Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lí nhà nước ở huyện nông cống, tỉnh thanh hóa giai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.92 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________________

LÊ THANH TRIỀU

TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Ở HUYỆN NÔNG CỐNG, TỈNH THANH HÓA
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________________

LÊ THANH TRIỀU

TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Ở HUYỆN NÔNG CỐNG, TỈNH THANH HÓA
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60310201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS.GVCC ĐOÀN MINH DUỆ

Nghệ An, 2015


1
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn, tác giả đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trường Đại học Vinh, các
cơ quan, đơn vị và đồng nghiệp. Với tình cảm chân thành và kính trọng, tác giả
xin bày tỏa lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học; Khoa Giáo dục chính trị
Trường Đại học Vinh;
Quý thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ trong quá trình
học tập và nghiên cứu;
Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Nông Cống; cán bộ các phòng, ban
huyện Nông Cống, cùng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, ủng hộ, cung
cấp tài liệu, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình học tập và nghiên
cứu, tham gia đóng góp ý kiến quý báu cho việc triển khai thực hiện đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng song Luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của Quý
thầy, cô giáo và đồng nghiệp để Luận văn hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 9 năm 2015
Tác giả


2
MỤC LỤC

Trang
Năm.....................................................................................................................45
Bảng 2.6: Kết quả công tác Kế hoạch hóa gia đình huyện Nông Cống giai đoạn
2010 - 2014..........................................................................................................50
Kế hoạch.......................................................................................................50
C. KẾT LUẬN.....................................................................................................84


3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.

CNH, HĐH
QLNN
UBND
XHCN

:
:
:
:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Quản lý nhà nước
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa



4
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG
Trang
Năm.....................................................................................................................45
Bảng 2.6: Kết quả công tác Kế hoạch hóa gia đình huyện Nông Cống giai đoạn
2010 - 2014..........................................................................................................50
Kế hoạch.......................................................................................................50
C. KẾT LUẬN.....................................................................................................84


5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn chứng minh rằng vấn đề nâng cao hiệu lực của công tác quản lý
nhà nước ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực phải luôn đi đôi và gắn liền
với quá trình tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu, nắm vững bản
chất nền pháp chế xã hội chủ nghĩa là chìa khóa quan trọng giúp chúng ta có
những cơ sở lý luận vững chắc, khoa học để xây dựng một nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa dân chủ, tiến bộ, thực sự của dân, do dân, vì dân. Chính vì vậy,
việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác quản lý nhà nước là
một yêu cầu hết sức quan trọng vừa mang tính lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn
cấp bách, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Trải qua 85 năm lãnh đạo chính quyền, xây dựng đất nước, Đảng ta luôn
coi trọng việc xây dựng chính quyền nhà nước như một nhiệm vụ có ý nghĩa
sống còn đối với vận mệnh của dân tộc. Xuyên suốt quá trình cách mạng, Nhà
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn.
Ngay từ ngày đầu, nhà nước ta đã thể hiện bản chất tốt đẹp, luôn gắn bó máu thịt
và phục vụ trung thành lợi ích của dân tộc, nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, hoạt động của nhà nước ngày càng được xây dựng và hoàn thiện, nền

hành chính được cải cách tiến bộ hơn,… quyền làm chủ của nhân dân trên mọi
lĩnh vực được phát huy; một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện.
Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu,
đòi hỏi phải xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm cho nhà nước ta giữ vững bản chất cách
mạng, bản chất giai cấp công nhân, thực sự là công cụ chủ yếu để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân.


6
Nhận thức sâu sắc điều đó, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX
tiếp tục khẳng định: Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Đồng thời, Đảng khẳng định chủ trương
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Nhà nước là công cụ chủ yếu
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp; Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân, là vấn đề có tính quy luật khách quan. Nghiên cứu pháp chế xã
hội chủ nghĩa, để từ đó tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý
Nhà nước bằng pháp luật trên địa bàn huyện Nông Cống là một khâu quan trọng
trong hệ thống chính trị ở địa phương, là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn.
Là cán bộ đang công tác tại UBND huyện, trực tiếp tham gia chỉ đạo tổ
chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước trên địa bàn huyện Nông Cống, nhận thức được vai trò và tầm quan
trọng của vấn đề nên tôi đã chọn đề tài: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong quản lý nhà nước ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa giai
đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Chính trị học.

