Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Tín dụng đối với hộ nghèo của ngân hàng chính sách xã hội (lấy ví dụ tại phòng giao dịch ngân hàng chính sách xã hội huyện yên thành, tỉnh nghệ an)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.37 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

THÁI ĐÌNH XUÂN

TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO CỦA
NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
(LẤY VÍ DỤ TẠI PHÒNG GIAO DỊCH NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN)

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31.01.02

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS ĐINH TRUNG THÀNH

Nghệ An, 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu, Quí thầy, cô
giáo của Trường Đại học Vinh, Phòng Đào tạo sau Đại học, Hội đồng khoa
học khoa Kinh tế trường Đại học Vinh đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học và hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Đinh Trung Thành
người đã tận tình hướng dẫn, dìu dắt tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng chân thành cảm ơn sự quan tâm tạo điều kiện của gia đình,
sự giúp đỡ có hiệu quả của các anh chị đang công tác tại Phòng giao dịch
Ngân hàng chính sách xã hội huyện Yên Thành trong suốt quá trình học tập


và viết Luận văn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Thái Đình Xuân


MỤC LỤC
Phải khẳng định rằng không có định nghĩa duy nhất về đói, nghèo. Đói
nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn
chế đến tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít
có khả năng tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa
nhận định nghĩa chung về đói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái
Lan tháng 9/1993: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoã mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu
cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã
hội và phong tục, tập quán của địa phương’’...........................................15
BẢNG QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT
ADB:

Ngân hàng châu Á

CT- XH:

Chính trị và xã hội.

HĐQT:

Hội đồng quản trị.


GQVL:

Giải quyết việc làm.

HSSV:

Học sinh sinh viên.

LĐTB&XH:

Lao động thương binh và xã hội.

NHNN:

Ngân hàng Nhà nước.

NHNo&PTNT:

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.

NHCSXH:

Ngân hàng Chính sách xã hội.

NS&VSMT:

Nước sạch và vệ sinh môi trường.

PGD:


Phòng giao dịch.

SXKD:

Sản xuất kinh doanh.

TT&VV:

Tiết kiệm và vay vốn.

UBND:

Ủy ban nhân dân.

VKK:

Vùng khó khăn.


XĐGN:

Xóa đói giảm nghèo.

XKLĐ:

Xuất khẩu lao động.

4



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Phải khẳng định rằng không có định nghĩa duy nhất về đói, nghèo. Đói
nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn
chế đến tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít
có khả năng tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa
nhận định nghĩa chung về đói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái
Lan tháng 9/1993: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoã mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu
cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã
hội và phong tục, tập quán của địa phương’’...........................................15


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng
cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các nhóm dân
tộc, khu dân cư. Sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta tăng trưởng
nhanh, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, an ninh, chính trị được
giữ vững và ổn định. Lĩnh vực xóa đói giảm nghèo cũng đạt được nhiều
thành tích, nổi bật là Việt Nam đã thực hiện tốt Mục tiêu Thiên niên kỷ về
xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu cụ thể và được đánh giá cao.
Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển cũng đang bộc lộ rõ nét, khoảng
cách giàu nghèo ngày càng tăng, một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt
dân cư ở vùng sâu, vùng xa vẫn đang chịu cảnh nghèo đói. Có nhiều
nguyên nhân dẫn tới đói nghèo, trong đó có một nguyên nhân quan trọng là
thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định tín dụng ngân hàng là một mắt xích không thể thiếu trong hệ thống các

chính sách phát triển kinh tế - xã hội, XĐGN của Việt Nam. Xuất phát từ
những yêu cầu trên, từ năm 1996 Chính phủ đã thành lập Ngân hàng phục
vụ người nghèo với cơ cấu tổ chức nằm trong Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn và đến năm 2003 tách ra thành lập Ngân hàng chính
sách xã hội, với mục tiêu chủ yếu là cho vay ưu đãi hộ nghèo và các đối
tượng chính sách. Sau hơn 10 năm đi vào hoạt động, đã có trên 21,4 triệu
lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn từ

