai đoạn lứa tuổi đề có một vị trí và vai trò nhất định trong quá trình

phát triển tâm lí người nói chung. Sự chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác bao giờ
cũng gắn liền với sự xuất hiện dạng hoạt động chủ đạo mới có tác dụng quyết định đối với
sự hình thành những cấu tạo tâm lí mới, cơ bản và đặc trưng cho thời kì hoặc giai đoạn lứa
tuổi đó.
Từ những phân tích mà các nhà tâm lí học đã đưa ra ở trên, chúng ta có thể thấy,
trong từng giai đoạn phát triển độ tuổi nhất định thì đi kèm theo đó là những hoạt động chủ
đạo đặc trưng. Những hoạt động chủ đạo này là “hoạt động mà sự phát triển của nó quy
định những biến đổi chủ yếu nhất trong quá trình tâm lí và trong các đặc điểm tâm lí của
nhân cách trẻ em ở giai đoạn phát triển nhất định” 5. Theo đó, hoạt động chủ đạo là hoạt
động quyết định sự ra đời thành tựu mới (cấu tạo tâm lí mới) đặc trưng cho một lứa tuổi.
1.3. Hoạt động - yếu tố quyết định đến sự phát triển tâm lí của con người
Hoạt động, giao tiếp, tâm lí, ý thức là những khái niệm cơ bản nhất của tâm lí học.
Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hoạt động và giao tiếp của con người không
thể diễn ra nếu thiếu sự tham gia của tâm lí, ý thức. Mặt khác, tâm lí, ý thức cũng không thể
tự nhiên sinh ra bên ngoài cuộc sống hoạt động và giao tiếp của con người.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì “bất kì sự vật hiện tượng nào cũng luôn vận
động không ngừng”. Bằng vận động và thông qua vận động mà sự vật, hiện tượng tồn tại và
thể hiện đặc tính của nó. Bởi vậy vận động là thuộc tính cơ bản, vốn có, là phương thức tồn
tại của sự vật và hiện tượng. Ở con người, thuộc tính đó, phương thức đó chính là hoạt
động. Hay nói cách khác, con người tồn tại và phát triển cả về mặt thể chất và tinh thần (tâm
lí) thông qua (bằng) hoạt động, mà trước hết đó là hoạt động lao động. Vậy, hoạt động là
gì?
1.3.1. Hoạt động là gì?
Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động, tùy theo góc độ xem xét:
Dưới góc độ triết học Mác - Lênin, hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể và
khách thể. Trong quan hệ đó, chủ thể là con người còn khách thể là hiện thực khách quan. Ở
góc độ này thì hoạt động được xem là quá trình mà trong đó có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa
hai cực “Chủ thể - Khách thể”.
Dưới góc độ sinh học, hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và bắp thịt của
con người khi tác động và hiện thực khác quan nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần

của con người.
Dưới góc độ tâm lí học, theo cuốn “Các lí thuyết phát triển tâm lí người” do Phan
Trọng Ngọ chủ biên thì: “Hoạt động của con người là quá trình diễn ra giữa con người với
giới tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung
5

Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, đã dẫn, trang 63.

6


gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” 6. Theo đó, trong phần trình
bày về thuyết tâm lí học hoạt động, tác giả cũng trích dẫn định nghĩa về hoạt động: “Hoạt
động là một quá trình thực hiện sự chuyển hóa lẫn nhau giữa hai cực - chủ thể và khách thể.
Theo nghĩa rộng nó là đơn vị phân tử, chứ không phải là đơn vị cộng thành của đời sống
chủ thể nhục thể. Đời sống của con người là một hệ thống (một dòng) các hoạt động thay
thế nhau. Hoạt động theo nghĩa hẹp hơn, tức là ở cấp độ tâm lí học, là đơn vị của đời sống,
mà khâu trung gian là phản ánh tâm lí, có chức năng hướng dẫn chủ thể trong thế giới đối
tượng”7.
Cũng ở góc độ tâm lí học khi nói về hoạt động, xuất phát từ quan điểm cho rằng:
Cuộc sống của con người là chuỗi những hoạt động giao tiếp kế tiếp nhau, đan xen vào
nhau, hoạt động được hiểu là phương thức tồn tại của con người trong thế giới. Do vậy, xuất
hiện quan điểm cho rằng: “Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại của con người và thế
giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới và cả về phía con người (chủ thể)” 8.
Trong mối quan hệ đó có hai quá trình diễn ra đồng thời và bổ sung cho nhau, thống
nhất với nhau:
- Quá trình thứ nhất là quá trình Đối tượng hóa (còn gọi là “xuất tâm”): Trong đó,
chủ thể chuyển năng lượng bản thân thành sản phẩm hoạt động. Đây là quá trình xuất tâm:
tâm lí của con người (chủ thể) được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản
phẩm. Nhờ vậy mà chúng ta có thể tìm hiểu tâm lí con người thông qua hoạt động của họ.

- Quá trình thứ hai là quá trình Chủ thể hóa (còn gọi là “nhập tâm”): Trong đó, con
người chuyển nội dung khách thể (qui luật, bản chất, đặc điểm…) vào bản thân mình, tạo
nên tâm lí, ý thức, nhân cách của bản thân. Vì thế chúng ta có thể nói tâm lí là sự phản ánh
thế giới khách quan; nội dung của tâm lí do thế giới khách quan qui định.
Như vậy, trong hoạt động, con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra
tâm lí, ý thức của mình. Hay nói khác đi thì tâm lí, ý thức, nhân cách được bộc lộ, hình
thành và phát triển trong hoạt động.
Hoạt động của con người bao gồm các quá trình con người tác động và khách thể
(thế giới) gọi chung là quá trình bên ngoài và quá trình tinh thần, trí tuệ - quá trình bên
trong. Nghĩa là trong hoạt động bao gồm cả hành vi và tâm lí, cả công việc chân tay lẫn
công việc trí óc.
1.3.2. Đặc điểm của hoạt động
Hoạt động của con người nói chúng rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, xét ở góc độ
đặc điểm thì hoạt động của con người gồm có các đặc điểm cụ thể sau:
- Hoạt động bao giờ cũng là “hoạt động có đối tượng”: Đối tượng của hoạt động là
cái ta tác độn vào nhằm thay đổi hoặc lĩnh hội. Nó có thể là sự vật. hiện tượng, khái niệm,
con người hoặc mối quan hệ… có khả năng thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, thúc
đẩy con người hoạt động. Vì vậy, đối tượng của hoạt động là hiện thân của động cơ hoạt
động. Ví dụ: Đối tượng của hoạt động học tập đó là kiến thức, kĩ năng…có khả năng thỏa
mãn nhu cầu nhận thức - học tập của con người nên nó trở thành động cơ thúc đẩy con
người tích cực học tập.
Cần phải nói thêm rằng, đôi khi đối tượng của hoạt động không phải là một cái gì đó
sẵn có mà có thể là cái đang xuất hiện ngay trong quá trình hoạt động. Đặc điểm này thường
hay thấy nhất là trong hoạt động nghiên cứu, học tập tích cực của chúng ta.
6

Phan Trọng Ngọ chủ biên (2003), Các lí thuyết phát triển tâm lí người, Nxb ĐHSP, Hà Nội, trang 447.
Phan Trọng Ngọ chủ biên, đã dẫn, trang 579.
8
Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, đã dẫn, trang 55.

7

7


- Hoạt động bao giờ cũng có tính chủ thể: Chủ thể là con người có ý thức tác động
vào khách thể - đối tượng của hoạt động. Như vậy, ẩn chứa trong hoạt động là tính chủ thể
mà đặc điểm nổi bật nhất là tính tự giác và tính tích cực trong hoạt động.
Chủ thể hoạt động có thể là cá nhân hoặc nhóm người. Chủ thể là nhóm người khi họ
cùng nhau thực hiện hoạt động với cùng một đối tượng, một động cơ chung. Chẳng hạn như
hoạt động xây cầu của những kĩ sư và công nhân.
- Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: Mục đích là biểu tượng về sản phẩm
hoạt động có khả năng thỏa mãn nhu cầu nào đó của chủ thể, nó điều khiển, điều chỉnh hoạt
động. Tính mục đích gắn liền với tính đối tượng. Tính mục đích luôn bị chế ước bởi nội
dung xã hội, vì thế chúng ta không nên hiểu mục đích một cách thuần túy là ý thích riêng, là
mong muốn, ý định chủ quan…
Biểu tượng trong đầu người về kết quả lao động được tạo ra bởi những yếu tố do đối
tượng là công cụ lao động, do con người tạo ra. Chính đó là nguồn gốc tạo ra ý thức và tính
mục đích của hoạt động của con người. Và đó cũng là ý thức tâm lí tồn tại để thực hiện chức
năng của chúng.
- Hoạt động luôn vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: Trong hoạt động, con người
bao giờ cũng phải sử dụng những công cụ nhất định.
Trong hoạt động lao động, chúng ta dùng các công cụ kĩ thuật như máy móc, công cụ
lao động khác… tác động vào đối tượng lao động. Tương tự như vậy, tiếng nói, chữ viết,
kinh nghiệm và các hình ảnh tâm lí khác là công cụ tâm lí được sử dụng để tổ chức, điều
khiển thế giới tinh thần của mỗi người. Những công cụ đó giữa chức năng trung gian giữa
chủ thể và đối tượng hoạt động, tạo ra tính gián tiếp của hoạt động. Điều này chỉ ra sự khác
biệt về chất giữa hoạt động của con người với hành vi bản năng của con vật.
1.3.3. Cơ chế khi tiến hành hoạt động.
Như đã biết thì hoạt động của con người bao gồm cả hai mặt: mặt chủ thể và mặt

