GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
MỤC LỤC
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
1
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Lời mở đầu
Được tiếp cận với thực phẩm an toàn đang trở thành quyền cơ bản đối với mỗi con
người. An tồn thực phẩm khơng chỉ ảnh hưởng trực tiếp, thường xuyên đến sức
khỏe mà còn liên quan chặt chẽ đến năng suất, hiệu quả phát triển kinh tế, thương
mại, du lịch và an sinh xã hội. Rõ ràng là vấn đề an toàn thực phẩm (ATTP) ngày
càng được nhìn nhận có tầm quan trọng đặc biệt. Thực phẩm an tồn đóng góp to
lớn đối với việc cải thiện sức khoẻ con người và chất lượng cuộc sống cũng như về
lâu dài, đối với phát triển giống nịi.
Trong thời gian qua, Việt nam đã có nhiều nỗ lực trong cơng tác bảo đảm an tồn
thực phẩm. Các cấp, các ngành đã vào cuộc và sự chuyển biến theo hướng tích cực đã
được ghi nhận ở nhiều địa phương, đặc biệt ở những thành phố lớn. Tuy nhiên, nếu
nhìn về tổng thể, cơng tác bảo đảm an toàn thực phẩm vẫn là vấn đề thách thức to
lớn ở nước ta. Ngộ độc thực phẩm và các mối nguy đe dọa mất an toàn thực phẩm
tiếp tục là những vấn đề quan tâm hàng đầu đối với sức khỏe cộng đồng, an sinh xã
hội và tăng trưởng kinh tế. Có một thực tế tồn tại nhiều năm qua khi thực hiện vệ
sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) là số cơ sở tái phạm sau khi bị xử phạt... lên tới
gần 100%. Điều đó đã minh chứng cho ý thức quá kém của người sản xuất, đẩy mọi
nỗ lực của cộng đồng về con số không. Vấn đề đặt ra là muốn kiểm soát VSATTP, nhất
thiết phải siết chặt quản lý trên mọi “mặt trận", đồng thời có sự liên kết, hỗ trợ giữa
các “mặt trận", các lực lượng với nhau.Các giải pháp giải quyết vấn đề này đang
được đặt ra rất cấp bách.
Trên tình hình này, tơi xin chọn đề tài “vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức để nghiên cứu về thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm ở nước ta hiện
nay”.
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
2
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Nội dung
I. Quan điểm duy vật biện chứng về vật chất và ý thức và mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức
1) VẬT CHẤT
Theo lênin: “vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Theo định nghĩa này:
Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với
những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. vật chất với tư cách là phạm trù triết học
là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ
vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vơ hạn, vơ tận, khơng
sinh ra, khơng mất đi; cịn tấc cả những sự vật, những hiện tượng là những dạng
biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có q trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa. Vì
vậy, khơng thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng tồn tại cụ thể của vật
chất.
Thứ hai, thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thực tại khách quan, tức
là thuộc tính tồn tại ngồi ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người,
cho dù con người có nhận thức được hay khơng nhận thức được nó.
Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên
cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con
người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được
ý thức phản ánh.
Định nghĩa của lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
3
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Một là, bằng việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là tồn tại
khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc phục
được sự hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn
cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cở sở lý luận
cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy
tâm trong quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
Hai là, khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lai cho lại
người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”,
Lênin không chỉ khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo
quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng của con người có thể nhận thức
được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của con người
đối với thực tại khách quan.
a)
Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức
tồn tại của vật chất; không gian; thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
•
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph. Ăngghen định nghĩa: “vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,
-thì bao gồm tấc cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể cả sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, thông qua vận động mà các
dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là tự
thân vận động, sự tồn tại của vật chất gắn liền với vận động. Dựa trên thành tựu
khoa học ở thời đại mình, Ph. Ăngghen đã phân chia sự vận động thành năm hình
thức vận động cơ bản từ thấp đến cao: vận động cơ giới, vận động vật lí, vận động
hóa, vận động sinh vật, vận động xã hội. trong đó hình thức vận động cao xuất hiện
trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong đó những hình thức vận
động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận
SV: TRẦN NGUN THIỆU
4
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức
vận động nhất định.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph. Ăngghen đã đặt cơ sở
cho việc phân loại, phân ngành, hợp loại, hợp thành khoa học. Tư tưởng về sự thống
nhất nhưng khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để
chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận
động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhân thức.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
hữu của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là
tuyệt đối, là vĩnh viễn. điều này khơng có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ
nhận sự đứng im, cân bằng. Đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời
và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động; đó là
vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về
vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
•
Khơng gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng
tính (chiều dài, chiều cao, chiều rộng) nhất định và tồn tại trong các mối quan hệ
nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái) với những dạng vật
khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặc khác, sự tồn tại
của sự vật cịn được thể hiện ở q trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển
hóa: những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian. Khơng gian, thời gian là
những hình thức tồn tại của vật chất.
Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; khơng có vật
chất tồn tại ngồi khơng gian và thời gian; cũng khơng có khơng gian và thời gian
tồn tại ngồi vật chất vận động.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên khơng
gian, thời gian cũng có những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó
là tính khách quan, tính vĩnh cữu, tính vơ tận và vơ hạn.
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
5
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Ngồi ra khơng gian có thuộc tính ba chiều cịn thời gian chỉ có một chiều. tính
ba chiều của khơng gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại
về quảng tính và q trình diễn biến của vật chất vận đơng.
b) Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới vật chất biểu hiện hết sức phong phú đa dạng, song những dạng biểu
hiện của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất với
nhau.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái
có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được là sinh ra
và không bị mất đi.
Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau,
biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu của
vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của
những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất
khơng có gì khác ngồi những q trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn
nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút
ra từ việc khái quát những thành tựu khoa học, được khoa học và cuộc sống hiện
thực của con người kiểm nghiệm. Nghiên cứu vấn đề này khơng chỉ định hướng cho
con người giải thích về tính đa dạng của thế giới mà còn giúp cho con người tiếp tục
nhận thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.
2) Ý THỨC
Trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất, kết cấu và vai trị của ý
thức ln là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
6
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trên cơ sở những thành tựu của triết học duy vật, của
khoa học, của thực tiễn xã hội, triết học Mác-Lênin góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề trên.
Về khái niệm, ý thức là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con người, bao
gồm những tri thức, kinh nghiệm, những trạng thái tình cảm, ước muốn, hi vọng, ý
chí niềm tin,… của con người trong cuộc sống. Ý thức là sản phẩm của quá trình phát
triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là kết quả của quá trình phản ánh thế giới hiện
thực khách quan vào trong đầu óc của con người.
a) Nguồn gốc của ý thức
Ý thức có hai ngồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội:
•
Nguồn gốc tự nhiên
Ý thức thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc
đó cùng mối quan hệ của con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách
quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người,
là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lí thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng
hồn thiện, hoạt động sinh lí của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng
phong phú và sâu sắc. Bộ óc bị tổn thương thì sinh lí thần kinh của con người sẽ
khơng bình thường, năng lực của nhận thức, của tư duy và đời sống tinh thần của
con người cũng sẽ bị rối loạn.
Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ
khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan thông qua các
hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc con người, hình thành nên q
trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái hiện những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc
tính của tất cả dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới những hình thức cơ
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
7
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
bản sau: phản ánh vật lý, hóa học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh
năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức).
Phản ánh vật lý, hóa học là những hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất
vô sinh. Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa,… khi có
sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vơ sinh. Hình thức phản ánh này
mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhân tác động.
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên
hữu sinh. Phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản
xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi
chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc,… khi nhận
sự tác động trong mơi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ
thần kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiên trên cơ sở điều khiển của quá
trình thần kinh qua cơ chế phản xạ khơng điều kiện, khi có sự tác động bên ngồi mơi
trường lên cơ thế sống.
Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được
thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình
thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức
cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình
hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên
các giác quan của con người. Đây là phản ánh có tính chủ động lựa chọn thơng tin,
xử lý thơng tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự
phản ánh năng động sáng tạo này được goi là ý thức.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những điều kiện tự nhiên để giải thích sự ra đời
của ý thức thì chỉ là điều kiện cần, vì nếu chỉ với những tác động tự nhiên giới hạn
trong một con người, thì ý thức chỉ có thể tồn tại trong một thế hệ. Như vậy không
thể giải thích được làm thế nào ý thức lại có q trình vận động và phát triển, đồng
thời lại hết sức đa dạng, phức tạp khơng kém gì so với thế giới vật chất.
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
8
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Theo quan điểm của chủ nghĩa Lênin, ngoài nguồn gốc tự nhiên, sự ra đời của ý
thức còn chịu nhiều tác động của nhân tố xã hội.
•
Nguồn gốc xã hội
Lao động và ngơn ngữ, hai yếu tố này vừa là nguồn gốc, vừa là tiền đề quyết
định sự ra đời ý thức.
Lao động là quá trình con người sử dụng các cơng cụ tác động vào giới tự
nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người. Trong
quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm cho thế giới
khách quan bộc lộ thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động còn ẩn dấu,…
nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Qua quá trình lao động cùng với lao động các
giác quan của con người ngày càng phát triển, từ những “tia ý thức đầu tiên” con
người đã có được kho tàng tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thơng tin mang nội dung ý
thức. Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang
tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu
phải có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển
ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người không chỉ giao tiếp, trao đổi
mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, “… sau lao động và đồng thời với lao động là ngơn ngữ;
đó là hai chất kích thích chủ yếu đã làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển thành bộ óc
con người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức con người”.
b) Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khác quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
9
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Thể hiện ở khả năng hoạt động tâm-sinh lý của con người trong việc định
hướng tiếp nhận thông tin, chon lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và
trên cơ sở những thơng tin đã có, nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện
ra ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động sáng tạo của sự phản
ánh ý thức còn được thể hiện quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả
thuyết, huyền thoại,… trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất,
quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động
của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
Ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó khơng cịn y
ngun như giới khách quan mà nó đã cải tiến thơng qua lăng kính chủ quan của con
người.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội
Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi
phối không chỉ là các quy luật sinh học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu
cầu tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính
năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
c) Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tâm lý-xã hội có kết cấu rất phức tạp. Có nhiều cách tiếp
cận để nghiên cứu về kết cấu của ý thức, song ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu theo các
yếu tố hợp thành và theo chiều sâu của nội tâm.
Theo các yếu tố hợp thành
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình
nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ.
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
10
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung của tri thức. Tri thức là
phương thức tồn tại của ý thức là điều kiện để ý thức phát triển. Mọi hoạt động của
con người đều có tri thức, được tri thức định hướng.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại tri thức về
tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn… căn cứ vào trình độ phát triển của
nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan
hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành
từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi chịu sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là
một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực
tiễn.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối
tượng đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau như:
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tơn giáo,…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trong q trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động
của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được
mục đích của hành động nên tự đấu tranh với ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục
đích đã lựa chọn. Có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều
khiển, điều chỉnh hành vi con người hướng đến mục đích một cách tự giác, nó cho
phép con người kiềm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo
quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chính khơng chỉ thể hiện ở
cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích
mà ý chí hướng đến.
