BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
BÙI THỊ MAI HOAN
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH THANH HÓA TRONG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO PHỤ NỮ NGHÈO HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
NGHỆ AN - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
BÙI THỊ MAI HOAN
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH THANH HÓA TRONG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO PHỤ NỮ NGHÈO HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG
NGHỆ AN - 2015
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Trường Đại học Vinh, tôi đã nhận được rất
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ phía Nhà trường, Thầy cô và đồng nghiệp.
Nhân dịp luận văn được bảo vệ, tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới
PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng, người đã định hướng đề tài và trực tiếp hướng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị, Phòng
Đào tạo Sau Đại học, Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào Trường Đại học Vinh, Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa, Cục Thống kê
tỉnh Thanh Hóa cùng gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã tận tâm giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện song luận văn sẽ không
tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các Thầy cô giáo, các
anh chị và các bạn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2015
Bùi Thị Mai Hoan
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa.....................................................................................................................
Lời cảm ơn.........................................................................................................................
Mục lục...............................................................................................................................
Bảng ký hiệu các chữ viết tắt.............................................................................................
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................................................2
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................................
2. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................................
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................................
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................................
6. Đóng góp mới của đề tài..........................................................................................................
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TRONG GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO PHỤ NỮ NGHÈO HIỆN NAY...................................................................................................13
1.1. Một số khái niệm cơ bản......................................................................................................
1.2. Vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ trong giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo hiện nay......
Kết luận chương 1........................................................................................................................
Chương 2 THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH THANH HÓA TRONG GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO PHỤ NỮ NGHÈO HIỆN NAY...........................................................................................46
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến việc làm của phụ nữ nghèo ở tỉnh
Thanh Hóa.........................................................................................................................
2.2. Vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa trong giải quyết việc làm cho phụ nữ
nghèo những năm gần đây................................................................................................
Kết luận chương 2........................................................................................................................
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH
THANH HÓA TRONG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO PHỤ NỮ NGHÈO GIAI ĐOẠN TỚI..............................82
3.1. Phương hướng chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa
trong giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo giai đoạn 2015 - 2020 và những năm tiếp
theo...................................................................................................................................
3.2. Những giải pháp phát huy vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa trong giải
quyết việc làm cho phụ nữ nghèo thời gian tới.................................................................
Kết luận chương 3......................................................................................................................
KẾT LUẬN............................................................................................................................................109
4
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................111
PHỤ LỤC.............................................................................................................................................116
5
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH
BĐG
BTV
CLB
CNH, HĐH
CNTB
CNXH
CSSK
ĐCT
HĐND
HTX
KHHGĐ
KHKT
LHPN
PTTH
SKSS
TBCN
TCVM
TNXH
UBND
XHCN
Ban Chấp hành
Bình đẳng giới
Ban Thường vụ
Câu lạc bộ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa xã hội
Chăm sóc sức khoẻ
Đoàn chủ tịch
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xã
Kế hoạch hóa gia đình
Khoa học kỹ thuật
Liên hiệp Phụ nữ
Phổ thông trung học
Sức khoẻ sinh sản
Tư bản chủ nghĩa
Tài chính vi mô
Tệ nạn xã hội
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những vấn đề quan trọng đối
với mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển và có
lực lượng lao động lớn như ở Việt Nam. Hiện nay, ở nước ta, vấn đề tạo việc
làm và giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, cho phụ nữ nghèo nói
riêng là vấn đề vừa lâu dài, vừa cấp bách, không chỉ có ý nghĩa về kinh tế rất
quan trọng mà còn mang ý nghĩa xã hội, nhân văn sâu sắc.
Sinh thời, Bác Hồ luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí, vai trò của phụ nữ
trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, Bác nhấn mạnh: “Non
sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm
tốt đẹp rực rỡ”. Đây chính là sự khẳng định của Bác về vị trí, vai trò không thể
thiếu của phụ nữ Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay.