khách thể. Theo đó, giữa hai mặt này có mối quan hệ biện chứng với nhau, và dồng thời sản
phẩm của quá trình hoạt động được tạo ra đó là “sản phẩm kép” (sản phẩm của cả chủ thể
và cả khách thể - thế giới).
Chủ thể chỉ có thể đạt được mục đích bằng các phương tiện lao động trongcác điều
kiện xác định. Mỗi phương tiện qui định một cách thức hành động. Cốt lõi của cách thức ấy
là thao tác. Thao tác là đơn vị nhỏ nhất của hoạt động. Thao tác không có mục đích riêng
mà thực hiện mục đích hành động, đồng thời phụ thuộc chặt chẽ vào phương tiện, điều kiện
cụ thể.
Tóm lại, về cơ chế hoạt động bao gồm 6 thành tố cơ bản có mối quan hệ biện chứng
với nhau như sau:
- Phần chủ thể bao gồm 3 thành tố: Hoạt động, hành động, thao tác (đơn vị của hoạt
động).
- Về phía khách thể (thế giới - đối tượng hoạt động) bao gồm 3 thành tố: Động cơ,
mục đích, phương tiện (nội dung đối tượng của hoạt động).
Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, hay cơ chế của hoạt động có thể khái
quát theo sơ đồ sau

8


Chủ thể

Khách thể

Hoạt động cụ thể

Động cơ

Hành động


Mục đích

Thao tác

Phương tiện

Sản phẩm kép
Trong cơ chế này, cần nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các thành tố, đặc biệt là yếu tố hành động - mục đích:
- Thứ nhất: Một động cơ có thể được cụ thể hóa trong nhiều mục đích. Ngược lại,
một mục đích có thể được thể hiện qua nhiều động cơ khác nhau. Do đó, một hoạt động
được thực hiện bởi nhiều hành động khác nhau.
- Thứ hai: Một hoạt động sau khi đã thực hiện được động cơ thì trở thành một hành
động cho hoạt động khác.
- Thứ ba: Để đạt được một mục đích, ta cần phải thực hiện một hành động. Mục đích
có thể phát triển theo hai hướng:
+ Trở thành động cơ (khi mà mục đích không chỉ có chức năng hướng dẫn mà
còn có khả năng kích thích, thúcđẩy), lúc này hành động của chủ thể sẽ biến thành hoạt
động cụ thể.
+ Trở thành phương tiện (khi mà mục đích đã được thực hiện và hành động
kết thúc), lúc này hành động của chủ thể sẽ trở thành thao tác và có thể thâmgi vào nhiều
hành động khác.
Việc phát hiện ra cơ chế của hoạt động và mối liên hệ biện chứng giữa các thành tố
có ý nghĩa rất lớn;
- Về mặt lí luận, các nhà tâm lí học đã tìm ra sự thống nhất giữa cái khách quan và
cái chủ quan giữa đối tượn và chủ thể, đồng thời cũng khẳng định rằng, trong hoạt động bao
giờ cũng chứa đựng nội dung tâm lí và tâm lí vận hành, phát triển trong hoạt động.
- Về thực tiễn, vận dụng cách hiểu về cơ chế hoạt động được mô tả ở trên vào giáo
dục cho ta thấy: hoạt động của học sinh là hoạt động có tổ chức, bắt đầu từ bên ngoài một
cách vật chất có thể kiểm soát được. Do vậy, giáo dục về bản chất là liên tục tổ chức, điều

khiển, điều chỉnh hoạt động của học sinh.
Mặt khác, nội dung, tâm lí, nhân cách của học sinh có nguồn gốc từ bên ngoài, được
hình thành từ quá trình biến hình thức bên ngoài (nội dung đối tượng) thành hình thức bên
trong. Quá trình đó chính là hoạt động của học sinh với tư cách là chủ thể hoạt động có đối
9


tượng. Vì vậy, trong giáo dục dạy học cần phải phát huy tính chủ thể của học sinh mà đặc
trưng là tính tự giác tích cực của hoạt động.
1.3.4. Hoạt động - yếu tố quyết định đến sự phát triển tâm lí của con người
Đứng ở góc độ lịch sử tiến hóa của loài người, các nhà sử học, khoa học đã chứng
minh được rằng: Bằng hoạt động lao động và giao tiếp mà con người đã tách khỏi thế giới
động vật và tiến hóa thành con người như ngày nay. Theo C. Mác thì: “Lao động là một quá
trình diễn biến giữa người và tự nhiên, một quá trình trong đó con người đóng góp vai trò
môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là
điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những
phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có
lao động, con người tách ra khỏi giới động vật… Chính thông qua hoạt động lao động nhằm
cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan,
mới có ý thức về thế giới đó”9. Cũng trong vấn đề này Ph. Ăngghen đã cho rằng: “Lao động
là nguyên nhân sâu xa cho quá trình chuyển biến từ vượn thành người và cũng là điều kiện
cho con người tồn tại và phát triển”10.
Như vậy, dưới sự tác động của môi trường, tạm gọi là kích thích, đối với động vật
bậc cao sẽ tạo ra các phản xạ để đáp trả. Còn đối với con người (động vật cấp cao) thì để
đáp trả lại những kích thích từ môi trường thông qua hệ thần kinh trung ương đó là tâm lí,
mà cao hơn đó là ý thức. Như vậy về mặt bản chất thì ý thức là quá trình biến chuyển, thay
đổi về mặt tâm lí, nhận thức của con người qua các kích thích từ phía môi trường. Tuy
nhiên, ý thức (bao gồm cả những sự chuyển biến về tâm lí) của con người ra đời cùng với
quá trình hình thành bộ óc con người nhờ hoạt động lao động, ngôn ngữ và những quan hệ
xã hội. Nói cách khác thì thông qua lao động, ngôn ngữ và quan hệ xã hội con người mới có

được, mới thể hiện được những ý thức của mình. Đồng nghĩa là tâm lí con người được hình
thành và thể hiện thông qua lao động, ngôn ngữ và các mối quan hệ xã hội.
Trong đó, yếu tố quyết định đến ý thức (các phản ứng tâm lí) của con người đó là
hoạt động lao động. Thực tế cho thấy, bằng hoạt động lao động, giao tiếp và khả năng tư
duy của mình mà con người đã tiến hóa từ vượn người cho đến như ngày nay. Bắt đầu bằng
hoạt động hái lượm, săn bắt rồi đến săn bắn, trồng trọt, chăn nuôi… Cứ như thế, ở mỗi giai
đoạn phát triển của loài người có một loại hình lao động, phương thức sản xuất đặc thù. Tất
nhiên, trong quá trình lao động này, con người có những sáng tạo nổi bật, đặc biệt là về
công cụ lao động (từ công cụ đồ đá cho đến công cụ bằng sắt). Và trong quá trình sáng tạo
này đòi hỏi một quá trình tư duy trong đầu óc con người. Đây là một điều tất yếu, và hẳn
nhiên khi con người suy nghĩ, tư duy sáng tạo thì tâm lí cũng nảy sinh và biến đổi, phát triển
theo. Hay nói cách khác, lao động là yếu tố tiền đề cho hoạt động tâm lí của con người. Bắt
đầu bằng sự hái lượm để duy trì sự tồn tại, con người đã tìm cách để cuộc sống của mình no
đủ hơn… Đó cũng là động lực để họ sáng tạo ra những cái mới trong hoạt động lao động
của chính mình. Điều này có nghĩa là, hoạt dộng lao động là đầu cơ để con người tư duy,
suy nghĩ (quá trình này làm nảy sinh và phát triển tâm lí con người). Ngược lại, sự suy nghĩ,
tư duy này không ngoài mục đích nhằm thực hiện hoạt động lao động được tốt hơn, đáp ứng
như cầu của con người ngày một cao hơn.
Tóm lại, ở góc độ tâm lí học, theo trường phái tâm lí học mácxít (lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin làm cơ sở lí luận và phương pháp luận) thì “tâm lí người mang tính chủ thể, có bản

9

Giáo trình Triết học Mác – Lênin, đã dẫn, trang 193.
Bộ Giáo dục và đào tạo (2003), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 257.