Tấc cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức; đồng thời là
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
11
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu
tố khác.
Theo chiều sâu của thế giới nội tâm của con người
Tự ý thức là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản
thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới con người. Nhờ vậy con người tự
nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có
các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội.
Tiềm thức là những hoạt động tâm lí tự động diễn ra bên ngồi sự kiểm sốt
của chủ thế, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lí đang diễn ra
dưới sự kiểm sốt của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ
thể đã có từ trước nhưng được lập đi lập lại và đã gần như trở thành bản năng,
thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ
thể không cần kiểm sốt chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trị quan trọng
cả trong hoạt động tâm lí hàng ngày của con người, trong giáo dục và trong thực
hành đạo đức, cả trong tư duy khoa học.
Vô thức là những trạng thái tâm lí ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi,
thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự
truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính tốn của lí trí. Vơ thức biểu hiện thành
nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thơi miên, mặc
cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… vơ thức có vai trị tác dụng nhất định trong đời
sống và hoạt động của con người. Nhờ vơ thức mà con người tránh được tình trạng
căng thẳng không cần thiết khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà những chuẩn mực
xã hội do con người đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên. Ngoài ra, một số lĩnh
vực văn hóa, nghệ thực, nhiều tác phẩm nghệ thuật có những nội dung và hình thức
độc đáo tưởng như “bay bổng” khỏi thế giới hiện thực được ra đời do tác động của
vô thức.
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
12
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
3) MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
a) Vai trò của vật chất đối với ý thức
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất quyết định sự xuất hiện,
nội dung, sự biến đổi của ý thức:
Ý thức chỉ có thể có ở dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, bản thân bộ
óc người cũng là sản phẩm của q trình tiến hóa của thế giới vật chất.
Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh là thế giới vật chất. Nội
dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức,
hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác
động của môi trường sống quyết định.
Vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện
cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b) Vai trò của ý thức đối với vật chất
Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được hiện thực. Muốn thay đổi
hiện thực con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Muốn thay đổi hiện
thực con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của
con người đều do ý thức chỉ đạo, do đó vai trị của ý thức khơng phải trực tiếp tạo ra
hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách
quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế
hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, phương tiện,… để thực hiện mục tiêu của
mình. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Một là, nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực, có ý chí thì sự tác động của ý thức là tích cực, nhờ vậy mà hành
động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có thể vượt qua
những thách thức trong q trình thực hiện mục đích của mình;
SV: TRẦN NGUN THIỆU
13
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Hai là, nếu ý thức của con người phản ánh khơng đúng bản chất, tính quy luật
của hiện thực khách quan, tình cảm khơng trong sáng, thiếu quyết tâm, hành động
của con người sẽ sai trái đi ngược lại với các quy luật khách quan, sẽ có tác dụng tiêu
cực với các hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
4) Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định
ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thơng qua hoạt động thực tiễn
của con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính
năng động chủ quan của mình.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tơn trọng khách quan là xuất phát tính
khách quan của vật chất, có thái độ tơn trọng đối với hiện thực khách quan. Điều đó
địi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách
quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy
thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ
chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trị tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa
tính tích cực, năng động sáng tạo ấy. Điều này địi hỏi con người phải tơn trọng tri
thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền
bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn
quần chúng hành động. Mặc khác phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành,
cũng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống
nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện ngun tắc tơn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng thay cho
hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho
chiến lược, sách lược… đây cũng là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
14
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
thường tri thức khoa học, xem thương lí luận, bảo thủ, trì truệ, thụ động… trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
II.
Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay
1)
NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
* Thực phẩm:
Là những thức ăn, đồ uống của con người dưới dạng tươi sống hoặc đã qua
sơ chế, chế biến; bao gồm cả đồ uống, nhai, ngậm và các chất đã được sử dụng trong
sản xuất, chế biến thực phẩm.
* Vệ sinh thực phẩm:
Là mọi điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn và phù hợp
của thực phẩm ở mọi khâu thuộc chu trình thực phẩm.
* An toàn thực phẩm:
Là sự đảm bảo thực phẩm khơng gây hại cho người tiêu dùng khi nó được
chuẩn bị và/hoặc ăn theo mục đích sử dụng.
* Định nghĩa vệ sinh an toàn thực phẩm:
Vệ sinh an toàn thực phẩm là tất cả mọi điều kiện, biện pháp cần thiết từ khâu
sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng nhằm đảm
bảo cho thực phẩm sạch sẽ, an tồn, khơng gây hại cho sức khoẻ, tính mạng người
tiêu dùng.
Vì vậy, vệ sinh an tồn thực phẩm là cơng việc địi hỏi sự tham gia của nhiều
ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như nông nghiệp, thú y, cơ sở chế
biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng…
2)
a)
TẦM QUAN TRỌNG CỦA AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
Đối với sức khỏe
An toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối
với sức khoẻ con người, được toàn xã hội quan tâm. Thực phẩm an tồn đóng góp to
lớn đối với việc cải thiện sức khỏe con người và chất lượng cuộc sống. Được tiếp cận
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
15
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
với thực phẩm an toàn đang trở thành quyền cơ bản đối với mỗi con người. ATTP
không chỉ ảnh hưởng trực tiếp thường xuyên đến sức khỏe con người mà còn liên
quan chặt chẽ đến năng suất, hiệu quả phát triển kinh tế, thương mại, du lịch và an
sinh xã hội. Đảm bảo ATTP sẽ tăng cường nguồn lực, thúc đẩy phát triển và thúc đẩy
xóa đói giảm nghèo.