Thực hiện tâm nguyện của Bác, trong mục tiêu thiên niên kỷ quốc gia đã
ưu tiên phát triển bền vững nguồn lực phụ nữ như: Tăng cường giáo dục, đào
tạo, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về mọi mặt, trình độ nghề nghiệp và
năng lực quản lý kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường cho phụ nữ; hỗ trợ phụ
nữ làm kinh tế, tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo; đẩy mạnh các chương trình
chăm sóc sức khoẻ phụ nữ và trẻ em, cải thiện môi trường sinh hoạt tại từng địa
phương; tạo điều kiện để chị em tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện
các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới…
Cùng với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong những
năm qua, vấn đề phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm ở nước ta nói
chung luôn gắn liền với việc chú trọng đến lao động nữ, đặc biệt là phụ nữ
nghèo, gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ, với tiến trình phấn
đấu vì sự bình đẳng nam - nữ. Vì vậy, để thể hiện quan điểm và chủ trương đó,
để khẳng định vai trò to lớn của lực lượng lao động nữ, của đối tượng phụ nữ
7
nghèo trong công cuộc phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…Đảng, Nhà nước các cấp
đã quan tâm nhiều đến việc làm và giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Phụ nữ nghèo ngày càng tự tin, vươn lên
khẳng định vị trí của mình trong thị trường lao động và có nhiều đóng góp cho
phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, giải quyết việc làm cho lao động nữ, đặc biệt đối với phụ nữ
nghèo cũng còn nhiều khó khăn, bất cập. Những bất cập đó không chỉ xuất phát
từ những hạn chế của chính nông nghiệp - nông thôn, của chính bản thân phụ nữ
nghèo…mà còn phát sinh từ những thành công, những kỳ vọng đúng đắn hiện
nay của đất nước, của chế độ xã hội, của văn minh nhân loại. Công tác dạy nghề
và giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo mặc dù đã được các cấp, các ngành
quan tâm giải quyết nhưng chưa đáp ứng nhu cầu học nghề của phụ nữ nghèo,
cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa phù hợp, chất lượng dạy nghề còn thấp, việc
lồng ghép giới trong các hoạt động chương trình, dự án còn hạn chế, do vậy phụ
nữ nghèo chưa thực sự được bình đẳng trong lĩnh vực đào tạo nghề và hỗ trợ
việc làm, dẫn đến chất lượng lao động nữ ở nước ta chưa cao, trình độ tay nghề
còn thấp, ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu
của thị trường trong nước và xuất khẩu lao động nước ngoài.
Chính vì vậy, quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo
luôn là vấn đề mang tính cấp bách đối với cả nước nói chung và tỉnh Thanh Hóa
nói riêng. Đã có nhiều công trình ở trong và ngoài nước nghiên cứu về phụ nữ
nghèo nói chung và giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo nói riêng. Các công
trình đó đã góp phần phân tích và tổng hợp những vấn đề chung phụ nữ nghèo
và giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo dưới nhiều góc độ và địa phương khác
nhau. Tuy nhiên, ở góc độ một tỉnh, đặc biệt là tỉnh còn có nhiều vùng núi, dân
tộc thiểu số như Thanh Hóa thì việc nghiên cứu về vấn đề này còn chưa được hệ
thống cả về mặt lý luận và thực tiễn.
8
Thanh Hóa với diện tích tự nhiên 11.160,34 km2, dân số đến năm 2014
trên 3,4 triệu người, trong đó tỷ lệ nữ chiếm 51%. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm
14,85%, trong đó hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ là 12,35%. Thu nhập bình
quân đầu người ước đạt 810 USD (tháng 6/2014), kinh tế phát triển không đồng
đều giữa các vùng miền, chất lượng lao động thấp, hầu hết là lao động phổ
thông, phần lớn chưa qua đào tạo. Vấn đề bảo đảm việc làm cho phụ nữ nghèo
đã và đang là một thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở
tỉnh Thanh Hóa.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVII nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã
nêu: "Chương trình giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, kết quả còn hạn
chế, chất lượng và tỷ lệ lao động được đào tạo thấp; đói giáp hạt vẫn diễn ra, tỷ
lệ hộ nghèo cao hơn so với trung bình cả nước đặc biệt là miền núi"; Đại hội đại
biểu phụ nữ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVI nhiệm kỳ 2011 - 2016 đã xác định mục
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phong trào phụ nữ và hoạt động của các cấp Hội, trong
đó đặc biệt chú trọng 1 trong 3 khâu đột phá: “Tăng cường các hoạt động hỗ trợ
phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập”. Do vậy, học viên chọn