Về mảng đề tài này đã có nhiều sách, bài báo, công trình nghiên cứu
khoa học, luận văn, luận án liên quan đến vấn đề bản chất pháp chế xã hội chủ
nghĩa và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác quản lý nhà
nước. Có thể nói đây là mảng đề tài rộng lớn, thu hút sự quan tâm chú ý của
nhiều nhà khoa học. Đề tài được nghiên cứu trong giai đoạn các cấp, các ngành
đang thực hiện chủ trương của Đảng về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
nâng cao hiệu lực công tác quản lý nhà nước ở tất cả các cấp, các ngành nói
chung, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân với mục tiêu
tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp


7
luật của người dân nói chung, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định
tình hình chính tri, xã hội.
Liên quan đến nội dung đề tài đã có một số công trình nghiên cứu như:
Những vấn đề cơ bản về pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Bộ
Tư pháp - Vụ Phổ biến, Giáo dục pháp luật - NXB Công an Nhân dân); Bảo
đảm và tăng cường pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước (ThS Vũ Duy
Duẩn, Văn phòng Chính phủ, Tạp Chí Cộng Sản 8/2013); Bàn về pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Tiến sỹ Luật học Đỗ Ngọc Hải, Học viện Chính trị Hành chính khu vực I); Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của Hiến pháp trong đời
sống (Tạp chí Cộng Sản 1/1/2014); 10 năm hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt
Nam hướng phát triển (Bộ Tư pháp, Cục trợ giúp pháp lý); Bộ luật Lao động
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (NXB Lao động - Xã hội Hà Nội
2009); Ngoài ra còn một số văn bản của Đảng và Nhà nước, như: Chỉ Thị số 32CT/TW Ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hàng pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết định số 37/2008/QĐTTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt chương trình
phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008-2012; Quyết định số 31/2009/QĐTTg ngày 24/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Đề án tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong
các loại hình doanh nghiệp từ năm 2009-2012; "Tăng cường pháp chế xã hội

chủ nghĩa về kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trờng định hướng
pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ Luật học của
Quách Sĩ Hùng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; "Tăng cường
pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", Luận văn
thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2001; "Tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành


8
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Hà Nội"…
Dưới những giác độ khác nhau, các công trình nghiên cứu trên đã phân
tích bản chất pháp chế xã hội chủ nghĩa và vấn đề tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong quản lý nhà nước nói chung ở tầm vĩ mô. Tuy nhiên, cho đến
nay chúng tôi thấy vẫn chưa có những công trình nghiên cứu đi sâu phân tích,
điều tra khảo sát, tìm hiểu thực trạng vấn đề tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong công tác quản lý nhà nước để nâng cao hiệu quả của công tác này
trên địa bàn cụ thể của một địa phương từ cấp huyện trở xuống. Đặc biệt, việc
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước trên địa bàn
huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa từ trước đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu, do đó, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài đã nêu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm đề xuất một số giải pháp tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý
nhà nước ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Với mục đích nghiên cứu được xác định trên đây, luận văn hướng tới các
nhiệm vụ cơ bản như sau:
- Phân tính làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp chế xã hội chủ

nghĩa và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quan lý nhà nước
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
quản lý Nhà nước thời gian qua ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh
Hóa trong thời gian tới.


9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề pháp chế xã hội chủ nghĩa,
công tác quản lý nhà nước và các giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong công tác quản lý nhà nước.
3.2. Phạm vi
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong quản lý nhà nước trên địa bàn huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa
trong bối cảnh thời gian hiện tại và trong tương lai gần, cụ thể là giai đoạn
2015 - 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm đường lối, Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN trong quá trình
quản lý nhà nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản.
- Phương pháp thống kê.
5. Đóng góp mới của luận văn

Đề tài góp phần làm rõ lý luận về công tác tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong quản lý nhà nước, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua khảo sát, phân tích thực trạng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong quản lý nhà nước tại huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa phát hiện
những ưu điểm và những vấn đề tồn tại, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước giai đoạn hiện nay.