Thực phẩm kém vệ sinh an tồn khơng chỉ gây nên ngộ độc cấp tính một cách
ồ ạt dễ nhận thấy mà còn phải kể đến các bệnh mãn tính gây suy kiệt sức khỏe do
nhiễm và tích lũy các chất độc hại như chì, thủy ngân, asen, thuốc bảo vệ động thực
vật, phẩm màu độc với lượng nhỏ nhưng kéo dài thời gian sử dụng, đặc biệt là các
độc tố vi nấm như aflatoxin trong ngô, đậu, lạc mốc có thể gây ung thư.... Gần đây trên
báo chí, những tin y học cảnh báo bệnh ung thư đang tăng một cách đáng báo động mà
một trong những nguyên nhân chủ yếu là do ăn những thực phẩm chứa các chất độc hại.
Về lâu dài, thực phẩm khơng chỉ có những tác động thường xun đến sức khỏe con người
mà còn ảnh hưởng đến nòi giống.
b) Đối với kinh tế-xã hội
Đối với nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực thực phẩm
là một loại sản phẩm chiến lược, ngồi ý nghĩa kinh tế cịn có ý nghĩa chính trị, xã hội
rất quan trọng.
Vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc
tế. Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm không những cần được sản
xuất, chế biến, bảo quản phịng tránh ơ nhiễm các loại vi sinh vật mà cịn khơng được
chứa các chất hóa học tổng hợp hay tự nhiên vượt quá mức quy định cho phép của
tiêu chuẩn quốc tế hoặc quốc gia, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Những thiệt hại khi khơng đảm bảo vệ sinh an tồn thực phẩm gây nên nhiều
hậu quả khác nhau, từ bệnh cấp tính, mãn tính đến tử vong. Thiệt hại chính do các
bệnh gây ra từ thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, phục hồi sức khỏe,
chi phí do phải chăm sóc người bệnh, sự mất thu nhập do phải nghỉ làm … Đối với nhà
sản xuất, đó là những chi phí do phải thu hồi, lưu giữ sản phẩm, hủy hoặc loại bỏ sản
phẩm, những thiệt hại do mất lợi nhuận do thông tin quảng cáo … và thiệt hại lớn
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
16
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
nhất là mất lòng tin của người tiêu dùng. Ngồi ra cịn có các thiệt hại khác như phải
điều tra, khảo sát, phân tích, kiểm tra độc hại, giải quyết hậu quả …
Do vậy, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để phịng các bệnh gây ra
từ thực phẩm có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội,
bảo vệ môi trường sống của các nước đã và đang phát triển, cũng như nước ta. Mục
tiêu đầu tiên của vệ sinh an toàn thực phẩm là đảm bảo cho người ăn tránh bị ngộ
độc do ăn phải thức ăn bị ơ nhiễm hoặc có chất độc; thực phẩm phải đảm bảo lành và
sạch.
3) NHỮNG THÁCH THỨC VÀ THỰC TRẠNG AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
a) Thách thức
Khó khăn, thách thức lớn nhất hiện nay trong công tác bảo đảm ATVSTP của
Việt Nam, đó là: Hệ thống tổ chức quản lý chưa thống nhất, chưa đủ mạnh; việc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời cho công tác
quản lý trong giai đoạn mới. Đặc biệt, hệ thống mạng lưới quản lý, thanh tra chuyên
ngành kiểm nghiệm đang trong giai đoạn xây dựng nên vẫn cịn thiếu nhân lực, yếu
kém cả về trình độ chun môn và trang thiết bị.
Nhận thức về những tác hại gây ra từ thực phẩm không đảm bảo vệ sinh của
nhiều tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm cịn kém.
Trong tháng hành động vì chất lượng, ATVSTP năm 2009, Bộ trưởng Bộ Y tế
Nguyễn Quốc Triệu thừa nhận: “Công tác bảo đảm ATVSTP đang phải đối mặt với
những thách thức lớn, đó là: tình trạng vi phạm các quy định về ATVSTP từ chăn nuôi,
trồng trọt, thu hái, chế biến và kinh doanh thực phẩm vẫn đang ở mức cao; ô nhiễm vi
sinh vật và các hóa chất độc hại trên nơng sản, ngun liệu, phụ gia thực phẩm còn
chiếm tỷ lệ cao; việc không bảo đảm điều kiện vệ sinh của các cơ sở sản xuất, chế biến
thực phẩm còn khá phổ biến. Ngộ độc thực phẩm ở các bếp ăn tập thể, các khu công
nghiệp, công trường, bệnh viện, trường học đang có chiều hướng gia tăng. Đáng lo
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
17
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
ngại là, thực phẩm nhập lậu qua biên giới đang diễn biến phức tạp, khó kiểm sốt,
dẫn đến thực phẩm giả, kém chất lượng cịn lưu thơng trên thị trường”.
Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng nguyên nhân cơ bản là
việc chưa thấy hết và làm hết vai trò, trách nhiệm của từng nhóm đối tượng trong
việc bảo đảm chất lượng ATVSTP. Bên cạnh đó, đầu tư cho cơng tác quản lý ATVSTP
của Nhà nước và trách nhiệm của chính quyền các cấp cịn chưa cao.
b) Thực trạng
• Tình hình cả nước
Trong những năm qua, công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đã đạt
được một số thành tựu nhất định, kim ngạch xuất khẩu nông sản và thuỷ sản tăng từ
2.367,2 triệu USD năm 1995 lên 14 tỷ USD trong 11 tháng năm 2009. Diện tích rau
an tồn khơng ngừng mở rộng, nhiều cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện
san xuất rau an tồn. Chỉ tính riêng năm 2009, đã xây dựng và phát triển 10% vùng
sản xuất nơng sản, thực phẩm an tồn, 77% cơ sở sản xuất thức phẩm thuỷ sản quy
mô công nghiệp áp dụng tiêu chuẩn HACCP. Ngoài ra, các địa phương trong cả nước
đã triển khai xây dựng được 645 mô hình thức ăn đường phố, 150 mơ hình chợ
điểm, 270 mơ hình bếp ăn tập thể, 41 mơ hình bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm
tại khu du lịch...
Đạt được những kết quả trên là nhờ công tác ban hành văn bản quy phạm
pháp luật được chú trọng, tạo hành lang pháp lý để phục vụ công tác quản lý; Hệ
thống tổ chức Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm được đã thành lập đang từng bước
được tăng cường và củng cố; Công tác thanh tra, kiểm tra đã ngăn chặn và xử lý
nhiều vi phạm về vệ sinh an tồn thực phẩm góp phần đưa doanh nghiệp đi dần vào
khuôn khổ của pháp luật; Công tác tuyên truyền giáo dục được đẩy mạnh, tạo thói
quên để cộng đồng quan tâm đến vấn đề chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; Kiến
thức thực hành về vệ sinh an tồn thực phẩm của các nhóm đối tượng, cán bộ quản
lý, người sản xuất, kinh doanh thực phẩm, người tiêu dùng thực phẩm được nâng
cao, đồng thời hạn chế thực phẩm kém chất lượng lưu thông trên thị trường.
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
18
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những tồn tại mà để
khắc phục nó khơng cịn cách nào khác là phải nhìn vào thực trạng như: Ngộ độc
thực phẩm ở các bếp ăn tập thể, các khu công nghiệp, công trường, bệnh viện,
trường học đang có chiều hướng gia tăng. Riêng năm 2009, có 152 vụ ngộ độc thực
phẩm với 5.212 người mắc, 35 trường hợp tử vong, tỷ lệ người mắc ngộ độc thực
phẩm trung bình là 6,08/100.000 dân, tỷ lệ người tử vong là 0,04/100.000 dân. Thực
phẩm nhập lậu qua biên giới diễn biến phức tạp, khó kiểm sốt. Thực phẩm giả, thực
phẩm kém chất lượng, thực phẩm nhập lậu qua biên giới chưa được kiểm sốt chặt
chẽ, cịn lưu thơng trên thị trường.
Trong năm qua, tình trạng sản xuất rượu khơng đảm bảo có xu hướng gia
tăng, kiểm tra an toàn thực phẩm các loại hoa quả chưa được triển khai. Việc ô
nhiễm vi sinh vật và các hố chất độc hại trên nơng sản, ngun liệu, phụ gia thực
phẩm còn chiếm tỷ lệ cao. Kết quả kiểm tra các chỉ tiêu vệ sinh an toàn thực phẩm
của sản phẩm lưu thơng trên thị trường vẫn cịn tồn dư hoá chất bảo vệ thực vật
vượt giới hạn cho phép trong rau chiếm 11,65% -13%, trong quả từ 5%-15,15%. Việc
không bảo đảm điều kiện vệ sinh của các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm còn khá
phổ biến.
Và một thực trạng đáng buồn hơn nữa nằm ở những quán cơm sinh viên…
Dọc theo các con đường vào làng đại học Thủ Đức (phường Linh Trung, quận
Thủ Đức, TP HCM), hàng chục qn cơm bình dân "mở vội", khơng đảm bảo ATVSTP
phục vụ lượng sinh viên quá đông đang theo học tại đây.
Ghé vào một quán cơm bình dân "ngon - bổ - rẻ" trong làng đại học, tại quầy
thức ăn, cô chủ quán lấy thức ăn cho khách không ngớt tay, thi thoảng ruồi, nhặng
bay "vo ve" quanh các mâm thức ăn, rất mất vệ sinh. Dưới sàn nhà nhếch nhác rác
bẩn, các sinh viên vẫn "vô tư" nuốt vội bữa cơm trưa để kịp giờ vào học. Phía sau nhà
bếp, nơi được xem là khu vực chế biến thức ăn rộng khoảng 20m 2, mạng nhện bám
khắp tường nhà, bát, đĩa nằm bừa bộn lẫn với thực phẩm chưa chế biến bừa bộn
dưới nền đất. Ba nhân viên đang vội vàng sơ chế thực phẩm, người thái thịt, nhặt
rau, cô nhân viên vừa thái thịt xong chuyển qua cho người phụ nữ luống tuổi đang
hốt rác. Chưa kịp rửa tay, người phụ nữ nhúng nguyên cả bàn tay cáu bẩn vào thau
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
19
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
thức ăn để ướp gia vị... Bẩn là vậy, nhưng đến giờ ăn, quán nào cũng chật kín khách,
sinh viên phải chen chúc nhau ăn cơm.