đề tài “Phát huy vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa trong giải
quyết việc làm cho phụ nữ nghèo hiện nay" làm đề tài nghiên cứu và luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ Khoa học Chính trị của mình, với hy vọng đưa ra một số giải
pháp nhằm giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo ở Thanh Hóa, đáp ứng những
đòi hỏi cấp bách của địa phương, có ý nghĩa to lớn không chỉ vì nền kinh tế mà
còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Vì thế vấn đề này đã thu hút các tổ chức, nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Có thể chia thành nhóm các vấn đề :
Nhóm các văn kiện, sách, bài nghiên cứu
Văn kiện Đại Hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X, XI. Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội (2010), Báo cáo sử dụng kết quả điều tra lao động - việc làm
hàng năm để xây dựng chính sách giải quyết việc làm. Trung tâm nghiên cứu gia
đình và phụ nữ, Viện khoa học xã hội và nhân văn: “Điều tra cơ bản về gia đình
9
Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” (1998-2000). Đề tài chỉ ra sự biến đổi các mối quan hệ cơ bản
trong gia đình, phân tích, chỉ rõ quan hệ giới trong gia đình và khẳng định vị thế
của người phụ nữ trong gia đình, từ đó đề xuất những giải pháp để phát huy vai
trò phụ nữ trong thời kỳ đổi mới. Sở Lao động Thương binh và xã hội tỉnh
Thanh Hóa (2008), Báo cáo tình hình dân số, lao động và chất lượng nguồn lao
động tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2006-2010, dự báo thời kì 2010 -2015 và đến
năm 2020. Trần Thị Minh Đức “Nghiên cứu một vài đặc điểm tâm lý xã hội của
lao động nữ ngoài tỉnh bán hàng rong trên đường phố Hà Nội”. Tạp chí Tâm lý
học số 6/2002. PGS. TS Nguyễn Sinh Cúc “Giải quyết việc làm ở nông thôn và
những vấn đề đặt ra” Tạp chí Con số và Sự kiện, số 8/2003. Đinh Đăng Định
(chủ biên) “Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt
Nam hiện nay”. Nxb Lao động, Hà Nội 2004. Vũ Văn Phúc “Giải quyết việc
làm sử dụng hợp lý nguồn nhân lực ở nông thôn hiện nay” Tạp chí Châu - Thái
Bình Dương, số 42, 2005. Lao động việc làm trong thời kỳ hội nhập, Nxb Lao
động Xã hội, Hà Nội 2009. Thu Hiền: Báo Lao động ra ngày 22/10/2009 nghiên
cứu về Giải pháp làm tăng cơ hội việc làm cho lao động nữ nông thôn và giảm
nghèo. Lao động việc làm trong thời kỳ hội nhập, NXB LĐXH, Hà Nội 2009.
- Đỗ Minh Cường “Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay”, nông
thôn mới (2003), (91). Nguyễn Hữu Dũng, “Giải quyết vấn đề lao động và việc
làm trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn”, Lao động Xã hội (2003), (209). Lưu Văn Hưng “Thách thức về
việc làm đối với lao động nông thôn ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nông nghiệp
và Nông thôn (2006).
- Mai Linh, Đẩy mạnh dạy nghề cho nông dân, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng sản, số 24, (216), năm 2010. Trần Thị
Thu “Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ CNH, HĐH” - Nxb Lao động
Xã hội, Hà Nội, 2003.
10
* Nhóm các luận văn và công trình nghiên cứu
- Hà Thị Minh Tâm “Giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn tỉnh
Hà Nam hiện nay” - LVTh.S, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2010. Luận văn đã hệ thống được những vấn đề lý luận về giải quyết việc
làm cho lao động nữ ở nông thôn, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho
lao động nữ ở nông thôn tỉnh Hà Nam trong những năm gần đây, từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác này. Tuy
nhiên, luận văn còn chưa đề cập đến vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ một cách
cụ thể và rõ ràng.
- PGS, TS Phan Thanh Khôi, PGS, TS Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên):
“Những vấn đề giới: từ lịch sử đến hiện đại”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
2007. Công trình này đã trang bị những kiến thức cơ bản về giới như: vấn đề
giới trong kinh điển Mác xít; vấn đề giới trong đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước Việt Nam; vấn đề giới trong thông tin đại chúng, vấn đề
giới trong sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
- Khóa luận tốt nghiệp đại học của Trần Thị Luyến: “Vai trò của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Nam Định trong việc thực hiện giải quyết việc làm cho phụ nữ
nghèo”. Khóa luận đã làm rõ vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Nam Định
trong việc thực hiện giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo ở tỉnh Nam Định.