10

10



chất xã hội, tâm lí người được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong
các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội”11.
Đến đây chúng ta cần nói thêm về mối quan hệ giữa hoạt động và giao tiếp (giao lưu
xã hội). Thực ra, có không ít nhà tâm lí học cho rằng giao tiếp chính là một dạng đặc biệt
của hoạt động. Xét về cấu trúc thì giao tiếp có cấu trúc chung của hoạt động. Giao tiếp cũng
diễn ra bằng các hành động và các thao tác cụ thể, sử dụng các phương tiện khác nhau nhằm
đạt được những mục tiêu cụ thể, thỏa mãn được các nhu cầu. Nghĩa là giao tiếp cũng được
thúc đẩy bởi một động cơ nào đó. Ngoài ra giao tiếp cũng có những đặc điểm cơ bản của
một hoạt động: Có tính chủ thể, đối tượng, động cơ, mục đích… Do đó, giao tiếp cũng là
một hoạt động.
Trong cuộc sống, hoạt động và giao tiếp có mối quan hệ qua lại với nhau: Có trường
hợp giao tiếp là điều kiện của một hoạt động khác. Chẳng hạn trong lao động sản xuất thì
giao tiếp là điều kiện để mọi người phối hợp với nhau trong một hoạt động chung nào đó.
Cũng có trường hợp, hoạt động là điều kiện để thực hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con
người với con người. Chẳng hạn như trong giao tiếp vật chât (tặng quà), giao tiếp phi ngôn
ngữ (hành vi, cử chỉ, điệu bộ…) là điều kiện để trao đổi thông tin, cảm xúc.
Có thể nói giao tiếp và hoạt động là hai mặt không thể thiếu của cuộc sống con
người, có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển tâm lí, ý thức, nhân
cách của con người. Thực tế, bằng hoạt động và giao tiếp, con người với tư cách là chủ thể
tiếp thu kinh nghiệm lịch sử xã hội, biến nó thành tâm lí, ý thức, nhân cách. Nói cách khác,
tâm lí là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. Hoạt động và giao tiếp và mối quan hệ biện
chứng giữa chúng là qui luật tổng quát hình thành và biểu lộ tâm lí người.
Tâm lí học mácxít cũng đã nêu quan điểm của mình trong vấn đề này rằng: “Sự vận
động của tâm lí, ý thức là sự vận động của hoạt động. Lấy hoạt động, nói theo ngôn ngữ của
khoa học hiện đại, làm mô hình để tìm hiểu, lí giải và hơn thế nữa, điều khiển, hình thành
thế giới tâm lí”12. Trong khi con người hoạt động để tạo ra thế giới đối tượng hay học tập để
lĩnh hội “tinh thần” của đối tượng ấy, trong khi tạo ra và lĩnh hội các quan hệ xã hội, thì con
người cũng hình thành bộ mặt tâm lí - cái gọi là “tính người của bản thân mình”. Thực ra,
hoạt động của con người nói cho cùng bao giờ cũng là hoạt động thực tiễn, mang tính chất

thực tiễn, tất nhiên, có khi là trực tiếp có khi là gián tiếp. Trong hoạt động đó, não chỉ là một
trong nhiều công cụ. Phải nhấn mạnh rằng chính hoạt động thần kinh cấp cao của não bộ ở
con người thoạt đầu cũng là sản phẩm, rồi sau đó vừa là kết quả, vừa là tiền đề của hoạt
động vui chơi, haọt động học tập (hoạt động nhận thức nói chung), hoạt động lao động…
Hoạt động là chìa khóa tìm hiểu, đánh giá, hình thành, điều khiển tâm lí”13.
Cũng để giải thích cho vấn đề hoạt động quyết định đến sự hình thành và phát triển
tâm lí người, chúng ta cùng đến với vấn đề nguồn gốc của ý thức. Theo cuốn “Giáo trình
tâm lí học đại cương” do Nguyễn Quang Uẩn chủ biên thì: Ý thức là hình thức phản ánh
tâm lí cao nhất chỉ có ở người, là sự phản ảnh bằng ngôn ngữ những gì còn đã tiếp thu được
trong quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan. Có thể ví ý thức như là “cặp mắt
thứ hai” soi vào các kết quả do “cặp mắt thứ nhất” (cảm giác, tri giác, tư duy…) mang lại.
Với ý nghĩa đó ta có thể nói “ý thức là tồn tại được nhận thức”.
Theo đó, các nhà tâm lí học khi nghiên cứu về sự hình thành và phát triển ý thức,
người ta thường đề cập đến hai phương diện: phương diện loài người và phương diện cá thể:
11

Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, đẫ dẫn, trang 16.
Phạm Minh Hạc (1980), Nhập môn Tâm lí học, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh, trang 77.
13
Phạm Minh Hạc, đã dẫn, trang 78.
12

11


- Về phương diện loài người, ngay cả những tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác đã
chỉ rõ: Trước hết là lao động, sao lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai
động lực chủ yếu đã khiến bộ não vượn thành bộ óc người, biến tâm lí động vật thành ý
thức.
- Về phương diện cá nhân thì ý thức có nguồn gốc từ:

+ Ý thức của cá nhân được hình thành trong hoạt động và thể hiện trong sản
phẩm hoạt động của cá nhân: Hoạt động nói chung đòi hỏi cá nhân phải nhận thức được
nhiệm vụ, các phương thức, điều kiện và kết quả hành động. Đó chính là yếu tố khách quan
thúc đẩy sự phát triển khả năng xây dựng mục đích và kế hoạch hoạt động của con người.
Trong hoạt động, cá nhân đem vốn kinh nghiệm, năng lực…bản thân thể hiện trong quá
trình làm ra sản phẩm, sản phẩm hoạt động này luôn chứa đựng bộ mặt tâm lí, ý thức của
người tạo ra nó. Vì vậy, qua sản phẩm cá nhân “nhìn thấy’ được chính mình, nhận thức
được vai trò xã hội của mình, từ đó có khả năng tự đánh giá, điều chỉnh, điều khiển hành vi.
Như vậy, trong hoạt động và bằng hoạt động, cá nhân hình thành ý thức về thế giới
xung quanh và về bản thân mình.
+ Ý thức được tạo thành trong sự giao tiếp với người khác, với xã hội; Trong
giao tiếp, cá nhân được truyền đạt và tiếp nhận thông tin. Trên cơ sở nhận thức người khác,
đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, cá nhân tự nhận thức, tự đánh giá và
điều khiển hành vi của mình. Như vậy, chính nhờ hoạt động giao tiếp mà con người có thể
điều chỉnh được những hành vi của mình theo hướng tích cực hơn.
+ Ý thức hình thành từ việc tiếp thu thành tựu của nền văn hóa xã hội: Tri
thức là hạt nhân của ý thức. Nền văn hóa xã hội, ý thức xã hội là tri thức của loài người đã
tích lũy được, và đó là nền tảng của ý thức cá nhân. Thông qua các hình thức hoạt động đa
dạng, bằng giáo dục, giao tiếp xã hội, dạy học…cá nhân tiếp thu các giá trị xã hội, các
chuẩn mực để hình thành ý thức, nhân cách, tâm lí bản thân.
+ Ý thức được hình thành từ sự tự nhận thức, đánh giá, phân tích hành vi của
bản thân. Trong quá trình hoạt động, giao tiếp xã hội, trên cơ sở đối chiếu mình với người
khác, với chuẩn mực xã hội, cá nhân hình thành nên ý thức bản thân (ý thức bản ngã - tự
nhận thức), từ đó cá nhân có khả năng tự giáo dục - tự hoàn thiện mình theo yêu cầu của xã
hội.
Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng: Tâm lí của con người có bản
chất từ sự hoạt động. Nói cách khác, không có hoạt động, tâm lí cũng không còn. Vì vậy,
các hiện tượng tâm lí, từ cảm giác, tri giác, trí nhớ đến tư duy, ngôn ngữ, ý thức…đều là
hoạt động (từ đây ta có thể gọi là hoạt động cảm tính, hoạt động trí nhớ, hoạt động tư
duy…). Mỗi hoạt động tâm lí bao giờ cũng gắn liền với mục đích, động cơ và phương tiện

của nó, xét các hiện tượng tâm lí là xét sự vận động của các yếu tố đó - mối liên quan giữa
động cơ - mục đích - phương tiện. Với ý nghĩa đó, theo tâm lí học mácxít, cuộc sống của
con người là một chuỗi những hoạt động luôn luôn thay thế nhau. Các hiện tượng tâm lí gắn
liền với các hoạt động nhằm vào tri thức, vào thế giới tự nhiên, vào quan hệ xã hội… Có
nghĩa là hoạt động tâm lí bắt nguồn từ những hoạt động của con người nói chung, nhất là
hoạt động lao động và hoạt động giao tiếp, nhưng đồng thời, tâm lí là trung tâm chi phối,
điều tiết, điều chỉnh trở lại đối với hoạt động.
Tuy nhiên, một cách chung nhất, cơ bản nhất thì hoạt động vẫn là yếu tố quyết định
đến tâm lí. Bởi chỉ có thể khi hoạt động, tác động vào đối tượng hoạt động con người mới tư
duy, tìm ra cách thức, phương pháp…để tạo ra sản phẩm. Có nghĩa là con người đã phát
sinh ra tâm lí trong quá trình thực hiện hoạt động đó.
12


2. Sự giống nhau và khác nhau trong lí thuyết phát triển tâm lí của J. Watson
với L.X. Vugotxki và của S. Freud với E. Ericson.
2.1. Sự giống và khác nhau trong lí thuyết tâm lí phát triển của J. Watson và L.X.
Vugotxki.
- J. Watson (1878 - 1958), nhà tâm lí học người Mỹ, ông được xem là người tiên
phong khai sinh ra thuyết tâm lí học hành vi (ra đời ở Mỹ vào năm 1913).
- L.X. Vugotxki (1896 - 1934), nhà tâm lí học người Liên Xô cũ, là người đặt nền
móng cho tâm lí học hoạt động.
Xét một cách chung nhất thì J. Watson và L.X. Vugotxki đều là hai nhà tâm lí học vĩ
đại, và đã có nhiều đóng góp quan trọng cho lĩnh vực tâm lí học nói chung, mà đặc biệt là
đối với trường phái tam lí do các ông sáng lập.
Ở một khía cạnh nào đó thì hai nhà tâm lí học trên đều nghiên cứu về hành vi, hành
động - hoạt động của con người và những yếu tố đó có những ảnh hưởng gì đến tâm lí, ý
thức của con người? Tuy nhiên, về cơ bản thì mỗi người có một hướng đi, phương pháp
nghiên cứu riêng, xây dựng một học thuyết riêng cho mình. Đó cũng chính là yếu tố làm
nên sự khác biệt giữa lí thuyết phát triển của J. Watson và L.X. Vugotxki.