10
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý nói
chung và cán bộ quản lý tại huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn kết cấu thành 3 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong quản lý Nhà nước
Chương 2. Thực trang tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản
lý Nhà nước ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong quản lý nhà nước ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa giai
đoạn hiện nay


11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm pháp chế và pháp chế xã hội chủ nghĩa
1.1.1.1. Khái niệm pháp chế
Trong lịch sử xã hội loài người, nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội
không thể chỉ bằng đạo đức, tập quán, tổ chức, thuyết phục, tuyên truyền… mà
pháp luật bao giờ cũng được xác định là công cụ cơ bản nhất. Pháp luật là tổng
hợp những quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị, có tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Ngay từ khi ra đời, pháp luật đã trở thành phương tiện đặc biệt quan trọng
trong việc quản lý nhà nước và xã hội. Bởi vì pháp luật có 3 chức năng cơ bản
đó là: chức năng điều chỉnh; chức năng bảo vệ và chức năng giáo dục. Việc thực
hiện tốt ba chức năng của pháp luật nói trên tạo nên trật tự pháp luật, nhưng
pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực phải dựa trên cơ sở vững chắc của
pháp chế. Ở nước ta, vai trò của pháp luật đã được ghi nhận tại điều 12 Hiến
pháp 1992: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Pháp chế là một chế độ trong đó đời sống và
mọi hoạt động xã hội được đảm bảo bằng pháp luật” [26, tr.453].
Như vậy, pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật tương đối
hoàn thiện, đảm bảo cho việc thiết lập trật tự xã hội và quản lý nhà nước mà ở
đó đòi hỏi các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, các tổ chức tồn


12
tại trong xã hội và mọi công dân phải thực hiện pháp luật một cách thường
xuyên, nghiêm chỉnh và triệt để.
Pháp luật và pháp chế có mối quan hệ mật thiết tác động qua lại lẫn nhau.
Pháp chế thể hiện những đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải triệt để tuân
theo và chấp hành thường xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật và những văn bản
dưới luật. Pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực, điều chỉnh có hiệu quả

những quan hệ xã hội dựa trên cơ sở vững chắc của pháp chế. Ngược lại, pháp
chế chỉ có thể được củng cố, tăng cường khi có một hệ thống pháp luật đầy đủ,
đồng bộ, phù hợp với cơ sở kinh tế - xã hội.
Pháp chế cần được đề cao thành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Nó đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải
được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi công chức, viên chức,
người lao động và mọi công dân phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp
luật khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, mọi vi phạm pháp luật đều
phải xử lý nghiêm minh. Các tổ chức, chính trị, xã hội cũng có nghĩa vụ tuân thủ
pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế là cơ sở bảo đảm
cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, phát huy đầy đủ hiệu lực
của mình và bảo đảm công bằng xã hội, tính thống nhất của pháp chế, tính tối
thượng của Hiến pháp và luật.
1.1.1.2. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Khái niệm pháp chế XHCN có từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
V.I.Lênin là người đưa ra định nghĩa pháp chế và các nguyên tắc của nó đã làm
giàu thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật. Theo
Tiến sĩ Đỗ Ngọc Hải: “Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống
chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên nhà nước và mọi công dân đều
phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt


13
để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của
tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật” [16, tr.54].
Xuất phát từ ý nghĩa, mục đích và tầm quan trọng của pháp chế XHCN,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần đề cập trong các nghị quyết, chỉ rõ
phương hướng và biện pháp cần thiết để tăng cường pháp chế XHCN. Nghị
quyết Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: “Phải dùng sức mạnh của pháp chế