Nhiều bạn sinh viên phản ánh khi ăn những bữa cơm bẩn như thế này: “Trước
đây, khi còn tự nấu ăn cho riêng mình thì ăn cảm thấy rất ngon. Nhưng đôi lúc việc
học chồng chéo, nên phải ghé quán ăn cho qua ngày. Nhưng ngày chưa qua mà họa
đã đến…đang buổi học bụng sơi sùng sục và tiếp đó bị “tào tháo” rượt đuổi gần chết”.
Đáng sợ nhất là những quán cơm “treo đầu dê bán thịt chó” như quán “ ĐB”
gần trường ĐH KHXH&NV. Mới bước vào quán các bạn sinh viên sẽ gặp ngay những
bảng hiệu theo kiểu quảng cáo rao vặt như: “cơm rẻ, ngon, đảm bảo chất lượng, bình
ổn giá…”. Ngồi ra cịn treo bằng kỹ thuật viên để đánh lừa khách sinh viên. Nhưng
đằng sau cái mác và nhiều bảng hiệu “đẹp” ấy là thế giới của sự nhơ nhớp; các loại
chén đĩa tại quán đều được rửa qua loa cho kịp khách ăn. Rồi thực phẩm của qn
chẳng biết có sạch hay khơng mà khi ăn mùi “thum thủm”. Để lừa sinh viên tất cả các
món ăn đều được nhuộm màu thật mát mắt, ăn xong có tác dụng “đau bụng” liền.
Thượng khách sinh viên đến quán này đông như vậy cũng bởi chiêu quảng cáo
rất hay, đồng thời khi sinh viên đến ăn cịn được món rau sống miễn phí. Nhưng nhìn
tận mắt rổ rau xà lách, diếp cá, rau má, tía tô… đã úa, nát, khiến chúng ta không phát
sợ không dám ăn khi nghĩ tới cảnh về nhà phải mua thuốc “xổ” sẵn. “Hậu trường”
của quán, rau được vứt trong sọt, đổ ngổn ngang trên nền đất cạnh ngay bếp củi, rồi
nhặt, rửa vội vàng qua hai lần nước
Tương tự ở nhiều quán gần trường ĐH Khoa học Tự nhiên, đồ ăn được chế
biến tại chỗ trước mặt sinh viên. Đầu bếp chiên sườn, cá, trứng… trên chảo dầu đen
kịt. Cạnh bên, chồng bát đĩa chất đống, rải rác các loại thịt, cá, rau, cơm thừa đổ tràn
lan và bốc mùi kinh khủng.
4) NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC MẤT AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
a) Trong khâu sản xuất
Thực phẩm có nguồn gốc từ gia súc, gia cầm bị bệnh hoặc thủy sản sống ở
nguồn nước bị nhiễm bẩn. Các loại rau, quả được bón quá nhiều phân hóa học, sử
dụng thuốc trừ sâu không cho phép hoặc cho phép nhưng không đúng về liều lượng
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
20
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
hay thời gian cách ly. Cây trồng ở vùng đất bị ô nhiễm hoặc tưới phân tươi hay nước
thải bẩn. Sử dụng các chất kích thích tăng trưởng, thuốc kháng sinh.
b) Q trình chế biến, bảo quản
• Q trình giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm, q trình thu hái lương thực, rau, quả
•
•
•
•
khơng theo đúng quy định.
Dùng chất phụ gia không đúng quy định của Bộ Y tế để chế biến thực phẩm.
Dùng chung dao thớt hoặc để thực phẩm sống với thực phẩm chín.
Dùng khăn bẩn để lau dụng cụ ăn uống.
Bàn chế biến thực phẩm, bàn ăn hoặc dụng cụ ăn uống nhiễm bẩn. Khơng rửa tay
•
trước khi chế biến thực phẩm, nhất là khi chuẩn bị thực phẩm cho trẻ em.
Người chế biến thực phẩm đang bị bệnh truyền nhiễm, tiêu chảy, đau bụng, nơn,
sốt, ho hoặc nhiễm trùng ngồi da.
• Rửa thực phẩm, dụng cụ ăn uống bằng nước nhiễm bẩn.
Nấu thực phẩm chưa chín hoặc khơng đun lại trước khi ăn,…
c) Do quá trình sử dụng và bảo quản khơng đúng
•
Dùng dụng cụ sành sứ, sắt tráng men, nhựa tái sinh … bị nhiễm chất chì để chứa
đựng thực phẩm.
• Để thức ăn qua đêm hoặc bày bán cả ngày ở nhiệt độ thường; thức ăn không được
đậy kỹ, để bụi bẩn, các loại côn trùng gặm nhấm, ruồi và các động vật khác tiếp
xúc gây ơ nhiễm.
• Do thực phẩm bảo quản không đủ độ lạnh hoặc khơng đủ độ nóng làm cho vi
khuẩn vẫn phát triển…
d) Cơng tác thanh tra, kiểm tra cịn hạn chế
Về chính sách pháp luật, đã có rất nhiều các văn bản quy định, hướng dẫn. Tuy có
rất nhiều văn bản, nhưng lại chồng chéo, không phân định rõ ràng trách nhiệm quản
lý giữa các bộ, ngành lại vừa thiếu sót, chưa phủ hết các lĩnh vực, có khoảng trống
giữa các khâu trong trách nhiệm quản lý liên tục một loại sản phẩm. Một số lĩnh vực
mới phát sinh (như thực phẩm chức năng, một số độc chất và vi chất) chưa được
hướng dẫn quản lý cụ thể, chi tiết nên địa phương rất khó thực hiện.