Một số điểm khác nhau giữa lí thuyết phát triển tâm lí của J. Watson và L.X. Vugotxki
Thuyết phát triển tâm lí của J. Watson
- Là lí thuyết về tâm lí học hành vi của con
người.
- Watson cho rằng “Tâm lí học là khoa học
về hành vi”.
- Tư tưởng cốt lõi của tâm lí học hành vi
bắt nguồn từ triết học thức chứng của
Auguste Comte (mọi lập luận phải có
chứng cứ khách quan, quan sát được chứ
không chỉ là tự biện.
Tức là thuyết Watson xây dựng theo học
thuyết phản xạ có điều kiện
-Tiền đề xuất phát từ sự quan sát thực
nghiệm để phân tích hoạt động tâmlí
người, những thay đổi về hành vi.
- Sự hình thành chức năng tâm lí bằng cơ
chế kích thích - phản ứng (thường gọi là
phản xạ có điều kiện: S - R).
- Hoạt động tâm lí được thực hiện (thể
hiện) thông qua sự kích thích có điều kiện
đối với cơ thể.
- Yếu tố (công cụ) kích thích tự bên ngoài
tác động vào và hình thành nên “phản ứng
tâm lí.
- Cơ chế tâm lí là xuất phát từ việc tiếp
nhận kích thích, buộc cơ thể phải trả lời
kích thích ấy (phản ứng của cơ thể).

Thuyết phát triển tâm lí của Vugotxki

- Là lí thuyết về tâm lí học hoạt động của
con người.
- Vugotxki cho rằng “Tâm lí học là khoa
học về hoạt động của con người”
- Tư tưởng cốt lõi của tâm lí học hoạt
động là tư tưởng triết học Mác - Lênin.
Xây dựng lâu đài tâm lí học trên cơ sở
triết học duy vật lịch sử.
Tức là thuyết Vugotxki xây dựng theo
học thuyết, tư tưởng Mác - Lênin.
- Tiền đề xuất phát từ hoạt động thực tiễn
của con người để phân tích đời sống tâm
lí. Nghiên cứu cấu trúc hoạt động để đi
đến ý thức.
- Sự hình thành chức năng tâm lí cấp cao
bằng hoạt động lĩnh hội kinh nghiệm lịch
sử xã hội.
- Hoạt động tâm lí được thực hiện (thể
hiện) gián tiếp qua công cụ kí hiệu.
- Công cụ tâm lí (kí hiệu) hướng vào chủ
thể làm biến đổi chủ thể (biến đổi tâm lí).
- Cơ chế tâm lí đó là xuất phát từ hoạt
động chuyển hóa vào trong não người
giúp hình thành tâm lí.
13


- Nguyên tắc gián tiếp thông qua công cụ
- Nguyên tắc gián tiếp thông qua quan sát
hoạt động, phương pháp công cụ trong

thực nghiệm, nguyên tắc tín hiệu.
tâm lí học.
- Về chức năng tâm lí: Mỗi cảm xúc sẽ có
- Về chức năng tâm lí: Chuyển chức
những thay đổi về tâm lí. Xúc cảm là hành
năng tâm lí bên ngoài thành chức năng
vi ngầm, trong đó phản ứng đáp trả lại bên
tâm lí bên trong thông qua sự phản ảnh
trong được biểu hiện dưới dạng như sắc
khách quan của bộ não.
mặt, toát mồ hôi…
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là
phân tích hiện tượng tâm lí.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phản
Các phương pháp nghiên cứu cơ bản
xạ học tâm sinh lí thần kinh.
đó là phân tích đơn vị, phân tích kép,
Các phương pháp nghiên cứu cơ bản đó phương pháp lịch sử - phát sinh và
là quan sát, thực nghiệm, ghi từng lời, phương pháp thực nghiệm.
phản xạ có điều kiện (kích thích - phản
Vugotxki cho rằng nghiên cứu con
ứng), thử - sai…
người phải bắt đầu từ phân tích tâm lí
hoạt động thực tiễn của con người theo
lập trường triết học Mác - Lênin.
- Đối tượng nghiên cứu cơ sở là các cử
- Đối tượng nghiên cứu cốt lõi đó là ý
động cơ bắp hay tiết dịch, không nghiên
thức của con người. Theo Vugotxki thì
cứu mang tính nội quan về ý thức. Ở đây,

điều này bắt nguồn từ nghiên cứu lao
đối tượng là hành vi đơn thuần chứ không
động, hoạt động thực tiễn, những hoạt
là ý thức. Watson cho rằng: Ý thức không
động có suy nghĩ của con người.
nghiên cứu được một cách khách quan.
- Tâm lí người mang tính chất sinh học, - Tâm lí người mang bản chất lịch sử - xã
các hành động
hội.
- Môi trường, kích thích tạo ra tâm lí
- Hoạt động thực tiễn tạo ra tâm lí người.
người.
- Tâm lí người có tính gián tiếp thông qua - Tâm lí người có tính gián tiếp thông
các kích thích từ phía môi trường sống.
qua công cụ.
- Hoạt động tâm lí người có chức năng
tâm lí cấp thấp và cấp cao (cấp thấp
- Những khía cạnh hành vi của con người mang tính tự nhiên, di truyền bẩm sinh;
trên thực tế là phản xạ có điều kiện chứ tâm lí cấp cao mang tính lĩnh hội - tri
không phải bản năng, Watson phủ nhận giác, ý thức, trí nhớ). Theo đó, nguồn
các yếu tố di truyền, bẩm sinh.
gốc chức năng tâm lí cấp cao là từ hoạt
động, vốn lúc đầu ở bên ngoài sau đó
chuyền vào trong con người.
- Tư duy và ngôn ngữ có cùng nguồn gốc.
Tư duy là ngôn ngữ bị tước bỏ âm thanh.
- Tư duy và ngôn ngữ bắt nguồn từ hoạt
Theo đó, sơ đồ phát sinh cá thể của tư duy
động. sự phát triển của tư duy và ngôn
là: Nói to  Nói thầm  Nói không thành

ngữ đến một giai đoạn nhất định sẽ diễn
tiếng.
ra sự kết hợp (tư duy có ngôn ngữ và
Theo Watson Tư duy là “kĩ xảo ở cổ
ngôn ngữ là ngôn ngữ trí tuệ).
họng” và bộ máy của tư duy không phải là
não mà là ở họng.
14


- Thuyết Watson nhấn mạnh đến ý nghĩa
quyết định của tác động giáo dục và môi
trường xung quanh.
- Đối với thuyết Watson là làm việc với
những hành động mô tả được một cách
khách quan chứ không cần dựa vào những
khái niệm và các thuật ngữ duy cảm.
- Thuyết của Watson quan điểm về con
người như là một thứ máy móc đơn giản,
đưa tác nhân kích thích tại đầu vào và quan
sát các phản ứng tại đầu ra.
- Watson cho rằng, xúc cảm là những phản
ứng của cở thể đối với tác nhân kích thích
chuyên biệt. Phản ứng bên ngoài thu được
từ quá trình học tập, không đòi hỏi sự tri
giác xúc cảm một cách có ý thức hay
những cảm giác bên trong. Theo đó, tác
nhân kích thích gây ra phản ứng xúc cảm
đáp trả lại như lo sợ, tức giận, hay yêu
mến.


- Thuyết Vugotxki cho rằng, quá trình
phát triển đi liền sau quá trình dạy học,
hoạt động dạy và học là hoạt động hợp
tác giữa thầy và trò. Nghĩa là hoạt động
dạy và học song song nhau, bổ trợ nhau.
- Đối với thuyết Vugotxki là làm việc với
những hành động thực nghiệm dựa trên
các quan điểm, tư tưởng, lí luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và triết học
Mác - Lênin.
- Thuyết Vugotxki cho rằng, tâm lí con
người phát triển theo nhiều giai đoạn đặc
trưng của từng lứa tuổi. Theo đó, con
người, tâm lí người phát triển thông qua
các cơ chế hoạt động của mình mà trên
hết đó là hoạt động lao động.
- Theo Vugotxki, ý thức, xúc cảm, tri
giác…gọi chung là tâm lí người hình
thành theo cơ chế chuyển vào trong và
cùng với việc chịu sự chi phối từ phía
bản thân cá thể. Tức là các giá trị văn
hóa, lịch sự xã hội được cá nhân lĩnh hội,
chuyển thành tâm lí cá nhân, nhưng quá
trình lĩnh hội này tùy vào khả năng, năng
lực của mỗi người khác nhau.