XHCN kết hợp với sức mạnh của dư luận quần chúng để đấu tranh chống những
hành vi phạm pháp. Các cấp ủy Đảng, từ trên xuống dưới phải thường xuyên
lãnh đạo công tác pháp chế... kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các cơ quan pháp
chế” [10, tr.121]. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Điều kiện quan
trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật
và ý thức pháp luật của nhân dân [11, tr.132]. Tại Đại hội VIII của Đảng, quan
điểm này được xác định: “Tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức [12, tr.45].
Như vậy, tăng cường pháp chế XHCN là một đòi hỏi khách quan của quá
trình quản lý và lãnh đạo. Nó trở thành nguyên tắc hiến định của xã hội ta được
quy định tại Điều 12, Hiến pháp 1992: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải chấp hành nghiêm chỉnh
Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi
phạm Hiến pháp và pháp luật” [18, tr.8]. Do đó, pháp chế XHCN là một khái
niệm rất quan trọng trong tổ chức của bộ máy nhà nước, trong hoạt động của
mỗi chủ thể, công dân. Kể từ Đại hội VI của Đảng đến nay, các nghị quyết của
Đảng thường xuyên, liên tục đề cập đến vấn đề này. Hiến pháp với tính chất là
đạo luật cao nhất của nhà nước đã thể chế hóa quan điểm nêu trên của Đảng,


14
càng chứng tỏ pháp chế XHCN rất cần thiết, không thể thiếu trong đời sống xã
hội nước ta.
Như vậy, pháp chế XHCN là chế độ pháp luật, trong đó đòi hỏi mọi cơ
quan, tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức quần chúng, tổ chức
kinh tế, các đơn vị lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức, viên chức và mọi
công dân phải chấp hành Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm chỉnh, thường

xuyên, liên tục, không có ngoại lệ.
- Một số nguyên tắc của pháp chế XHCN
Một là, pháp chế XHCN đảm bảo tính thống nhất. Nguyên tắc này gồm
hai nội dung: Thứ nhất là, tính thống nhất của pháp luật trên toàn bộ lãnh thổ
chủ nhà nước; thứ hai là, áp dụng thống nhất pháp luật, mặc dù tại mỗi địa
phương có sự khác nhau về trình độ phát triển nhưng việc áp dụng pháp luật
phải thống nhất trong phạm vi cả nước. V.I.Lênin viết: “Pháp chế không thể là
pháp chế của tỉnh Caluga hoặc tỉnh Ca-dan được mà phải là pháp chế duy nhất
cho toàn nước Nga và cho cả toàn thể Liên bang các nước cộng hòa Xô-viết
nữa" [28, tr.232]. Nguyên tắc pháp chế nhằm xóa bỏ tư tưởng cục bộ, địa
phương, làm cho các địa phương liên hệ, phát triển, hồi sinh, hợp tác. Quan
niệm thống nhất về các mệnh lệnh và đòi hỏi của pháp luật đóng vai trò quan
trọng trong việc đạt được tính thống nhất của pháp chế. V.I.Lênin đã chỉ ra sự
cần thiết phải áp dụng các biện pháp để thiết lập quan điểm thống nhất về pháp
chế. Tính thống nhất của pháp chế được thể hiện trong sự bình đẳng của tất cả
mọi người trước pháp luật. Trước pháp luật mọi người đều bình đẳng và đều
phải tuân theo. Bất kỳ sự vi phạm pháp luật nào đều không thoát khỏi trách
nhiệm pháp lý
Hai là, pháp chế XHCN đảm bảo tính hợp lý. Trong môi trường pháp luật,
tính hợp lý được biểu hiện là sự phù hợp với luật, đối với các mục đích đặt ra,
các chủ thể lựa chọn phương án tối ưu về việc thực hiện pháp luật. Cơ sở của
tính hợp lý của pháp luật là sự phản ánh đúng đắn trong pháp luật các đòi hỏi