* Nhóm công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến thực tiễn tại
Thanh Hóa
Tác giả Lê Văn Dũng “Việc làm cho người lao động nông thôn tỉnh
Thanh Hóa” - LVTh.S - 2008.Văn kiện Đại Hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần
thứ XVI, XVII. Văn kiện Đại hội phụ nữ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV, XVI. Báo
cáo giữa kỳ thực hiện Kế hoạch hành động Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Thanh
Hóa (2010 - 2015).
- Kế hoạch thực hiện Đề án: Hỗ trợ Phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai
đoạn 2010 - 2015 tỉnh Thanh Hóa. Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa: Báo
11
cáo kết quả thực hiện công tác nâng cao đời sống hộ nghèo do phụ nữ làm chủ
hộ tại Thanh Hóa 2010 - 2014. Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa: Báo cáo
Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập năm 2010, 2011,
2012, 2013, 2014.
Bên cạnh những công trình đã được nêu trên, còn có nhiều công trình
khoa học và bài viết đăng trên các báo Lao động, báo Phụ nữ Việt Nam và tạp
chí khác cũng đề cập đến vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động
nữ. Nhưng cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề
giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo ở quy mô cấp tỉnh, nhằm đưa ra những
phương hướng giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa
trong giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo hiện nay, luận văn đề xuất một số
giải pháp nhằm phát huy vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa trong
giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo thời gian tới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày khái quát một số vấn đề lý luận chung về phát huy vai trò của
Hội Liên Hiệp Phụ nữ trong giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo hiện nay.
- Phân tích thực trạng vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa
trong giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của Hội Liên
Hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa trong giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phát huy vai trò của Hội Liên Hiệp
Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa trong giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo hiện nay.
12
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi: Đề tài nghiên cứu vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh
Thanh Hóa trong giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo hiện nay.
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu từ năm 2010 - 2015; đề xuất
các giải pháp giai đoạn 2015 - 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp luận chung, đề tài còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu
- Phương pháp lôgíc - lịch sử
- Phương pháp so sánh, thống kê
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài góp phần tạo cơ sở cho việc định hướng và một nhân tố quan trọng
để ổn định, phát triển hài hoà kinh tế - xã hội nhằm phát huy vai trò của tổ chức
Hội Liên Hiệp Phụ nữ trong chỉ đạo thực hiện công tác giải quyết việc làm cho
phụ nữ nghèo ở tỉnh Thanh Hóa và các địa phương có hoàn cảnh tương tự.
Đề tài có thể làm tài liệu tuyên truyền, vận động cộng đồng tham gia giải
quyết việc làm cho phụ nữ nghèo.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TRONG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO PHỤ NỮ NGHÈO HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm Hội Liên Hiệp Phụ nữ
Sự phát triển của đất nước, của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam quang vinh, Hội LHPN Việt Nam đã trưởng thành và phát triển.
Hội đã trở thành một tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh với hệ thống gồm
bốn cấp, từ Trung ương đến cơ sở, với sự tham gia đông đảo của hội viên và
đội ngũ cán bộ Hội nhiệt tình, năng động, sáng tạo, đã lãnh đạo phong trào phụ
nữ từng bước phát triển và lớn mạnh. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất
nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn
quốc lần thứ XI đã phát động các tầng lớp phụ nữ cả nước thực hiện phong trào
thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh
phúc”, cùng sáu nhiệm vụ trọng tâm công tác Hội và vận động chị em tham gia
có hiệu quả các chương trình quốc gia như: chương trình xóa đói giảm nghèo,
đào tạo nghề, giải quyết việc làm, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nữ, dân số KHHGĐ, vệ sinh môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng chống
HIV/AIDS…Những đóng góp của phong trào phụ nữ và hoạt động của các cấp
Hội phụ nữ đã góp phần tích cực vào việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Điều lệ Hội LHPN Việt Nam (thông qua tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần
thứ XI) đã khẳng định “Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong
hệ thống chính trị, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng
giới. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên
14
đoàn phụ nữ Dân chủ quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp
hội các nước Đông Nam Á). Từ những tổ chức tiền thân cho đến ngày nay, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết vận động, tập hợp rộng
rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất,
trung hậu, đảm đang, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Hội thực hiện các nhiệm vụ chính như:
- Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm
chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước;
- Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận động hỗ trợ
phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ;
- Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát
việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình
và trẻ em;
- Xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững mạnh;
- Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ
trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
1.1.2. Khái niệm vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ
Tư tưởng coi nam giới là “trụ cột” còn phụ nữ luôn gắn với vai trò nội trợ,
chăm sóc gia đình đã gây ra cách nhìn lệch lạc về vai trò của mỗi giới dẫn đến
thiếu sự chia sẻ, trách nhiệm giữa nam giới và phụ nữ trong công việc gia đình
và tham gia các hoạt động xã hội. Tư tưởng này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự
15
đóng góp vào việc phát triển kinh tế, cũng như sự tham gia của phụ nữ vào các
công việc xã hội, làm hạn chế khả năng của người phụ nữ nói chung và phụ nữ
nghèo nói riêng.