Đến đây chúng ta có thể thấy, J. Watson đã đánh mất đối tượng tâm lí học. Tâm lí
học hành vi đã trở thành hành vi học. Nhà tâm lí học hành vi chỉ còn là nhà hành vi học đơn
thuần. Theo đó, con người trong tâm lí học hành vi không phải là một chủ thể chủ động hoạt

động trong môi trường xã hội, tác động và làm biến đổi môi trường đó, mà là các cơ thể, cá
thể thụ động đối với các áp lực của môi trường.
Tâm lí học J. Watson phủ nhận ý thức, qui hành vi về các hành động thích ứng bên
ngoài, đồng nhất nguyên tắc hoạt động sống của người và động vật, phủ nhận các cơ chế
thần kinh, tuyệt đối hóa vai trò môi trường bên ngoài…Có thể nói, chủ nghĩa hành vi do
Watson xây dựng “đã quan niệm một cách cơ học, máy móc về hành vi, đánh đồng hành vi
của con người với hành vi của con vật, hành vi chỉ còn là những phản ứng máy móc nhằm
đáp lại những kích thích, giúp cơ thể thích ứng với môi trường xung quanh. Chủ nghĩa hành
vi đã đồng nhất phản ứng với nội dung tâm lí bên trong, làm mất đi tính chủ thể, tính xã hội
của tâm lí con người, đồng nhất tâm lí người với tâm lí động vật, con người chỉ có những
phản ứng cơ học, máy móc. Đây chính là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực
dụng”14.
Cũng chính bởi những hạn chế này mà thuyết tâm lí phát triển do J. Watson xây dựng
đã chịu không ít sự chỉ trích, rất nhiều nhà tâm lí học đương đại đã tỏ rõ sự bất đồng quan
điểm trước lí thuyết mà ông xây dựng. Sau hơn 50 năm hình thành và phát triển, thuyết tâm
lí học phát triển theo trường phái tâm lí học hành vi mà J. Watson xây dựng đã bị phân hóa,
14

Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, đã dẫn, trang 14 – 15.

15


tan rã. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không thể phủ nhận hết những cống hiến mà J. Watson đã
đóng góp cho tâm lí học nói chung của nhân loại mà đặc biệt là những phát kiến trong lĩnh
vực tâm lí học hành vi nói riêng. Cho đến nay, học thuyết của J. Watson về tâm lí học hành
vi vẫn có nhiều giá trị đối với nhân loại, đối với khoa học về tâm lí.
Đối với L.X Vugotxki, cha đẻ của thuyết tâm lí học hoạt động, trên thực tế lí thuyết
của ông xây dựng đã có nhiều giá trị và đã đóng góp nhiều công trình nghiên cứu cho nhân
loại về lĩnh vực tâm lí. Với những quan điểm tiến bộ của mình trong khi nghiên cứu về tâm

lí con người, Vugotxki đã làm rõ được nguồn gốc, cơ chế phát sinh, phát triển của tâm lí
người. Lí thuyết của ông xây dựng về cơ bản mang tư tưởng lí luận đúng đắn của triết học
biện chứng duy vật lịch sử Mác - Lênin. Trên cơ sở đó, lí thuyết về tâm lí phát triển do
Vugotxki xây dựng, tuy vẫn còn một số hạn chế nhất định nhưng đã được nhiều nhà tâm lí
học đương thời tán thành và ủng hộ. Cho đến bây giờ, thuyết tâm lí học hoạt động của
Vugotxki vẫn có giá trị rất lớn, và đây được xem là một trong những học thuyết có giá trị
nhất trong tâm lí học nói chung và trong tâm lí học hoạt động nói riêng.
2.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa lí thuyết tâm lí phát triển của S. Freud và
E. Ericson.
- Sigmund. Freud (1856 - 1939), nhà tâm lí học người Cộng hòa Séc, ông là người
đặt nền móng cho thuyết phân tâm học.
- Eric Ericson (1902 - 1994), lớn lên ở Mỹ, là người học trò nổi tiếng phát triển
thuyết phân tâm của S. Freud lên những nấc thang mới theo hệ tư tưởng của riêng mình.
S. Freud và E. Ericson là hai nhà tâm lí học theo trường phái phân tâm học nổi tiếng.
Lí thuyết mà hai nhà tâm lí học này xây dựng mang tính kế thừa và phát huy tích cực, trong
đó người đặt nền móng là S. Freud.
E. Ericson cũng đã thừa nhận nhiều tư tưởng của S. Freud, ông nhất trí rằng, mọi
người sinh ra đều có một số lượng nhất định, những xung năng cơ bản và nhân cách bao
gồm ba thành phần: Cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi. Ông cũng khẳng định rằng, sự phát triển
diễn ra theo các giai đoạn và trẻ phải giải quyết thành công một số khủng hoảng trong sự
xung đột ở từng giai đoạn, nhằm chuẩn bị giải quyết những khủng hoảng cơ bản, nảy sinh
sau này trong cuộc sống. Tuy nhiên, lí thuyết của ông khác với lí thuyết của S. Freud ở một
số khía cạnh quan trọng. E. Ericson nhấn mạnh rằng, trẻ em là “người thám hiểm” chủ
động, dễ thích ứng và luôn tìm cách kiểm soát môi trường của mình thay vì là những thực
thể thụ động, chịu sự “đúc nặn” của cha mẹ.
Tóm lại, E. Ericson tin tưởng rằng, chúng ta là những sản phẩm của xã hội trên một
qui mô rộng, chứ không phải là những sản phẩm của bản năng tính dục (như Freud quan
niệm). Vì vậy, hướng tiếp cận của ông được xem là lí thuyết về sự phát triển tâm lí xã hội.
Mặc dù cùng theo một trường phái phân tâm học và có sự kế tục nhưng giữa lí thuyết
của Ericson và Freud vẫn có những quan điểm khác nhau rõ rệt:

Một số điểm khác biệt giữa lí thuyết phát triển của E. Ericson và S. Freud.
Lí thuyết E. Ericson
Lí thuyết S. Freud
- Hướng tiếp cận là lí thuyết về sự phát - Hướng tiếp cận là lí thuyết về tâm lí tính
triển tâm lí xã hội.
dục.
- Con người là thực thể có lí trí; những - Con người có những hành vi, hành động
suy nghĩ, cảm nhận và hành động của con nảy sinh từ mâu thuẩn giữa cái ấy với cái
người được kiểm soát chặt chẽ bởi cái tôi. siêu tôi.
Cá nhân trước hết cần phải hiểu được thực
tại xã hội (một chức năng của cái tôi) để
16


có thể thích ứng một cách tốt và thể hiện
một kiểu phát triển cá nhân bình thường.
- Lí thuyết của Ericson không nhấn mạnh
sự chế ngự của các bản năng tính dục.
- Lí thuyết của Ericson quan niệm đồng
nhất về cái tôi.

- Lí thuyết của Freud nhấn mạnh đến sự
chế ngự của các bản năng tính dục.
- Lí thuyết của Freud không quan niệm
đồng nhất về cái tôi.
- Học thuyết dựa trên quan niệm cơ bản về
vô thức. Freud nhấn mạnh đến vai trò
- Học thuyết dựa trên quan niệm cơ bản về
quyết định của vô thức trong đời sống
vô thức.

hàng ngày (nguyên lí tảng băng). Theo đó,
mọi hành vi đều bắt nguồn từ vô thức.
- Bộ máy tâm thần theo Ericson có 3 - Bộ máy tâm thần theo Freud có 3 thành
thành tố: Cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi.
tố: Cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi.
- Ericson quan niệm, tâm lí đàn ông và - Freud chưa phân biệt rõ ràng trong vấn
đàn bà có sự khác biệt (chủ yếu là trên cơ đề khác biệt giữa tâm lí đàn ông và tâm lí
sở có hay không có dương vật).
đàn bà.
- Đối tượng nghiên cứu là các hành vi lệch
lạc, các hành vi lầm lỡ. Gọi chung là các
hành vi cá nhân có thực, quan sát được.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu: phân
tích lâm sàng, phân tích bệnh sử và phân
tích tâm lí.
Quan điểm về các giai đoạn phát triển tâm lí xã hội theo Ericson ứng theo Freud.

Độ
tuổi
xấp
xỉ

0-1

Các
giai
đoạn
phát
Những
triển

giai
trong
Quan điểm của Ericson về
đoạn Quan điểm của Freud về giai
những
những sự kiện có ý nghĩa
tương
đoạn phát triển nhân cách
khủng và những ảnh hưởng xã hội
ứng
của con người.
hoảng
theo
tâm lí
Freud
xã hội
theo
Ericson
Tin
Trẻ sơ sinh phải học cách tin
Môi
Sự thỏa mãn được thực hiện
tưởng
tưởng vào người khác để
miệng
qua ăn uống, bú mẹ. Theo
hoặc là thỏa mãn những nhu cầu cơ
Freud thì trẻ sẽ lựa chọn một
nghi
bản của chúng. Nếu những

trong những cách này để thoả
ngờ.
người chăm sóc hắt hủi hoặc
mãn xung lực. và sự lựa chọn
bất nhất trong việc chăm sóc
này là rất quan trọng vì những
trẻ, chúng có thể xem thế
phương pháp thỏa mãn bằng
giới như một nơi đầy nguy
miệng mà đứa trẻ thích có thể
hiểm với những người không
cho thấy một vài dấu hiệu về
đáng tin cậy. Người mẹ hoặc
kiểu nhân cách sau này của trẻ.
17


người cha chăm sóc đầu tiên
là tác nhân xã hội mấu chốt.

1-3

Tự lập Trẻ học cách “tự lập” - tự ăn,
hoặc là tự mặc, tự đi vệ sinh… Việc
xấu hổ, trẻ không đạt được sự tự lập
nghi
này có thể sẽ khiến cho nó
ngờ
hoài nghi khả năng của bản
bản

thân và cảm thấy xấu hổ.
thân
Cha mẹ là tác nhân xã hội
mấu chốt.