6


NHCSXH, góp phần giúp trên 2,9 triệu hộ nghèo vượt qua ngưỡng nghèo
và góp phần to lớn trong công cuộc XĐGN.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình cho vay hộ nghèo thời
gian qua trên phạm vi cả nước, cả tỉnh Nghệ An nói chung và huyện Yên
Thành nói riêng còn không ít hạn chế như: vẫn xảy ra tình trạng cho vay
không đúng đối tượng; mức vốn vay, thời hạn cho vay chưa phù hợp với
từng đối tượng, từng mục đích; quy mô tín dụng còn thấp; mô hình hoạt
động của các tổ tiết kiệm và vay vốn bộc lộ nhiều hạn chế… dẫn đến hiệu
quả sử dụng vốn vay thấp.
Để nâng cao hiệu quả cho vay hộ nghèo tại PGD NHCSXH huyện
Yên Thành tỉnh Nghệ An, trước hết cần hoàn thiện mạng lưới hoạt động,
đẩy mạnh tín dụng ủy thác qua các tổ chức chính trị - xã hội, gắn công tác
cho vay vốn và dịch vụ sau đầu tư, tiếp đó là đẩy mạnh cho vay theo dự án,
năng suất đầu tư cho hộ nghèo lên mức tối đa.
Vì vậy, làm thế nào nguồn vốn ưu đãi đến được tay người nghèo đúng
đối tượng và sử dụng có hiệu quả vốn vay vừa bảo đảm cho sự phát triển
bền vững của nguồn vốn tín dụng, vừa giúp người nghèo thoát khỏi cảnh
nghèo đói và vươn lên trở thành hộ khá, giàu là một vấn đề được cả xã hội
quan tâm. Với những lý do nêu trên, tôi đã chọn vấn đề “Tín dụng đối với

hộ nghèo của Ngân hàng Chính sách xã hội (Lấy ví dụ tại Phòng giao
dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An)”
làm đề tài luận văn Thạc sỹ khoa học Kinh tế.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đói nghèo và vai trò của chính sách xã hội đối với công tác xóa
đói giảm nghèo đã được đề cập nhiều. Chúng tôi xin phép lược khảo một số
công trình tiêu biểu:
a. Các công trình nghiên cứu về xóa đói, giảm nghèo
Cuốn sách "Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam" của Lê
Xuân Bá với các cộng sự, xuất bản năm 2001, đã đi sâu tìm hiểu và khái
7


quát những vấn đề lý luận về nghèo đói ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, tìm
hiểu nguyên nhân đói nghèo và đưa ra quan điểm, giải pháp giúp công cuộc
xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam ngày càng bền vững.
Bộ Phát triển Quốc tế Anh với nghiên cứu "Cung cấp giáo dục cơ bản
có chất lượng cho mọi người" năm 2002, đã đi sâu tìm hiểu về vấn đề giáo
dục, đặc biệt là chính sách giáo dục cho người nghèo.
Cũng trong năm 2002, Ngân hàng Phát triển Châu Á và Tổ chức Y tế
Thế giới với nghiên cứu "Cải thiện tình trạng sức khỏe và giảm bớt bất
bình đẳng", đã tiến hành khảo sát tình hình của người dân trong việc tiếp
cận dịch vụ y tế, đặc biệt là y tế cho người nghèo.
Năm 2003, WB đã tiến hành nghiên cứu xóa đói giảm nghèo trên
phạm vi rộng hơn, đó là phạm vi cả nước, với cuốn "Nghèo". Nghiên cứu
đã chỉ ra người nghèo là ai, và vì sao họ lại nghèo, chính sách công hiện
nay giành cho người người nghèo điển hình như:
Nghiên cứu "Đánh giá cuối kỳ Chương trình mục tiêu giải quyết về
xóa đói giảm nghèo và chương trình 135- I" của Bộ Lao động, Thương

binh và Xã hội và UNDP năm 2004, đã tiến hành khảo sát quá trình thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia - giảm nghèo và Chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn I (Gọi tắt là
chương trình 135 - I) tại các xã đặc biệt khó khăn. Qua đó, đã đưa ra một số
quan điểm, định hướng cho chương trình xóa đói giảm nghèo trong tương lai
và cải thiện chương trình mục tiêu quốc gia - giảm nghèo.
Nghiên cứu "Đánh giá tiếp cận của người dân với quỹ 139 tại ba tỉnh
Yên Bái, Ninh Thuận và Đồng Tháp" và "Phân tích thực trạng chi phí
trong điều trị nội trú của bệnh nhân nghèo 139 tại ba bệnh viện U Bưới,
Phi, Phụ sản Trung ương", của Trần Tuấn và các cộng sự năm 2005, đã
tiến hành khảo sát các chi phí khám, chữa bệnh của bệnh nhân và tìm hiểu các
chính sách giành cho người nghèo.
8