Hội LHPN là một trong những chủ thể quan trọng trong việc thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, Hội LHPN đã phối hợp với nhiều tổ
chức khác nhau để hỗ trợ cho các hội viên có điều kiện để phát triển kinh tế.
Hoạt động hỗ trợ vốn của Hội LHPN được triển khai từ khi thành lập Hội (ngày
20/10/1930). Các chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế do Hội LHPN Việt Nam
phát động đã thu hút được nhiều hội viên tham gia, gia tăng số hội viên ở các cơ
sở, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong xã hội.
Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có rất nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách
thức thì vai trò của phụ nữ và Hội LHPN càng được khẳng định rõ rệt. Hội
LHPN Việt Nam đã mạnh dạn thực hiện đổi mới toàn diện với các phong trào
thi đua như: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây
dựng gia đình hạnh phúc”, “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần
kiệm xây dựng đất nước”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”…với các chương
trình, nhiệm vụ trọng tâm của Hội đã thu hút được đông đảo phụ nữ tham gia
góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới đất nước.
Để đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, các cấp Hội đã đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến và vận
động phụ nữ thực hiện luật pháp, chính sách, tích cực tham gia phát triển kinh tế
- xã hội, xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Với những thành tích đạt được qua phong trào phụ nữ, báo cáo đánh giá
giữa kỳ Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI, đã thống kê “có 32 đơn vị
và cá nhân được nhận giải thưởng Phụ nữ Việt Nam, 57 nữ doanh nhân được
nhận giải thưởng Bông hồng vàng và gần 300 phụ nữ tài năng toàn quốc thời kỳ
16
đổi mới... Đó là những thành tích rất đáng tự hào của toàn thể cán bộ, hội viên
và phụ nữ cả nước” [10; tr.22].
Bên cạnh việc đẩy mạnh phong trào phụ nữ trong nước, Trung ương Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã đẩy mạnh công tác quan hệ ngoại giao với tổ
chức phụ nữ các nước láng giềng và quốc tế, góp phần xây dựng tình đoàn kết,
hợp tác vì hòa bình, nhân đạo và công lý.
Tiếp nối truyền thống phụ nữ Việt Nam, các tầng lớp phụ nữ trong cả
nước đang tích cực đóng góp tài năng, trí tuệ, sức lực của mình trên khắp các
lĩnh vực. Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò và sự cống hiến của phụ nữ
Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Đại diện cho phụ nữ, Hội LHPN Việt Nam
đã phát huy bản chất tốt đẹp và khả năng to lớn của hàng chục triệu phụ nữ.
Phong trào phụ nữ dưới sự dẫn dắt của các cấp Hội đã thật sự khởi sắc, chuyển
biến rõ nét, hoạt động có trọng tâm, trọng điểm, ngày càng đi vào chiều sâu,
từng bước bắt nhịp với sự phát triển của đất nước.
1.1.3. Khái niệm việc làm và thiếu việc làm
- Khái niệm việc làm
Quan niệm về việc làm không cố định mà nó được xét trên nền tảng của
một chế độ chính trị, gắn với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là
định hướng chính trị của một quốc gia thay đổi, quan niệm về việc làm cũng
biến đổi. Trong lịch sử cho thấy việc thay đổi những quan điểm về tương lai trực
tiếp ảnh hưởng tới số lượng việc làm chứ không chỉ định hướng việc làm.
Có quan niệm cho rằng, tất cả các hoạt động, hành vi mang lại thu nhập
để đảm bảo cuộc sống cho mọi người đều được gọi là việc làm. Quan điểm này
đã không mang đến tính pháp lý của việc làm, đã đồng nhất việc làm hợp pháp
và việc làm không hợp pháp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay
không thể chấp nhận được quan niệm này, bởi khi các quan hệ thị trường ngày
càng phát sinh cả những mặt tích cực và tiêu cực, nhiều nguồn thu nhập không
17
chính đáng đang làm gia tăng tệ nạn xã hội, kìm hãm sự tăng trưởng, phát triển
của nền kinh tế đất nước.