3-6

Tự
khởi
xướng
hoặc
mặc
cảm
thiếu
khả
năng.

6-12

Tài
năng
hoặc
thiếu
tự tin,

Hậu
môn

Nếu trẻ trong thời kì này không
được thỏa mãn những nhu cầu

này sẽ có những cảm giác tiêu
cực, tự ty, lo âu vì sự an toàn.
Sự thảo mãn xung lực được
thực hiện qua hành vi đi vệ
sinh. Theo Freud thì đây là giai
đoạn mà lần đầu tiên đứa trẻ có
khả năng nén lại hoặc tống
những chất cạn bã ra ngoài
theo ý muốn. Sự tự giác đi vệ
sinh là cách thỏa mãn khoái
cảm tính dục cơ bản của trẻ.
Tức là, việc đi vệ sinh phải
thực hiện đúng nơi, sự ân cần
chỉ bảo của cha mẹ đối với trẻ
trong việc luyện tập đi vệ sinh
của chúng là rất quan trọng, vì
nó có thể có ảnh hưởng lâu dài
đối với nhân cách của trẻ.

Trẻ cố gắng đóng vai người Dương Trong giai đoạn này trẻ tìm đến
lớn và cố gắng đảm nhận
vật
sự thoả mãn tính dục thông qua
những trách nhiệm vượt quá
việc đụng chạm đến những cơ
khả năng của nó. Đôi khi
quan, bộ phận nhạy cảm của cơ
chúng đảm nhận cả những
thể (bộ phận sinh dục). Theo
trách nhiệm và công việc

Freud thì đây là giai đoạn mà
mâu thuẩn với những mục
trẻ học tập các chuẩn mực đạo
đích và công việc của cha
đức thông qua cha mẹ chúng.
mẹ, hoặc những người khác
Về phương diện tâm lí thì trẻ
trong gia đình. Những mâu
có cơ chế học tập, bắt chước
thuẩn này khiến chúng cảm
cha, mẹ chúng về các hành vi,
thấy có lỗi. Để giải quyết
thái độ và thuộc tính có nơi cha
những mâu thuẩn này đòi hỏi
mẹ để từ đó hình thành nên
phải có sự cân bằng. Trẻ phải
những đặc tính về giới cũng
chủ động được bản thân và
như tâm lí riêng cho mình.
phải biết bằng cách nào để
không xâm phạm đến quyền
và đặc lợi hoặc mục đích của
người khác. Gia đình là tác
nhân xã hội mấu chốt.
Trẻ phải làm chủ được
Tiềm
Xung lực tính dục của trẻ đi
những kĩ năng, lí luận và xã
ẩn
vào bình lặng. Toàn bộ những

hội quan trọng. Đây là thời
khoái cảm có sẵn được chuyển
mà trẻ hay so sánh với bạn
hóa vào những hành động được
bè cùng tuổi. Nếu thực sự
xã hội chấp nhận như học tập,
18


cảm
giác
thất
bại.

12-20

Khẳng
định
chính
mình
hoặc
mơ hồ
về vai
trò của
mình,
về bản
thân
mình.

chăm chỉ, đứa trẻ có được

những kỉ năng xã hội và lí
luận để có thể cảm thấy tự
tin vào bản thân. Ngược lại,
không đạt được những thứ
này trẻ sẽ cảm thấy mình
thấp kém. Tác nhân xã hội có
ý nghĩa là giáo viên và bạn
bè cùng tuổi.

Đây là “ngả tư đường” giữa
trẻ con và người lớn. Thanh
niên luôn vật lộn với những
câu hỏi như “Ta là ai?”…
Thanh niên phải thiết lập
được các đặc tính xã hội và
nghề nghiệp cơ bản của
mình, hoặc là vẫn chưa xác
định được vai trò xã hội mà
mình sẽ thực hiện khi trưởng
thành. Tác nhân xã hội then
chốt là sự giao tiếp xã hội
với bạn đồng niên.
20-40
Nhu
Nhiệm vụ cơ bản của giai
cầu về
đoạn này là hình thành
đời
những tình bạn bền vững và
sống

đạt đến ý thức về tình yêu và
riêng
tình bạn (hay là chia sẽ đặc
tư, tự
tính) với người khác. Cảm
lập
giác cô đơn hoặc cô độc, rất
hoặc cô có thể là kết quả của sự thiếu
lập,
khả năng hình thành những
cảm
tình bạn hoặc những mối
giác cô quan hệ thân tình. Tác nhân
đơn,
xã hội mấu chốt là người
phủ
yêu, vợ hoặc chồng và những
nhận
người bạn thân ở cả hai giới.
nhu
cầu
gần
gũi.
40-65 Trí tuệ
Ở giai đoạn này con người
sáng
phải đối mặt với nhiệm vụ

Sinh
dục


vui chơi, giải trí.
Trong giai đoạn này trẻ học
cách thăng hoa tình yêu với
cha mẹ và được thể hiện bởi sự
tôn kính, đồng thời củng cố và
chuẩn bị đối phó với vấn đề ở
tuổi thanh niên. Việc chuẩn bị
tốt về cả kiến thức và tình cảm
ở giai đoạn này sẽ giúp cho trẻ
tránh được những biến cố gây
ảnh hưởng lớn đến tâm lí, nhân
cách trong giai đoạn tiếp theo,
nhất là về vấn đề giới tính.
Theo Freud đây là giai đoạn
dài nhất trong các giai đoạn
tâm lí tính dục (bắt đầu từ tuổi
dậy thì cho tới già). Đây là giai
đoạn có nhiều biến đổi về tâm
lí, nhân cách của trẻ do sự biến
đổi về mặt sinh lí của chúng.
Là giai đoạn mà cá nhân đã có
nhận thức và ý thức hành vi
người lớn.

19


tạo
hoặc là

sự
buông
thả,
thiếu
định
hướng
tương
lai

Tuổi
già

trở thành một người hữu ích
trong công việc, trong việc
chăm sóc gia đình, mặt khác
còn chăm sóc nhu cầu của
con cái. Những tiêu chuẩn
“phát sinh” được định rõ bởi
nền văn hóa xã hội. Những
người không thể hoặc không
có khả năng đảm nhận trách
nhiệm này sẽ trở nên đình trệ
hoặc vị kỉ. Những tác nhân
xã hội có ý nghĩa là vợ/
chồng, con cái và những tiêu
chuẩn, qui định văn hóa xã
hội.
Sự
Những người già thường
toàn

nhìn lại cuộc đời của mình,
vẹn của
coi đó như là một trãi
cái tôi nghiệm đầy ý nghĩa, hữu ích
hoặc sự
và hạnh phúc, hay như là
tuyệt
cuộc trãi nghiệm thất vọng,
vọng,
đầy những hứa hẹn không
cảm
thành và những mục tiêu
giác về
chưa được thực hiện. Kinh
sự vô
nghiệm sống của mỗi người,
nghĩa,
đặc biệt là kinh nghiệm xã
thất
hội sẽ qui định kết quả của
vọng.
khủng hoản cuộc sống cuối
cùng này.

Tóm lại, cho dù có những sự khác biệt trong tư tưởng của Ericson và Freud nhưng về
tổng thể thì học thuyết mà hai nhà tâm lí này xây dựng vẫn trên cơ sở của thuyết phân tâm
do S. Freud xây dựng. Hiện nay, tâm lí học theo thuyết phân tâm nói trên “là một trong
những lí thuyết khả phổ biến ở phương Tây. Từ hội họa, nghệ thuật, văn học cho đến triết lí
thường ngày trong đông đảo các tầng lớp tiểu tư sản và tư sản đều đượm màu quan điểm
tình dục tràn lan, bản năng trên hết”15. Trên thực tế, với cách lí giải của thuyết phân tâm học

về các yếu tố xã hội và các yếu tố bản năng trong thế giới tinh thần, tâm lí của con người,
trong đó yếu tố bản năng là cái nắm vai trò chủ đạo, điều tiết và thúc đẩy các hành vi của
con người…Trong đó, đã “đề cao quá đáng cái bản năng vô thức, dẫn đến phủ nhận ý thức,
phủ nhận bản chất xã hội, lịch sử của tâm lí con người. Đồng nhất tâm lí người với tâm lí
loài vật. Học thuyết phân tâm do S. Freud xây dựng là cơ sở ban đầu của chủ nghĩa hiện
sinh, thể hiện quan điểm sinh vật hóa tâm lí con người” 16. Đây chính là điểm yếu mấu chốt
trong tâm lí học phân tâm. Các nhà tâm lí học phân tâm đã đưa ra nhiều quan điểm có giá trị
trong nhiều vấn đề, nhưng với các quan điểm cơ bản về con người và tâm lí người còn chưa
thoát khỏi phạm vi của thuyết sinh vật hóa con người và tâm lí người, vẫn chưa thấy được
15
16

Phạm Minh Hạc, đã dẫn, trang 67.
Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, đã dẫn, trang 16.