Luận án "Quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của
Đảng và nhà nước trong cộng đồng người Khmer tại đồng bằng sông Cửu
Long 1992 - 2002" của Nguyễn Hoàng Sơn năm 2007, đã tiến hành phân
tích các đặc điểm đời sống kinh tế - xã hội và các nhân tố ảnh hưởng đến
nghèo đói trong cộng đồng người Khmer thuộc khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, chính sách của các thế lực thống trị đối với người Khmer đồng
bằng sông Cửu Long trước năm 1975.
"Báo cáo phân tích điều tra cơ bản chương trình 135 - II" của Ủy ban
Dân tộc năm 2008, đã tiến hành tìm hiểu những điều kiện sinh hoạt về ăn,
ở, mặc, cũng như về phong tục tập quán của những người dân tộc thiểu số
ở Việt Nam.
Các bài tham luận trong Hội thảo khoa học "Cơ hội và thách thức đối
với vùng dân tộc thiểu số khi Việt Nam gia nhập WTO" được Viện Dân tộc
tập hợp và xuất bản thành cuốn sách "Cơ hội, thách thức đối với vùng dân
tộc thiểu số hiện nay" xuất bản năm 2009.

Nghiên cứu "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo đối
với đời sống Kinh tế- xã hội của người Mường tỉnh Phú Thọ" của Nguyễn
Anh Dũng năm 2009, đã tiến hành tìm hiểu thực trạng người Mường tỉnh
Phú Thọ trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ của chương trình mục tiêu quốc
gia về xóa đói, giảm nghèo.
Luận án "Hoàn thiện các chính sách xóa đói giảm nghèo chủ yếu của
Việt Nam đến năm 2015" của Nguyễn Thị Hoa năm 2009, đã đi sâu phân
tích cơ sở khoa học hoàn thiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam,
quan niệm đói nghèo và vai trò của chính phủ trong xóa đói giảm nghèo,
phân loại chính sách xóa đói giảm nghèo, đánh giá chính sách xóa đói giảm
nghèo.
Nghiên cứu về "Nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Thực trạng và thách thức tại các xã đặc biệt khó khăn thuộc chương trình
135-II" của Phạm Thái Hưng và các cộng sự năm 2010, đã tập trung tìm
9


hiểu về đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, chỉ ra những khó khăn,
thiếu thốn về y tế, giáo dục...
Cuốn "Cẩm nang về chính sách và quản lý chương trình giảm nghèo"
năm 2013 của tập thể tác giả: PGS. TS. Đào Thị Ngọc Minh, Ths. Nguyễn
Ngọc Hà, Ths. Đinh Quang Thành, Ths. Nguyễn Văn Tùng, Ths. Nguyễn
Thị Hoàng Nhung, Ths. Hoàng Hải, Ths. Hồng Thị Minh, Ths. Vũ Văn
Nam xuất bản năm 2013.
b. Các công trình nghiên cứu về vai trò của chính sách xã hội trong
quá trình xóa đói, giảm nghèo
Tác giả Bùi Hoàng Anh (2000), đã có bài viết “Tín dụng Ngân hàng
phục vụ đối tượng chính sách và các chương trình kinh tế của Chính phủ:
Những tồn tại và kiến nghị tháo gỡ”, Tạp chí Ngân hàng.
Tác giả Lê Thanh Tâm (2008), với luận án đề tài Phát triển các tổ

chức tài chính nông thôn Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh
tế Quốc dân, Hà Nội. Đề tài đã phân tích rất sâu sự tác động của các tổ
chức tài chính đối với nông thôn Việt Nam, đặc biệt là Ngân hàng chính
sách xã hội.
Hoặc là hàng loạt công trình khác như Nguyễn Anh Tuấn (2011) với
công trình Cho vay hỗ trợ người nghèo tại tỉnh Tiền Giang thực trạng và
giải pháp, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh; Nguyễn Văn Châu (2009) với công trình Ảnh hưởng tín dụng ưu đãi
Ngân hàng chính sách xã hội đến giảm tỷ lệ hộ nghèo tại huyện Vị Xuyên
tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Đại học Thái Nguyên và Ngô Thị
Huyền (2008) với Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo của
Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện
Ngân hàng, Hà Nội.
Ở một góc độ khác khi nghiên cứu đề tài tác giả cũng tiếp cận nhiều
văn bản, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên cũng như những báo cáo tổng kết
của Ngân hàng chính sách xã hội huyện Yên Thành. Ví dụ: Chính phủ
10


nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định 78/2002/NĐ-CP về
tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Hà Nội;
Quyết định 2947/QĐ-UBND ngày 29 tháng 6 năm 2011 của UBND tỉnh
Nghệ An Về việc Ban hành chương trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh Nghệ
An gia đoạn 2011- 2015 hoặc Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động Ngân
hàng CSXH huyện Yên Thành, giai đoạn 2003-2013; Báo cáo tổng kết 10
năm hoạt động Ngân hàng CSXH tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2003- 2013.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về mảng vấn đề này đã giải
quyết được một số nội dung sau:
Giới thuyết về đói nghèo cũng như đưa ra các tiêu chí hội đói nghèo.
Đã nêu lên được một số quan điểm về vai trò của các tổ chức tín