15
của sự phát triển xã hội. Nếu pháp luật quy định đúng đắn ý chí của đông đảo
quần chúng nhân dân lao động, các giá trị xã hội, thì chắc chắn pháp luật là hợp
lý. Khi nhấn mạnh giá trị của pháp luật cần phải chú ý đến việc tính toán nhân tố
hợp lý trong hoạt động áp dụng pháp luật. Pháp chế xã hội chủ nghĩa không phủ
nhận mà cho phép tính toán đến điều đó. Tính hợp lý trong khi áp dụng một quy

phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật chính là hành vi hướng đến để đạt mục
đích của quy phạm pháp luật đó trong một hoàn cảnh cụ thể. Giữa pháp chế và
tính hợp lý có mối liên hệ chặt chẽ vì pháp luật XHCN thể chế hóa đường lối
của Đảng và ý chí của đại đa số nhân dân lao động. Bởi vậy, các quy phạm pháp
luật mang tính công bằng và hợp lý. Chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền
mới có quyền sửa đổi các quy phạm pháp luật đó.
Ba là, pháp chế XHCN không có ngoại lệ. Nội dung của nguyên tắc này là
khi pháp luật đã ban hành, ai cũng phải thực hiện, nếu vi phạm pháp luật đều
phải bị xử lý theo pháp luật. V.I.Lênin viết: “Tính nghiêm minh của pháp luật
hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng, mà ở chỗ phạm tội thì
không thoát khỏi bị trừng phạt” [28, tr.233]. Tính tối cao của luật trong hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật bắt nguồn từ chỗ các đạo luật phản ánh ý chí và
chủ quyền của toàn thể nhân dân, điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản, quan
trọng và ổn định của Nhà nước. Tất cả các văn bản khác đều được xây dựng và
thi hành trên cơ sở các đạo luật. Do đòi hỏi này, các đạo luật, trước hết là Hiến
pháp trở thành cơ sở pháp lý mà nhờ đó hình thành hệ thống thống nhất các văn
bản quy phạm pháp luật trong cả nước. Tính thứ bậc của các văn bản quy phạm
pháp luật và hiệu lực pháp lý của nó trước các văn bản khác của cơ quan nhà
nước khác nhau, đảm bảo cho tính thống nhất của pháp chế trong việc xây dựng
và thực hiện pháp luật.
Bốn là, pháp chế XHCN gắn liền với dân chủ. Dưới chế độ dân chủ, pháp
luật thừa nhận mọi công dân đều có quyền bình đẳng trong việc tham gia quản
lý và tham gia công việc nhà nước. Chủ nghĩa xã hội và dân chủ gắn bó với


16
nhau. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân chủ, tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội là ở đó. Chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân
chủ và dân chủ không thể thực hiện được đầy đủ, mở rộng nếu không thể hiện
bằng hệ thống pháp luật XHCN. V.I.Lênin viết: “phát triển dân chủ đến cùng,

tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thử nghiệm những hình thức ấy
trong thực tiễn" [29, tr.97]. Dân chủ là chế độ chính trị của nhà nước XHCN với
sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân lao động vào công việc nhà
nước. Dân chủ có mối quan hệ không tách rời với pháp chế XHCN. Không thể
có dân chủ chân chính bên ngoài pháp chế XHCN. Ngược lại, trạng thái pháp
chế lại phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện dân chủ XHCN trong đời sống nhà
nước và xã hội. Dân chủ là một trong những tiền đề bảo đảm của pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Năm là, pháp chế XHCN đảm bảo mối quan hệ với văn hoá. V.I.Lênin coi
đây là điều kiện quan trọng để thực hiện pháp chế XHCN. Người viết: “Nếu
chúng ta không áp dụng cho bằng được điều kiện cơ bản ấy để thiết lập pháp chế
thống nhất trong toàn Liên bang, thì không thể nào nói đến vấn đề bảo vệ và xây
dựng bất cứ một nền văn hoá nào được” [29, tr.233]. Trình độ văn hoá của nhân
dân lao động và những cá nhân có trách nhiệm càng cao thì việc thực hiện pháp
luật càng tự giác và thống nhất, ngược lại, sự tăng cường pháp chế lại mở ra khả
năng lớn để phát triển văn hoá XHCN.
1.1.2. Khái niệm quản lý và quản lý nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm quản lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin “Bất kỳ lao động xã hội trực
tiếp hay lao động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương
đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt
động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động của các cơ quan
độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc
phải có nhạc trưởng” [5, tr.23].