20


bản chất xã hội - lịch sử của con người và tâm lí người. Cho nên tâm lí học phân tâm nói
chung cũng như tâm lí học hành vi và tâm lí học gestal (tâm lí học cấu trúc), đều không đạt
tới đích, thực sự nghiên cứu thế giới tâm lí trong cuộc sống thực của con người.
3. Một số ứng dụng về thuyết phân tâm học của S. Freud trong thực hành Công
tác xã hội.
3.1. Phương pháp nghiên cứu trị liệu của S. Freud trong phân tâm học.
Dựa trên những lí luận của mình Freud đã đưa ra một số kĩ năng can thiệp với vấn đề
tâm lí của con người như sau:
3.1.1. Phương pháp lâm sàng: Đây là phương pháp mang đậm tính chủ quan, dựa
trên việc vận dụng các giác quan để tìm ra vấn đề mà cá nhân đang gặp phải. trong khâu
chuẩn đoán tâm lí, phương pháp lâm sàn bao gồm quan sát và bằng trực giác để rút ra nhận
xét. Phương pháp lâm sàng chủ yếu với các cuộc nói chuyện, hỏi chuyện trên cơ sở lắng

nghe.
3.1.2. Phương pháp phân tích tâm lí: Với phương pháp này Freud đưa ra 4 ý;
- Đối lập: làm cho cá nhân nhận ra được anh ta đang lảng tránh cái gì đó. Anh
ta cần nhận diện ra đối tượng tâm lí nào cần phân tích.
- Xếp lớp: Sắp xếp các chi tiết quan trọng vào tiêu điểm một cách chính xác.
- Giải thích: Đây là biện pháp quan trọng nhất nhằm cải biến những chi tiết
không được ý thức thành ý thức được.
- Xử lí: Sử dụng các biện pháp hữu hiệu để thay đổi tâm lí, nhân cách cá nhân
phù hợp.
+ Phân tích sự chuyển vai (sự chuyển dịch):
Sự chuyển dịch là quá trình mà những cảm xúc của thân chủ về cái gì đó trong quá
khứ được thể hiện ra với một người thứ hai (nhà tham vấn).
Sự chuyển dịch gồm có:
- Sự chuyển dịch tích cực: là những cảm xúc mang tính tích cực như sự yêu mến,
kính nể nhân vật quan trọng.
- Sự chuyển dịch tiêu cực: là những cảm xúc mang tính tiêu cực như sự thù ghét, đố
kị đối với một ai đó.
- Sự chuyển dịch ngược: khi nhà tham vấn chuyển ngược cảm xúc của mình đối với
một ai đó lên đối tượng. Cảm xúc này có thể là tích cực hoạc tiêu cực.
Hiện tượng chuyển vai và chuyển dịch ngược thường diễn ra trong quá trình tham
vấn. Nhà tham vấn hay nhân viên công tác xã hội cần nhận biết được cơ chế này. Điều này
sẽ giúp cho tham vấn viên và thân chủ hiểu về cảm xúc thực của mình đối với các mối quan
hệ của họ trong quá khứ. Đồng thời, hình thành được mối quan hệ nghề nghiệp và trên cơ sở
khách quan để giải quyết vấn đề của thân chủ.
Bằng những câu hỏi, chúng ta có thể giúp thân chủ nhận ra được hiện tượng chuyển
vai này. Từ đó, trên cơ sở tôn trọng, tin tưởng sẽ có những bước và những biện pháp thích
ứng để tương tác với thân chủ mà không làm phương hại đến mối quan hệ giữa tham vấn
viên và thân chủ.
Trong trường hợp có sự chuyển dịch ngược, tham vấn viên cần chia sẽ với đồng
nghiệp để nhận được sự giúp đỡ

+ Phân tích giấc mơ:
Giấc mơ theo Freud không chỉ có chức năng sinh lí mà còn có chức năng thảo mãn
mong muốn của cá nhân chưa được thực hiện trong thực tiễn từ đó giải tỏa những căng
thẳng thần kinh. Đây là một trong những cơ chế tự vệ của cá nhân. Chúng ta có thể tìm thấy
nguồn gốc của động cơ vô thức, điều không được chấp nhận hay không công khai qua giấc
mơ.
21


Chẳng hạn như ta mơ được đi dạo, đi ăn, đi học cùng với một người con gái mà hàng
ngày ta để ý thì ta có thể suy ra được là ta có tình cảm, đã yêu người con gái đó.
Chính vì vậy, chúng ta có thể phân tích nội dung giấc mơ để khám phá những mong
muốn, những động cơ vô thức, những mối quan hệ của thân chủ. Nội dung của giấc mơ có
thể là nội dung rõ rệt hoặc nội dung che dấu.
- Nội dung rõ rệt là những gì chúng ta nhớ sau giấc mơ
- Nội dung che dấu là những động cơ vô thức mà ta đi tìm kiếm (nỗi đau, điều muốn
chối bỏ…)
+ Liên tưởng tự do
Đây là kĩ thuật sử dụng để khuyến khích bệnh nhân thổ lộ, chia sẽ cảm xúc, những
mong muốn của họ qua trò chuyện liên tưởng từ ý nghĩ này đến ý nghĩ khác.
Trong quá trình vận dụng kĩ thuật này chúng ta cần phải biết lắng nghe tích cực
những gì mà thân chủ nói để tìm đến cội nguồn của vấn đề. Ngoài ra chúng ta cần phải quan
sát kĩ những hoạt động phi ngôn ngữ (cử chỉ, điệu bộ…) khi họ trình bày.
+ Nhạy cảm với những chống đối từ phía đối tượng
Hành vi chống đối ở đây là việc không hợp tác của thân chủ do một hay nhiều
nguyên nhân nào đó. Đây là điều tất yếu đối với một người có vấn đề do đó chúng ta khi trò
chuyện với họ cần phải nhạy cảm và biết cách xử lí linh hoạt trong từng tình huống cụ thể.
Sự chống đối này có thể là vô thức hoặc ý thức. Do vậy, chung ta cần nhận biết được
hiện tượng này và đồng thời giúp cho thân chủ nhận diện được vấn đề của họ.
Trong quá trình tiếp xúc, chúng ta cần trành làm tổn thương đến họ (khơi gợi nỗi

đau, xúc phạm…), khuyến khích họ chia sẽ khi đã vượt qua ngưỡng chống đối.
Chúng ta có thể thấy, thuyết phân tâm và những kĩ thuật can thiệp tâm lí con người
của Freud có những ý nghĩa quan trong đối với ngành y học, tâm lí học cung như tham vấn
và công tác xã hội. Mặc dù thuyết của ông còn có nhiều người không đồng nhất quan điểm
nhưng trên thực tế quan điểm của Freud đã có những ảnh hưởng nhất định đến khoa học tâm
lí nói chung và ngành phân tâm học trị liệu nói riêng.
3.2. Ứng dụng thuyết phân tâm học trong thực hành Công tác xã hội.
Như chúng ta thấy, từ khi ra đời, thuyết Phân tâm học mà đại diện tiêu biểu là
Sigmund Freud đã nhận được không ít những ý kiến phản bác, không đồng nhất về quan
điểm. Tuy nhiên, với những gì mà thuyết Phân tâm học đã mang lại, nó không chỉ làm giàu
thêm cho kho tàng kiến thức của nhân loại về tâm lí, y học mà còn có những đóng góp thiết
thực cho việc điều trị cá nhân bằng các liệu pháp Phân tâm học. Việc quan sát, phân tích
tâm lí con người là cơ sở cho việc hình thành các phương pháp công tác xã hội.
Công tác xã hội là môt khoa học chuyên môn với những nét đặc thù riêng biệt. Đây
là một khoa học tổng thể bao gồm nhiều kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có
tâm lí học nói chung và phân tâm học nói riêng. Thực hành công tác xã hội là một công việc
đòi hỏi nhiều kiến thức và kĩ năng. Đặc biệt hơn hết, Công tác xã hội làm việc với công cụ
chính yếu đó là “nhân cách” của con người, nhất là trong tham vấn (tham vấn cá nhân, gia
đình và nhóm). Trong công tác xã hội nói chung và tham vấn nói riêng, việc phân tích tâm lí
của thân chủ là một yếu tố, một đòi hỏi tất yếu. Bởi thân chủ đều là những người ít nhiều sẽ
có những vấn đề khó khăn về tâm lí, tình cảm mà không thể tự mình giải quyết được. Chính
vì điều này mà nhân viên xã hội trong quá trình làm việc đã vận dụng các phương pháp trị
liệu mà S. Freud đã đặt ra như: quan sát, phản hồi, lắng nghe, phản ánh cảm xúc…Trên thực
tế, khoa học công tác xã hội đã ứng dụng, vận dụng các phương pháp của thuyết Phân tâm
học trong quá trình thực hành như Phương pháp lâm sàng và phương pháp Phân tích tâm lí.
Việc Lắng nghe tích cực, quan sát hay phản hồi cảm xúc (phương pháp lâm sàng)
trong trị liệu, trong tham vấn cá nhân, nhóm và gia đình là một vấn đề hết sức cần thiết của
Công tác xã hội. Bởi không chỉ đó là chìa khóa để ta tìm hiểu về vấn đề của thân chủ mà
22