dụng nói chung và ngân hàng chính sách xã hội nói riêng trong quá trình
giúp dân xóa đói, giảm nghèo, vươn lên khá giả
Kết quả chủ yếu của các công trình trên và một số vấn đề đặt ra cần
được nghiên cứu tiếp Các công trình trên đã đề cập đến các khía cạnh khác
nhau của vấn đề tín dụng đối với hộ nghèo; trong đó tập trung làm rõ vai
trò, sự cần thiết, hay tác động của tín dụng NHCSXH đối với xóa đói giảm
nghèo; phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng hộ nghèo của NHCSXH, kể
cả ở cấp Trung ương và các địa phương. Các công trình cũng đã cố gắng
xoáy quanh vấn đề tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo. Đó là nguồn tài liệu quý
báu để chúng tôi kế thừa và phát triển. Tuy nhiên, vấn đề hoạt động tín
dụng đối với hộ nghèo Phòng Giao dịch Yên Thành của Ngân hàng Chính
sách xã hội tỉnh Nghệ An thì cho đến nay vẫn còn là khoảng trống, nhất là
với tư cách một luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích
Nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá đúng thực trạng để xây dựng đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của
11


Ngân hàng Chính sách xã hội tại phòng Giao dịch huyện Yên Thành, tỉnh
Nghệ An

3.2 Nhiệm vụ
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đói nghèo, tín dụng đối
với hộ nghèo Ngân hàng chính sách xã hội.
- Phân tích đánh giá thực trạng và hiệu quả của tín dụng đối với người
nghèo tại PGD NHCSXH huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ

nghèo tại PGD NHCSXH huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện
nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cho vay hộ nghèo tại PGD
NHCSXH huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An từ năm 2010 đến 2014.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước ta về phát triển kinh tế xã hội nói chung, xóa đói,
giảm nghèo nói riêng; đồng thời kế thừa các vấn đề lý luận chuyên môn
trong hoạt động của chuyên ngành Ngân hàng để áp dụng vào hoàn cảnh cụ
thể tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng
các phương pháp như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy
vật lịch sử, phương pháp điều tra, thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp...
đồng thời quán triệt vận dụng đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà
12


nước qua các thời kỳ để làm rõ các vấn đề mà luận văn đề cập.
6. Những đóng góp của đề tài
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho học viên cao học, sinh
viên ngành kinh tế.
Cung cấp một số giải pháp giúp cho Ban Giám đốc PGD Ngân hàng
chính sách xã hội huyện Yên Thành, Nghệ An trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với hộ nghèo
Chương 2: Thực trạng tín dụng ngân hàng chính sách xã hội đối với
hộ nghèo ở huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tín
dụng ngân hàng chính sách xã hội đối với hộ nghèo ở huyện Yên Thành,
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay

13


B. NỘI DUNG
Chương 1
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
VÀ VAI TRÒ ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
1.1. Một số vấn đề cơ bản về hộ nghèo
1.1.1. Hộ nghèo
1.1.1.1. Khái niệm về đói nghèo
Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ và
số lượng, thay đổi theo thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có
mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy, để
nhìn nhận và đánh giá được tình trạng đói nghèo của một quốc gia, một
vùng và nhận dạng được hộ đói nghèo, để từ đó có giải pháp phù hợp để
XĐGN, đòi hỏi chúng ta phải có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí
để đánh giá đói nghèo tại từng thời điểm.

14


Phải khẳng định rằng không có định nghĩa duy nhất về đói, nghèo. Đói

nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn chế
đến tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít có khả
năng tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa nhận định
nghĩa chung về đói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan tháng
9/1993: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoã mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này được
xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục,
tập quán của địa phương’’
Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia thành hai loại: nghèo
tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu
về ăn mặt, nhà ở chăm sóc y tế, giáo dục...)
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
trung bình của cộng đồng địa phương ở một thời kỳ nhất định.
Những quan niệm về đói nghèo nói trên phản ánh ba khía cạnh chủ
yếu của người nghèo là : có mức sống thấp hơn mức sống cộng đồng không
được thụ hưởng nhu cầu cơ bản mức tối thiểu dành cho con người, thiếu cơ
hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Nghèo tuyệt đối chủ yếu phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư
không được thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của con người, trước hết là
ăn, mặc, ở...nghèo tương đối lại phản ảnh sự chênh lệch về mức sống của
một bộ phận dân cư khi so sánh với mức sống trung bình của cộng đồng địa
phương trong một thời kỳ nhất định. Do đó, có thể xóa dần nghèo tuyệt đối,
còn nghèo tương đối luôn xảy ra trong xã hội, vấn đề quan tâm ở đây là rút
ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo và hạn chế sự phân hóa giàu
nghèo, giảm thiểu tới mức thấp nhất tỷ lệ nghèo tương đối.
15