17
Có thể hiểu quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý, để chỉ
huy điều khiển hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con

người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với qui luật
khách quan.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là
khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [23, tr.63].
Nhìn chung, nói đến quản lý là nói đến các hoạt động được thực hiện
nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của người khác, là
công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác
nhau cùng chung một tổ chức. Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
Chức năng quản lý:
Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý đặc biệt, thông qua đó
chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu
nhất định. Chức năng quản lý gắn liền với sự phân công và hợp tác lao động
trong quá trình lao động. Quản lý có 4 chức năng chủ yếu, cơ bản có liên quan
mật thiết với nhau: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Cụ thể như sau:
Chức năng kế hoạch:
- Đây là quá trình xác định các mục tiêu phát triển giáo dục và quy định
những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu.
Khi tiến hành chức năng kế hoạch, người quản lý cần hoàn thành được hai
nhiệm vụ là xác định đúng những mục tiêu cần để phát triển giáo dục và quy
định những biện pháp có tính khả thi (phù hợp với quan điểm, đường lối theo
từng giai đoạn phát triển của đất nước).
- Trong quá trình quản lý, chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên, nó
có vai trò định hướng cho toàn bộ các hoạt động, là cơ sở để huy động tối đa các
nguồn lực cho việc thực hiện các mục tiêu và là căn cứ cho việc kiểm tra quá


18
trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức đơn vị và từng cá nhân của quá

trình quản lý.
Chức năng tổ chức:
- Đây là quá trình tổ chức và sắp xếp nguồn nhân lực theo những cách
thức nhất định để đảm bảo việc thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra.
- Chức năng tổ chức là chức năng thứ hai trong quá trình quản lý, nó có
vai trò thực hiện hóa các mục tiêu của tổ chức và đặc biệt là chức năng tổ chức;
có khả năng tạo ra sức mạnh mới của tổ chức, cơ quan, đơn vị, thậm chí của cả
hệ thống nếu việc phân phối sắp xếp nguồn nhân lực khoa học hợp lý. Sức mạnh
mới của tổ chức có thể mạnh hơn nhiều lần so với khả năng vốn có của nó nên
người ta còn nhấn mạnh vai trò này bằng tên gọi “hiệu ứng tổ chức”.
Chức năng chỉ đạo:
- Là quá trình tác động ảnh hưởng tới hành vi thái độ của những người
khác nhằm đạt tới các mục tiêu với chất lượng cao.
- Là chức năng thứ ba trong một quá trình quản lý, nó có vai trò cùng với
chức năng tổ chức để hiện thực hóa các mục tiêu. Chức năng chỉ đạo được xác
định từ việc điều hành và hướng dẫn các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu
có chất lượng và hiệu quả. Do vậy, chức năng chỉ đạo là cơ sở để phát huy các
động lực cho việc thực hiện các mục tiêu quản lý và góp phần tạo nên chất
lượng và hiệu quả cao của các hoạt động.
Chức năng kiểm tra:
- Là quá trình đánh giá và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho các hoạt động
đạt tới mục tiêu của tổ chức.
- Là chức năng cuối cùng của một chu trình quản lý, có vai trò giúp cho
chủ thể quản lý biết được mọi người thực hiện các nhiệm vụ ở mức độ như thế
nào, tốt, vừa, xấu, đồng thời cũng biết được những quyết định quản lý ban hành
có phù hợp với thực tế hay không, trên cơ sở đó điều chỉnh các hoạt động, giúp
đỡ hay thúc đẩy các cá nhân, tập thể đạt được các mục tiêu đề ra.