còn là nền tảng để nhân viên công tác xã hội hiểu, thấu cảm và tham vấn, đưa ra các liệu
pháp trị liệu, đưa ra các phương án khắc phục vấn đề của thân chủ. Nói cách khác, thuyết
Phân tâm học cũng là một trong những công cụ, kiến thức khá quan trọng liên quan đến
Công tác xã hội, đặc biệt là trong công tác tham vấn.
Theo cuốn “Bài giảng tham vấn” do Nguyễn Thị Thu Hà biên soạn, 2006, ban xuất
bản Đại học Mở bán công thành phố Hồ Chí Mình, trong chương 2 - các phương pháp tham
vấn có một phần đề cập đến phương pháp phân tâm của Freud. Theo đó, tác giả có viết
“Phương pháp phân tâm nhấn mạnh đến vô thức và quá khứ. Tất cả mọi chuyện đều có
nguyên nhân và thường có một số vấn đề phát sinh từ quá khứ, từ tuổi ấu thơ…tồn đọng
trong quá khứ và chi phối hành vi hiện tại. Phương pháp này giúp lùi lại quá khứ, phân tích
để tìm hiểu vấn đề về con người, về nguyên nhân của những hành vi bất thường (tại sao là
người như thế này? Tại sao lại sợ? Tại sao lại làm như vậy?...)” 17. Điều này cho thấy tầm
quan trọng của việc tìm hiểu về quá khứ của thân chủ khi tham vấn, đây sẽ là một trong
những yếu tố dẫn đến sự thành công, đi đúng hướng, đúng giải pháp trong việc giải quyết
vấn đề của thân chủ…
Với việc vận dụng phương pháp lâm sàng, các nhân viên xã hội có thể quan sát được
và hiểu được những biểu hiện bên ngoài thông quan các hành vi, nét mặt của thân chủ, từ đó
nhân viên xã hội có thể phản ánh đúng tâm trạng, xúc cảm mà thân chủ đang gánh chịu,
giúp thân chủ nhận diện và đối mặt với những cảm xúc của mình để vượt qua nó.
Ngoài ra, trong phương pháp này, nhân viên xã hội thực hiện các kĩ năng lắng nghe
và phản hồi cảm xúc. Đây là những phương pháp cực kì quan trọng trong công tác xã hội,
đặc biệt là trong tham vấn. nhân viên xã hội chúng ta không chỉ thể hiện sự quan tâm thân
chủ, tôn trọng thân chủ trong khi lắng nghe mà còn thể hiện sự đồng cảm, thấu cảm với thân
chủ thông qua việc lắng nghe cũng như phản ánh lại cảm xúc. Bằng bằng phương pháp này,
nhân viên xã hội có thể tìm hiểu và nắm bắt được nhiều thông tin hơn từ thân chủ, đồng thời
tạo dựng và cũng cố lòng tin khi làm việc với thân chủ. Mặc dù, việc áp dụng phương pháp
lâm sàng là một điều tất yếu trong công tác xã hội, bởi đây chính là kĩ năng then chốt của
nhân viên xã hội nói chung, tuy nhiên, thực tế thì chúng ta gặp nhiều khó khăn bởi nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan khi vận dụng nó. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải

hiểu biết và vận dụng thật tốt, thật linh hoạt phương pháp này khi thực hành công tác xã hội.
Bên cạnh việc vận dụng phương pháp lâm sàn, các nhân viên xã hội còn vận dụng
phương pháp phân tích tâm lí mà Freud đã đưa ra. Bằng việc gợi chuyện về những mong
muốn trong quá khứ, bằng việc nói chuyện về những giấc mơ, bằng việc thực hiện cơ chế
chuyển dịch ngược…nhân viên xã hội có thể thể hiện sự quan tâm, sự hiểu biết, sự đồng
cảm và thấu hiểu nỗi đau của thân chủ, đồng thời thể hiện cảm xúc của mình trước những
vấn đề mà thân chủ gặp phải…Điều này giúp cho nhân viên xã hội có được nhiều cơ hội
thành công khi thực hành công tác xã hội. Chẳng hạn như trong quá trình tham vấn, nhân
viên xã hội hay nhà tham vấn cần thiết phải sử dụng cơ chế chuyển dịch ngược (phản hồi
cảm xúc), bằng những câu hỏi, chúng ta có thể giúp thân chủ nhận diện ra được cảm xúc.
Từ đó, trên cơ sở tôn trọng, tin tưởng sẽ có những bước và những biện pháp thích ứng để
tương tác với thân chủ mà không làm phương hại đến mối quan hệ giữa tham vấn viên và
thân chủ. Hay với phương pháp “liên tưởng tự do”, nhân viên xã hội có thể khuyến khích
bệnh nhân thổ lộ, chia sẽ cảm xúc, những mong muốn của họ qua trò chuyện liên tưởng từ ý
nghĩ này đến ý nghĩ khác, trên cơ sở lắng nghe tích cực và quan sát kĩ những hoạt động phi
ngôn ngữ (cử chỉ, điệu bộ…) khi họ trình bày…
Với những phân tích, đánh giá ở trên chúng ta có thể thấy, Mặc dù vẫn còn có những
quan điểm sai lệch nhưng sự ảnh hưởng của thuyết Phân tâm học đối với ngành Công tác xã
17

Nguyễn Thị Thu Hà (2006), Bài giảng Tham vấn, ban xuất bản Đại học Mở bán công Tp. HCM, trang 12.

23


hội nói riêng và đối với trị liệu tâm lí nói chung là không thể phủ nhận. Nhất là đối với công
tác tham vấn trong công tác xã hội.
Như vậy, có thể nói, Sigmund Freud đã có đóng góp rất lớn cho khoa học tâm lí trị
liệu nói chung. Là nhân viên xã hội chúng ta cũng cần phải quan tâm hơn đến các liệu pháp
mà Freud đã đề ra, bởi nó rất gần và cũng là một trong những kiến thức cốt lõi của Công tác

xã hội. Phương pháp mà Freud đưa ra cũng chính là những kĩ năng chuyên môn rất cần
thiết, cần có của một nhân viên công tác xã hội thực thụ.
III. Thay lời kết
Tâm lí học là một khoa học rộng lớn liên quan đến nhiều khoa học khác và liên quan
đến đời sống tinh thần (tâm tư, tình cảm, xúc cảm…) của con người. Chính vì vậy, đối với
các nhà tâm lí học nói chung thì đây là một bộ môn khoa học đầy khó khăn khi nghiên cứu.
Bởi vì với từng cách tiếp cận khác nhau sẽ có những hướng đi, những hướng tư tưởng khác
nhau… Mặc dù trong tâm lí học có nhiều tưởng, nhiều học thuyết theo nhiều trường phái
khác nhau. Bên cạnh những học thuyết mang tính khoa học có giá trị thì vẫn có những học
thuyết theo hướng sai lệch. Tuy vậy, với khía cạnh chung nhất thì cho dù ở bất cứ luận điểm
và tư tưởng nào, các nhà tâm lí học của chúng ta đã có ít nhiều những đóng góp thiết thực
cho khoa học tri thức nhân loại.
Đối với những khía cạnh mà bài viết này đề cập, thật sự là rất khó để tỏ rõ những
quan điểm của mình trong tất cả những vấn đề bàn đến. Nhưng với những gì tiếp cận và
chứng minh được cho thấy, tâm lí con người có nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn, đây là
luận điểm chính đáng, đúng đắn và được các nhà tâm lí học, triết học và các nhà khoa học
ngày nay thừa nhận.
Đối với các lí thuyết tâm lí học hành vi (Watson), tâm lí học hoạt động (Vugotxki),
tâm lí học phân tâm (Freud và Ericson) tất yếu hệ tư tưởng của mỗi người là mỗi khác, cách
thức, phương pháp tiếp cận tâm lí cũng khác nhau…Đây cũng chính là cơ sở để chúng ta đi
so sánh các lí thuyết giữa các nhà tâm lí học nói trên. Tuy nhiên, việc so sánh này thật sự
không hề đơn giản chút nào. Với những đặc điểm giống và khác nhau như đã phân tích ở
trên, đó là những nét cơ bản nhất trong lí thuyết tâm lí học phát triển của những nhà tâm lí
học vĩ đại đương thời. Trên đây đều là những quan điểm ít nhiều vẫn có giá trị rất lớn đối
với nền khoa học tâm lí ngày nay.
Với những phát kiến, những lí luận và phương pháp trị liệu mà các nhà tâm lí đã nêu
ra. Đặc biệt là trong lí thuyết phát triển tâm lí của S. Freud xây dựng đã được một số ngành
khoa học vận dụng nó trong hoạt động thực tiễn. Trong đó có chuyên ngành công tác xã hội.
Việc áp dụng các phương pháp phân tâm của Freud trong thực hành công tác xã hội là một
điều tất yếu khi mà công cụ làm việc của công tác xã hội chính là “nhân cách” của con

người. Bằng các phương pháp lâm sàng, phương pháp phân tích tâm lí, liên tưởng tự do…
nhân viên xã hội có thể thu thập thông tin, gây dựng lòng tin, khuyến khích thân chủ bộc lộ
những mong muốn xúc cảm của mình. Từ đó, trên cơ sở mối quan hệ nghề nghiệp, nhân
viên xã hội có thể giúp thân chủ của mình đối mặt và vượt qua những khó khăn trong cuộc
sống.
Tóm lại, tâm lí học là một khoa học rộng, trong đó nhiều nhà tâm lí học đã có nhiều
đóng góp cho kho tàng kiến thức của nhân loại. Không những thế, với những lí thuyết về
tâm lí con người, các nhà khoa học đã tạo dựng, đặt nền móng cho nhiều ngành khoa học
khác tiếp tục phát triển lên nấc thang mới, vận dụng các thuyết phát triển tâm lí, các phương
pháp trị liệu tâm lí một cách linh hoạt và sáng tạo hơn. Tất nhiên trong đó có khoa học công
tác xã hội, mà trên hết đó là thực hành tham vấn.
24


25


×