Đói nghèo là tổng hợp khái niệm đói và khái niệm nghèo: Đói và
nghèo thường gắn chặt với nhau, nhưng mức độ gay gắt khác nhau. Đói có
mức độ gay gắt cao hơn, cần thiết phải xoá và có khả năng xoá. Còn nghèo,
mức độ thấp hơn và khó xoá hơn, chỉ có thể xoá dần nghèo tuyệt đối, còn
nghèo tương đối chỉ có thể giảm dần. Vì vậy, để giải quyết vấn đề đói
nghèo, ta thường dùng cụm từ "Xoá đói giảm nghèo".
1.1.1.2. Các chuẩn mực đánh giá đói nghèo
Theo Ngân hàng Thế giới, biện pháp áp dụng thông dụng nhất để đo
lường đói nghèo là dựa trên mức thu nhập hoặc mức chi tiêu. Một người
được coi là nghèo, nếu mức độ chi tiêu hoặc thu nhập của họ xuống dưới
mức tối thiểu cần thiết để đáp ứng cho các nhu cầu căn bản. Mức tối thiếu
này được gọi là “ngưỡng đói nghèo”. Các yếu tố đáp ứng nhu cầu căn bản
thay đổi theo thời gian và xã hội. Do đó, ngưỡng đói nghèo khác nhau theo
thời gian và địa điểm và mỗi quốc gia sử dụng các ngưỡng thích hợp với
mức độ phát triển, chuẩn mực và giá trị xã hội của mình. Để tổng hợp và so
sánh toàn cầu, Ngân hàng thế giới sử dụng ngưỡng tham chiếu $1 và
$2/ngày trong thuật ngữ “sức mua tương đương” (PPP) 1993 (PPP đo
lường sức mua tương đối của đồng tiền các quốc gia).
Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình
XĐGN ở Việt Nam, WB đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam:
Thứ nhất, là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm
đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2.100 calo/người/ngày, gọi là chuẩn
nghèo về lương thực, thực phẩm;
Thứ hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực
phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác, gọi là chuẩn nghèo chung.
Tại Việt Nam hiện nay đang sử dụng một loạt các chỉ tiêu đánh giá về
nghèo đói và phát triển xã hội: Bộ LĐ- TB&XH (cơ quan thường trực của
Chính phủ trong tổ chức, triển khai, thực hiện XĐGN) dùng phương pháp
dựa trên thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo từng thời gian. Các hộ được xếp
16



vào diện nghèo, nếu thu nhập đầu người của họ ở dưới mức chuẩn được
xác định. Mức này khác nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ lệ
nghèo được xác định bằng tỷ lệ giữa dân số có thu nhập dưới ngưỡng
nghèo so với tổng dân số trong cùng một thời điểm.
Theo Quyết định 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chuẩn
nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 như sau:
Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000đ/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ
500.000đ/người/tháng trở xuống là hộ nghèo
Tổng cục Thống kê thì dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người
để tính tỷ lệ nghèo. Tổng cục Thống kê xác định ngưỡng nghèo dựa trên
chi phí cho một giỏ tiêu dùng, bao gồm lương thực và phi lương thực; trong
đó, chi tiêu cho lương thực phải đủ đảm bảo 2.100 calo mỗi ngày cho 1
người. Các hộ được coi là thuộc diện nghèo, nếu mức thu nhập và chi tiêu
không đảm bảo giỏ tiêu dùng này. Phương pháp đo lường đói nghèo bằng
chi tiêu tỏ ra là một phương pháp tốt. Tuy nhiên, một trong những hạn chế
của phương pháp này là nó đòi hỏi rất nhiều số liệu, chi phí điều tra cao,
thời gian dài.
1.1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo
Đói nghèo là hậu quả đan xen của nhiều nguyên nhân nằm trong các
nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân khách quan, do môi trường tự
nhiên (vị trí, khí hậu, đất đai); kinh tế - xã hội (trình độ dân trí thấp, yếu tố
tập quán của từng dân tộc, từng vùng miền, chính sách của Nhà nước) và
nhóm nguyên nhân do bản thân người nghèo.
a. Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên; kinh tế - xã hội; cơ chế
chính sách
Điều kiện tự nhiên (nguyên nhân khách quan)