19

Như vậy, chức năng kiểm tra thể hiện rõ vai trò cung cấp thông tin và trợ
giúp các cá nhân và đơn vị hoàn thành nhiệm vụ theo mục tiêu và kế hoạch đã
xác định.
Do đó, hoạt động quản lý là quá trình hoạt động để đạt được mục tiêu của
tổ chức bằng việc thực hiện các chức năng quản lý: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo
và kiểm tra. Quá trình này diễn ra trình tự theo một vòng khép kín được gọi là
chu trình quản lý. Để thực hiện có hiệu quả chu trình quản lý thì vai trò của
thông tin chiếm một vị trí rất quan trọng, bởi quản lý gắn liền với thông tin và
thực chất của quản lý là quá trình thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin, nó là
phương tiện không thể thiếu trong quá trình hoạt động của quản lý. Mối quan hệ
giữa các chức năng quản lý và vai trò của thông tin trong hoạt động quản lý thể
hiện bằng sơ đồ 1.1.
Sơ đồ 1.1. Chu trình quản lý
Kế hoạch

Kiểm tra,
đánh giá

Thông tin

Tổ chức

Chỉ đạo
1.1.2.2. Khái niệm quản lý nhà nước
Nói đến quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm
thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong công cuộc xây dựng



20
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Quản lý nhà nước được
hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà
nước, được sửa dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong
quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt.
Quản lý nhà nước được đề cập trong đề tài này là khái niệm quản lý nhà
nước theo nghĩa rộng; quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban
hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp
hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản lý
cần thiết của Nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu và trước hết được
thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà
nước uỷ quyền, trao quyền thực hiện chức năng của nhà nước theo quy định
của pháp luật.
* Đặc điểm quản lý nhà nước
Từ khái niệm trên về quản lý nhà nước ta rút ra các đặc điểm của quản lý
nhà nước như sau:
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính
mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Quản lý nhà nước được thiết lập trên cơ
sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”.
Quản lý nhà nước mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức ở đây được
hiểu như một khoa học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa con người với
con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tính điều chỉnh được hiểu là


21

nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị quản lý phải thực
hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự cân bằng trong xã hội.
Quản lý nhà nước mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc trưng này đỏi
hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình lên đối tượng quản lý
phải có một chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế hoạch được vạch
ra từ trước trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.
Quản lý nhà nước là những tác động mang tính liên tục và ổn định lên các
quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội. Cùng với sự vận động biến đổi
của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra thường xuyên,
liên tục, không bị gián đoạn. Các quyết định của nhà nước phải có tính ổn định,
không được thay đổi quá nhanh. Việc ổn định của các quyết định của nhà nước
giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện toàn hoạt động của mình và hệ
thống hành vi xã hội được ổn định.
1.2. Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
công tác quản lý nhà nước
1.2.1. Pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo tính ổn định và minh bạch
của pháp luật
Hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, pháp luật về mỗi ngành, lĩnh vực là
cơ sở thiết lập môi trường pháp luật, tạo ra vùng tự do cho các hành vi pháp lý.
Mỗi hệ thống pháp luật, mỗi đạo luật là sự thiết lập các giá trị xã hội, các chuẩn
mực ứng xử chung áp dụng cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ xã hội
được pháp luật điều chỉnh. Môi trường pháp lý, các giá trị xã hội, các chuẩn mực
ứng xử tạo ra những giới hạn hành động cho các chủ thể.
Tính ổn định của pháp luật với nghĩa là các quy định của nó được khái
quát đủ thiết lập một không gian và thời gian hành động cho các chủ thể. Theo
đó, mỗi chủ thể được định hướng hành vi, định hướng và nhận dạng các giá trị
xã hội, các chuẩn mực ứng xử khi tham gia vào quan hệ pháp luật cụ thể. Tính
minh bạch của pháp luật với nghĩa nó phải được tuyên ngôn chính thức, rõ ràng