Bên cạnh đó, có những quy định không phù hợp với thực tế như hiện tuyến xã
khơng thể nào có đủ cán bộ chun mơn để thực hiện việc khám sức khỏe, thẩm định
cơ sở, cấp giấy phép theo quy định (thực tế cơ sở cũng chưa đủ điều kiện VSATTP để
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
21
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
xét cấp); việc quy định một đám tiệc có quy mơ trên 200 người thì do cấp huyện trở
lên cấp giấy, nhưng những lễ hội cấp xã, ấp thường trên 200 người mà cán bộ cấp
huyện khơng thể nào quản lý được, cịn cấp xã, ấp thì khơng có thẩm quyền quản lý;
những đám tiệc của các tổ chức xã hội, tôn giáo (nhà thờ, đình, chùa) khơng xin phép
mà cán bộ chun ngành cũng khơng thể có đủ số lượng để thanh tra, kiểm tra hết;
những thử nghiệm cho kết quả ngay (test nhanh) thì khơng đủ cơ sở pháp lý để xử
phạt và xử lý ngay, nhằm tránh ngộ độc thực phẩm xảy ra, cịn chờ kết quả chính
thức (thường dài ngày) thì thực phẩm đã được tiêu thụ hết; mức xử lý vi phạm cịn
chưa phù hợp với quy mơ của cơ sở và còn rất nhiều bất cập khác cần được điều
chỉnh, bổ sung hợp lý.
Về tổ chức bộ máy, chưa có một hệ thống tổ chức làm cơng tác VSATTP thống
nhất từ Trung ương đến địa phương, chưa có mạng lưới thanh tra chuyên ngành về
VSATTP. Tại Mỹ có Cơ quan Kiểm soát Thực phẩm và Dược phẩm (CDC), Trung Quốc
cũng có cơ quan tương tự. Cịn tại Việt Nam, hiện có tới 5 Bộ quản lý về VSATTP
gồm: Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học
và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND các cấp, dẫn đến một thực
trạng khơng có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính khi có vấn đề về VSATTP. Đối với
tuyến tỉnh, các tỉnh đã thành lập Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm trực thuộc Sở Y
tế, nhưng do văn bản hướng dẫn của trung ương không quy định thống nhất về biên
chế của chi cục, nên mỗi tỉnh có mơ hình tổ chức và số lượng biên chế khác nhau, mặc
dù khối lượng công tác giữa các tỉnh không khác nhau bao nhiêu. Cán bộ sang Chi
cục ATVSTP làm nhiệm vụ không được hưởng phụ cấp ưu đãi ngành. Cịn tuyến
huyện, xã vẫn chưa có quy định về tổ chức bộ máy và cán bộ chuyên trách trong khi
nội dung và khối lượng công tác trên lĩnh vực VSATTP là rất lớn, lại thực hiện chủ
yếu tại cơ sở. Đây là một nghịch lý ai cũng thấy rõ, nhưng vẫn chưa có biện pháp nào
để giải quyết phù hợp, triệt để. Về cơ sở làm việc và trang thiết bị kiểm nghiệm phục
vụ mảng công tác này được xem là khâu yếu nhất thì hiện vẫn cịn nhiều bất cập,
thậm chí tuyến tỉnh vẫn chưa có phịng xét nghiệm nào đủ chuẩn để cơng bố kết quả.
Vì vậy, những xét nghiệm cao cấp phải gửi về các cơ sở xét nghiệm tại thành phố Hồ
Chí Minh để xác định vớ chi phí khá cao, vừa tốn kém, lại vừa mất thời gian.
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
22
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
Nói như thế khơng có nghĩa là công tác bảo đảm chất lượng VSATTP của chúng
ta chỉ tồn là khó khăn và hạn chế. Tuy cịn rất nhiều khó khăn, hạn chế nhưng
chúng ta đã thực hiện rất nhiều các hoạt động, công tác nhằm bảo đảm chất lượng
VSATTP trong khả năng có được. Nhìn chung, chúng ta đã triển khai thực hiện tốt
những hoạt động cơ bản của công tác bảo đảm chất lượng VSATTP, đã đạt được
những kết quả khá tốt.
5) MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
a) Đối với những người trồng trọt, chăn nuôi, các nhà sản xuất, chế
biến, kinh doanh
Những người trồng trọt, chăn nuôi, các nhà sản xuất, chế biến, kinh doanh phải
tuân thủ các quy định về VSATTP trong sản xuất và lưu hành sản phẩm đúng theo
tiêu chuẩn chất lượng đã công bố hoặc đã được chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy.
Không được sử dụng hố chất phụ gia ngồi danh sách cho phép, ngun liệu, hóa
chất phụ gia khơng có nguồn gốc rõ ràng. Tăng cường hợp tác với đội ngũ các nhà
khoa học Việt Nam, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, xây dựng và triệt để tuân
thủ hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong sản xuất để tạo ra được sản phẩm
đảm bảo VSATTP có sức cạnh tranh mạnh, đáp ứng ngày càng cao an toàn cho người
tiêu dùng.
b)
Về phía người tiêu dùng:
Ở các nước phát triển, họ rất quan tâm đến chất lượng hàng hóa, đặc biệt chất
lượng thực phẩm, do đó tạo được sức ép rất lớn trên nhà sản xuất cũng như nhà
quản lý. Người tiêu dùng Việt Nam chắc chắn cũng có yêu cầu bức xúc về chất lượng
hàng hóa, tuy nhiên do cuộc sống nói chung cũng cịn khơng ít khó khăn cho nên yêu
cầu về chất lượng vẫn chưa đủ mạnh để có thể tạo sức ép hữu hiệu trên sản xuất
cũng như trên quản lý.