17


Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến SXKD của các
hộ gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo.
Đói nghèo tập trung khu vực nông thôn: Nghèo có đặc thù rõ rệt về
mặt địa lý. Ở Việt Nam, Đói nghèo là một hiện tượng phổ biến ở nông
thôn với 90% số người nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ
nghèo đói về lương thực và thực phẩm ở nông thôn là 15,9% đa số người
nghèo là nông thôn (trên 80%), trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận
nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ…), thị trường tiêu thụ
sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm
kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn, những người nông dân nghèo thường
không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả năng chuyển
đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu,
vùng xa, nhất là phụ nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm
nghèo dễ bị tổn thương nhất, phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn,
nhưng thu nhập thấp hơn, họ có ít quyền quyết định trong gia đình và cộng
đồng, do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách
mang lại.
Điều kiện vị trí không thuận lợi đã hạn chế nhiều đến sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm và sinh hoạt của các hộ gia đình. Người nghèo tập trung ở các
vùng có điều kiện sống khó khăn; đa số người nghèo sinh sống ở vùng
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn hoặc ở các vùng Đồng bằng
sông Cửu Long, miền trung; do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn
hán…) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng
thêm khó khăn, đặc biệt sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở đã làm cho các
vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. “Năm 2000, khoảng 20- 30%
trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung

tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số
xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã;
50% số xã chưa đủ công trình thủy lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc
18


cụm xã. Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người
dân thuộc diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1- 1,5 triệu
người. Hàng năm số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói
nghèo còn lớn”1.
Đói nghèo trong khu vực thành thị: Đa số người nghèo đô thị làm việc
trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập
thấp và bấp bênh. Một số lao động mất việc làm do chuyển đổi cơ cấu kinh
tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước, dẫn đến điều kiện sống của họ
càng khó khăn, một số người thất nghiệp. Các hộ nghèo thường có ít đất
đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên tại một số nơi.
Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người
nghèo, cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới sản xuất các
loại cây trồng với giá trị cao.
Điều kiện kinh tế - xã hội (nguyên nhân chủ quan)
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn
cảnh khó khăn đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm
được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu
cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy, không có đủ điều kiện nâng cao trình
độ của mình trong tương lai, để thoát khỏi cảnh đói nghèo. Bên cạnh đó,
trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo
dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái… Những ảnh hưởng này tác động không
những đối với thế hệ hiện tại, mà cả đối với các thế hệ tương lai. Suy dinh
dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến
trường của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo

thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học
vấn của người nghèo cho thấy, khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ
phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong
số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp
1

Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo – Thủ tướng Chính phủ thông qua tháng 5/2002

19


tiểu học chiếm 39%; Trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo dục đối
với người nghèo còn rất lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận
được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo.
Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên; 80% số người
nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp.
Trình độ học vấn thấp, hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các khu vực
khác, trong các ngành phi nông nghiệp và những công việc mang lại thu
nhập cao và ổn định hơn. Do trình độ dân trí thấp, nên việc bất bình đẳng
giới thường xảy ra. Bất bình đẳng giới còn sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói
trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân người phụ nữ và trẻ
em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng giới, thì còn có những tác động bất
lợi khác đối với gia đình. Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động
nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm
trong ngành nông nghiệp. Mặc dù vậy, nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành
viên các khóa khuyến nông về chăn nuôi và 10% các khóa khuyến nông về
trồng trọt. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo;
họ thường xuyên gặp khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu
quyền quyết định trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp
hơn nam giới ở cùng một loại công việc. Phụ nữ có học vấn thấp, dẫn tới tỷ

lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh
hưởng và trẻ em đi học ít hơn. Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia
tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ lây truyền HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả
năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục. “Nghèo cũng liên quan chặt chẽ tới
nhóm dân tộc, ngay cả khi tất cả các đặc điểm khác nhau là giống nhau, chi
tiêu của một người thuộc dân tộc thiểu số cũng thấp hơn chi tiêu của một
người thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa 13%. Trình độ giáo dục cũng
tạo sự khác biệt đáng kể; một hộ gia đình chủ hộ có trình độ trung cấp có
mức chi tiêu cao hơn mức trung bình gần 19% và nếu chủ hộ có trình độ