22
và đến với xã hội; phải là sự quy định phân minh, rõ ràng, công khai về quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể; là sự xác định rõ, dứt khoát về các chế tài bảo đảm
thực thi pháp luật.
Tính ổn định và minh bạch của pháp luật là sự bảo đảm cho công dân có
thể chủ động, tính cực tham gia vào các quan hệ pháp luật và kiểm soát được
hoạt động của bộ máy công quyền thông qua những quy trình, thủ tục xác định;
là sự bảo đảm cho các chủ thể dự báo trước các hành vi pháp lý, có thể tránh
được những tranh chấp, xung đột, tạo nên niềm tin đối với quản lý nhà nước.
Trong nhà nước pháp quyền, minh bạch và ổn định pháp luật phải được thể hiện
trong cả quá trình lập pháp và hành pháp.
1.2.2. Pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo yếu tố kỹ thuật pháp lý
Bảo đảm kỹ thuật pháp lý là một trong những yếu tố quan trọng trong xây
dựng, hoàn thiện pháp luật. Chất lượng và hiệu quả pháp luật phụ thuộc rất
nhiều vào kỹ thuật pháp lý. Hơn nữa, trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay,
yêu cầu về kỹ thuật pháp lý cần phải được coi trọng và xác định được nội dung
cụ thể để vận dụng vào quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và
từng bước hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật. Để bảo đảm kỹ
thuật pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật, cần chú trọng các nội
dung sau:
- Xác định quy trình chuẩn mực, tối ưu, là cơ sở cho quá trình xây dựng
pháp luật. Chẳng hạn, việc soạn thảo dự án luật phải bắt đầu từ việc khảo sát,
điều tra ban đầu đến đánh giá, tổng kết, phân tích kết quả; từ dự thảo đến hoàn
chỉnh, thẩm tra và thông qua.
- Lựa chọn cơ cấu thể hiện quy phạm và khả năng sử dụng đúng, chính
xác quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội. Để điều chỉnh các quan hệ
xã hội mạng lại hiệu quả, đảm bảo đúng định hướng của giai cấp, thì việc soạn
thảo văn bản luật cần phải lựa chọn cơ cấu thể hiện quy phạm cho phù hợp, sử
dụng đúng, chính xác các quy phạm luật dảm bảo tính khả thi của văn bản luật.



23
- Bảo đảm tính cân đối, thống nhất và xác lập mối liên hệ giữa các văn
bản pháp luật trong cùng một hệ thống; giữa các chế định trong cùng một đạo
luật hoặc giữa các quy phạm trong mỗi chế định. Diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu và
đơn nghĩa là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong kỹ thuật pháp lý.
- Bảo đảm tính cụ thể, giảm tối đa việc diễn đạt qua yếu tố trung gian
hoặc qua nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Để văn bản luật áp dụng khả thi
hiệu quả, thì văn bản luật phải cụ thể, không đa nghĩa, nghĩa cần phải rõ ràng, cụ
thể, dễ hiểu. Việc diễn đạt văn bản luật phải qua nhiều văn bản trung gian, qua
hiều loại văn bản hướng dẫn sẽ rất khó khăn cho người áp dụng; có thể dẫn đến
việc áp dụng văn bản luật không chuẩn, không chính xác vì không tìm, không
biết hết, không thực hiện đủ các hướng dẫn trung gian.
- Bảo đảm tính ổn định, hệ thống các khái niệm rõ ràng, chính xác, phù
hợp với phạm vi điều chỉnh. Tính ổn định của văn bản luật và hệ thống khái
niệm cơ bản phải trên nền tảng cơ sở lý luận của giai cấp cầm quyền và cần phải
rõ ràng, chính xác phù hợp với đối tượng, phạm vi tác động của văn bản luật.
1.2.3. Pháp chế xã hội chủ nghĩa góp phần đảm bảo ý thức chấp hành
pháp luật
Pháp luật là cơ sở của pháp chế, để có pháp chế đòi hỏi phải có một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng thời phải có sự tự giác thực hiện pháp luật của
các chủ thể pháp luật, một bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả trong việc
bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh. Pháp chế đòi
hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Ý thức
pháp luật bao hàm nhận thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của các
chủ thể trong xã hội. Vì vậy, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong
cán bộ, nhân dân có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp luật.



×