Thực tế là người tiêu dùng rất khó lựa chọn trước rất nhiều mặt hàng đa dạng,
phong phu ở chợ, siêu thị, tuy nhiên cần quan tâm đến :
-Thương hiệu
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
23
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
-Thời hạn sử dụng
- Các chỉ tiêu dinh dưỡng và chỉ tiêu liên quan đến VSATTP ghi trên nhãn hàng
Phải làm sao để chứng tỏ rằng người tiêu dùng là người quyết định chất lượng
sản xuất đúng theo nghĩa khách hàng là thượng đế.
c)
Về phía sản xuất:
Đối với các mặt hàng xuất khẩu, nhà sản xuất bắt buộc vừa phải tuân thủ
những quy định về chất lượng sản phẩm của nước sở tại, vừa được sự giám sát chặt
chẽ của cơ quan chức năng trong nước, do đó, nhìn chung, chất lượng nơng thủy sản,
thực phẩm hầu hết đạt yêu cầu. Đối với việc sản xuất cho tiêu dùng trong nước, sự
giám sát về mặt nhà nước ít khắt khe hơn, người sản xuất tự công bố chất lượng
mặt hàng, cho nên đạo đức trong sản xuất, phương châm vì sự an tồn cho người
tiêu dùng sẽ đóng vai trị chủ đạo trong quyết định chất lượng hàng hóa.Thực chất,
khơng ít nhà sản xuất chăm chút q nhiều đến lợi ích riêng của mình, chẳng cần
nghĩ đến hệ quả xấu do mặt hàng mình có thể gây ra cho cộng đồng. Để đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm nhà sản xuất cần:
- Tuân thủ các quy định về VSATTP trong sản xuất và lưu hành sản phẩm đúng
theo tiêu chuẩn chất lượng đa công bố hoặc đã được chứng nhận hợp chuẩn, hợp
quy.
- Không được sử dụng hố chất phụ gia ngồi danh sách cho phép, ngun liệu,
hố chất phụ gia khơng có nguồn gốc rõ ràng.
- Tuân thủ hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong sản xuất để tạo ra được
sản phẩm đảm bảo VSATTP có sức cạnh tranh mạnh, đáp ứng ngày càng cao an toàn
cho người tiêu dùng.
d) Về phía quản lý nhà nước:
- Trên cơ sở các luật, pháp lệnh, nghị định thi hành, chính phủ cần xem lại
phương thức tổ chức quản lý về mặt nhà nước để giảm bớt chồng chéo, ít nhiều ảnh
hưởng xấu đến hiệu quả đảm bảo chất lượng nông thủy sản thực phẩm xuất khẩu và
tiêu dùng trong nước.
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
24
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIM CHUNG
- Thường xuyên thông tin rộng rãi cho cả người sản xuất và người tiêu dùng
những vấn đề liên quan đến chất lượng nông thủy sản thực phẩm sản xuất và lưu
hành trong và ngoài nước.
- Có những biện pháp có hiệu quả buộc người sản xuất, người bán phải luôn
tuân thủ các quy định về chất lượng sản phẩm hàng hóa.
- Kiểm sốt chặt chẽ các loại thuốc thú y, hóa chất phu gia thực phẩm đang
được bày bán trên thị trường, tránh tình trạng người mua lẫn người bán đều không
hiểu bản chất và đặc trưng hoá chất sử dụng.
-Tăng cường nguồn lực: Nhân lực phải đủ số lượng, mạnh về chất lượng. Cơ sở
hoạt động, các phương tiện làm việc, trang thiết bị phải được tập trung đầu tư, tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động liên tục 24/24 (giống như trực cấp cứu trong
bệnh viện hoặc trực phòng chống dịch). Đầu tư nâng cao năng lực kiểm nghiệm của
các cơ sở tại địa phương. Nghiên cứu bố trí kinh phí đủ cho hoạt động và ngang tầm
với nhiệm vụ được giao. Quan tâm đến chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ thực
hiện nhiệm vụ bảo đảm chất lượng VSATTP.
- Đẩy mạnh hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ: Tăng cường tập huấn, đào tạo,
nâng cao trình độ cán bộ làm công tác bảo đảm chất lượng VSATTP. Đẩy mạnh công
tác truyền thông, giáo dục dục sức khỏe cho mọi người và xem đây là một trong
những giải pháp cơ bản, lâu dài. Tổ chức khám sức khỏe, thẩm định, cấp giấy chứng
nhận đủ điều kiện VSATTP cho các cơ sở. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý
nghiêm túc tất cả những trường hợp vi phạm. Tranh thủ hợp tác quốc tế là cực kỳ
cần thiết.
e) Đối với cơ quan truyền thông, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các
hội khoa học và kỹ thuật có liên quan
Thông qua nhiều hoạt động đa dạng và phong phú, nâng cao kiến thức cho
người tiêu dùng và cho cả người sản xuất, đặc biệt các kiến thức về chất lượng hàng
hóa, về VSATTP. Giúp cho người sản xuất luôn cải tiến chất lượng hàng sản xuất,
người buôn bán lẻ hiểu những ngun tắc giữ hàng hóa ln ln đảm bảo VSATTP.
Giúp người tiêu dùng biết cách chọn lựa hàng hóa. Phát huy vai trị tư vấn phản
biện, giám định xã hội trong lĩnh vực chuyên môn của các hội, hiệp hội.
SV: TRẦN NGUYÊN THIỆU
25