20


đại học thì mức cao hơn là 31%. Con số này là 29% nếu vợ/chồng có trình
độ trung cấp và 48% nếu vợ/chồng có trình độ đại học” 2
Ngoài yếu tố dân trí ra thì phong tục, tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã
hội như buôn bán thuốc phiện, khai thác khoáng sản bừa bãi và di dân tự do
cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Một số vùng đồng bào dân tộc
hiện nay vẫn còn những hủ tục lạc hậu, như người ốm không đưa đến các
trạm y tế để chữa bệnh mà mời thầy cúng đến làm lễ để cúng “con ma” ám
vào người bệnh (họ cho rằng người ốm là do ma ám). Làm lễ cúng như thế,
bệnh của người ốm ngày càng nặng thêm và rất tốn kém về kinh tế, dẫn đến
gia đình nghèo càng nghèo thêm.
Chính sách nhà nước
Do cơ chế chính sách Nhà nước thiếu hoặc không đồng bộ về chính
sách đầu tư xây dựng, kết cấu hạ tầng cho từng vùng nghèo, chính sách
khuyến khích sản xuất, chính sách tín dụng, chính sách giáo dục đào tạo, y
tế, chính sách đất đai…đã ảnh hưởng đến kết quả XĐGN.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một
trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến mức giảm nghèo. Việt Nam đã có

những thành tích giảm đói nghèo rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên,
quá trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực
đến người nghèo:
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn
còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi, các trục công nghiệp chính,
chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, vẫn chưa chú trọng đầu tư
các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú trọng khuyến
khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp
như lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước… không đúng đối tượng, làm ảnh
2

Báo cáo chung của các nhà tài trợ hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, mức sống thời kỳ bùng nổ
dân số, Hà Nội, tr.51.

21


hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những
vùng sâu, vùng xa.
Cải cách doanh nghiệp Nhà nước và những khó khăn về tài chính của
các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm
trong giai đoạn đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị
mất việc đã gặp rất nhiều khó khăn trong tìm việc làm mới và bị rơi vào
nghèo đói. Phần lớn số người này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp
và người lớn tuổi.
Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,
tự do hoá thương mại tạo ra được những động lực tốt cho nền kinh tế,
khuyến khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công
nghiệp thu hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp nhỏ
và vừa có khả năng tạo việc làm chưa đựợc quan tâm và tạo cơ hội phát

triển. Tình trạng thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng
cạnh tranh của sản phẩm thấp và năng lực sản xuất hạn chế đã làm không ít
các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản và đẩy công nhân vào cảnh thất
nghiệp, buộc họ phải gia nhập vào đội ngũ người nghèo [21, tr 43].
Tăng trưởng kinh tế giúp XĐGN trên diện rộng, song việc cải thiện
tình trạnh của người nghèo về thu nhập, khả năng tiếp cận, phát triển các
nguồn lực lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối
lợi ích tăng trưởng trong các nhóm dân cư bao gồm cả các nhóm thu nhập
phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng. Phân tích tình hình biển đổi về thu
nhập của nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh
tế nhiều hơn và kết quả đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo.
Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo
còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó
khăn, đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn
lực của nhân dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động. Hệ thống pháp luật
kinh tế vẫn chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu một số đạo luật quan trọng.
22


Nhiều văn bản pháp quy dưới luật chưa được ban hành kịp thời và thiếu
nhất quán đã gây không ít cản trở trong quá trình thực hiện. Chất lượng một
số luật về kinh tế, một số văn bản pháp quy dưới luật còn yếu.
Việc mở các lớp bồi dưỡng về khoa học kỹ thuật mới đối với hộ
nghèo còn ít, hiệu quả chưa cao. Nhà nước chưa định hướng cụ thể cho
người dân nên trồng cây gì, nuôi con gì cho phù hợp với điều kiện từng
vùng, từng thời kỳ. Rủi ro trong SXKD của hộ nghèo chưa được xử lý kịp
thời để hỗ trợ họ.
b. Nhóm nguyên nhân do bản thân hộ nghèo
Hộ nghèo thường thiếu nhiều thứ như: Tri thức, học vấn, kỹ năng lao
động, khả năng tiếp cận thị trường, sức khỏe.

Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực (vốn SXKD, kiến thức và
kỹ năng làm ăn, tư liệu sản xuất: Đất sản xuất, công cụ lao động, sức
kéo…); trong đó, thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng để SXKD là
một lực cản lớn nhất trong việc thoát khỏi đói nghèo. Người nghèo thường
không đủ điều kiện để vay được nhiều vốn, trong khi nguồn vốn tự có
khiêm tốn hoặc không có. Thiếu vốn là một trong những nguyên nhân trì
hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới…
Mặc dù trong khuôn khổ của dự án tín dụng cho người nghèo thuộc chương
trình XĐGN quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều.
Song vẫn còn khá nhiều người nghèo, đặc biệt là người rất nghèo không có
khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng. Một mặt, không có tài sản thế
chấp, những người nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ,
hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn vốn. Mặt khác, đa số người
nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn vay
không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn
và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn. Người nghèo, đồng bào dân
tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt thường có trình độ học
vấn thấp, nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc liên
23


quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp,
người nghèo khó khăn nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng
các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu ở các vùng thành
phố, thị xã… Nên người nghèo khó tiếp cận; hơn nữa phí dịch vụ pháp lý
còn cao so với khả năng tài chính của họ.
Hộ nghèo thường gặp khó khăn và thiếu tự tin trong việc giải quyết
các vấn đề của chính bản thân mình. Về giao tiếp xã hội, người nghèo
thường quan hệ với những người nghèo như mình, hoặc nghèo hơn mình.
Không muốn quan hệ với những người khá giả hơn mình. Từ đó, càng làm

hạn chế về khả năng tiếp cận tư duy mới, cũng như kinh nghiệm làm kinh
tế giỏi. Đây là một cản trở lớn trong công cuộc XĐGN.
Đại đa số hộ nghèo kiến thức và kỹ năng về sản xuất yếu, phương
pháp canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức. Sản xuất tự cung, tự cấp là
chính, chưa có khái niệm về sản xuất hàng hoá. Kiến thức về marketting
không có; bán các sản phẩm làm ra, nhưng chưa qua chế biến, nên giá trị
thấp; sản phẩm làm ra chưa xuất phát từ nhu cầu của thị trường (bán sản
phẩm của mình có, chứ không bán cái mà thị trường cần). Người nghèo
thường sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn,
thiếu phương tiện thông tin liên lạc, con cái thất học…Thiếu việc làm,
không năng động tìm kiếm việc làm, lười biếng lao động. Do sinh con
nhiều, đông con vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của đói nghèo. Trong
gia đình các hộ nghèo mặc dù nhân khẩu nhiều, nhưng số người có sức lao
động lại ít. Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn
hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình
hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích
luỹ kém, nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra
trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất
sức khoẻ…). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo
trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra nhưng bất ổn lớn
24


trong cuộc sống của họ. Các rủi ro trong SXKD đối với người nghèo cũng
rất cao, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả
năng đối phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém, do
nguồn thu nhập hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro
và có thể còn gặp rủi ro hơn nữa”.
Bệnh tật và sức khỏe kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng
đói nghèo. Khi bị bệnh tật, hộ nghèo phải gánh chịu mất đi thu nhập từ lao

động và chi phí cao cho việc khám chữa bệnh; do vậy đẩy họ vào chỗ vay
mượn, cầm cố tài sản để trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng có ít cơ hội
cho người nghèo thoát khỏi đói nghèo. Trong khi đó, khả năng tiếp cận các
dịch vụ phòng bệnh của người nghèo còn hạn chế: Tình trạng sức khỏe của
người Việt Nam trong thập kỷ qua đã được cải thiện, song tỷ lệ người
nghèo mắc các bệnh vẫn còn khá cao. Theo số liệu điều tra, mức sống năm
1998, số ngày ốm bình quân của nhóm 20% người nghèo là 3,1 ngày/năm,
so với 2,4 ngày/năm của nhóm 20% người giàu. Bệnh tật và sức khoẻ yếu
ảnh hưởng đến việc lao động sản xuất và tìm việc làm của người nghèo.
Bên cạnh đó, có một số nguyên nhân như nghèo do các thành viên
trong gia đình không chịu làm việc, hoặc tham gia vào các tệ nạn xã hội
dẫn đến việc không tạo ra của cải vật chất hoặc tạo ra của cải vật chất
nhưng bị tiêu tán.
1.1.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo
và hỗ trợ hộ nghèo
1.1.2.1. Đói nghèo là nguyên nhân gây mất ổn định xã hội, phá hoại
môi trường và cản trở nâng cao dân trí
Đa số người nghèo hiện sống tại khu vực nông thôn. Sự chênh lệch
ngày càng tăng giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân chính gây nên
các vấn đề xã hội. Ở nông thôn đất sản xuất có hạn và ngày càng bị thu
hẹp; ngành nghề phụ một số nơi không phát triển và có thu nhập thấp hoặc
không có ngành nghề phụ dẫn đến thời gian nông nhàn nhiều, hậu quả góp
25


×