Quan niệm thứ ba lại cho rằng: Việc làm có thể định nghĩa như một tình
trạng trong đó có sự trả công bằng tiền bạc hoặc hiện vật, do đó có một sự tham
gia tích cực có tính cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất.
So với hai quan niệm trên quan niệm này phát triển hơn, khái quát hơn.
Tuy nhiên, nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật
mới được coi là việc làm thì chưa thỏa đáng. Những người nằm trong lực lượng
lao động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ không nhận được tiền công,
tiền lương bằng tiền hay bằng hiện vật từ xã hội, từ người sử dụng lao động mà
chỉ nhận được sự phân phối lại trực tiếp thu nhập từ các thành viên trong gia
đình. Họ không trực tiếp mà lại gián tiếp tạo ra thu nhập trực tiếp, họ nhận được
thu nhập gián tiếp thông qua điều tiết thu nhập từ các thành viên trong gia đình
có việc làm hưởng tiền lương trong xã hội. Vậy, họ là những người có việc làm,
đảm nhận một chức năng chỉ đạo xã hội - nghề nội trợ.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) đã đưa ra quan niệm: “Người có việc làm là những người làm một việc gì
đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc những người tham gia vào các hoạt
động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không
nhận được tiền công hay hiện vật”.
Trước đây, trong cơ chế cũ việc làm của người lao động thường do nhà
nước giải quyết với chế độ “biên chế” suốt đời. Người lao động có việc làm
được xã hội tôn trọng và thừa nhận là những người làm việc trong các cơ quan
hành chính sự nghiệp của Nhà nước, các đơn vị kinh tế quốc doanh, với quan
niệm Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Chính vì vậy, xã hội không
thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm hay việc làm không đầy đủ.
Quan điểm đó tạo ra tâm lý trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước ở người lao động khi
họ cần việc làm.
18
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan
niệm trên về việc làm đã thay đổi. Quan niệm mới về việc làm được thể hiện
ở Luật lao động của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi bổ sung năm
2002, Điều 13, chương 2 (việc làm) của Luật quy định: “Mọi hoạt động lao
động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là
việc làm”.
Từ quy định trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về việc làm: Việc làm
là những hoạt động lao động sản xuất trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội mang lại thu nhập cho người lao động mà không bị pháp luật ngăn cấm.
Quan niệm trên về việc làm là hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
người lao động có thể làm bất cứ việc gì, bất cứ ở đâu, miễn là không vi phạm
pháp luật để mang lại thu nhập và thu nhập cao hơn cho bản thân. Quan niệm
trên đã mở ra một hướng mới cho giải quyết việc làm, mở ra một thị trường việc
làm phong phú và đa dạng, thu hút nhiều lao động, thực hiện mục tiêu giải
phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
Qua phân tích ở trên, chúng ta thấy đặc trưng chung của việc làm là:
Về mặt pháp lý: việc làm phải hợp pháp, phải chịu sự điều chỉnh của pháp
luật về độ tuổi, về những ngành nghề được làm và không được làm.
Về mặt kinh tế: nó phải đáp ứng lợi ích kinh tế của người lao động như thu
nhập, bình đẳng, tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Về chính trị: việc làm thể hiện rõ những quan điểm, đường lối lãnh đạo
của giai cấp cầm quyền.
Về mặt xã hội: việc làm phải phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức,
phong tục tập quán, công bằng xã hội.
Như vậy, việc làm là một phạm trù kinh tế - xã hội, việc làm chịu sự chi
phối của nhiều mối quan hệ. Quan niệm đúng về việc làm là cơ sở khoa học cho
giải quyết việc làm.
19
- Quan niệm về thiếu việc làm
Người thiếu việc làm bao gồm những người có việc làm mà trong thời
gian tham chiếu (7 ngày trước thời điểm điều tra) thoả mãn cả 3 tiêu chuẩn sau
đây:
Thứ nhất, mong muốn làm việc thêm giờ, nghĩa là:
- Muốn làm thêm một (số) công việc để tăng thêm giờ;
- Muốn thay thế một trong số (các) công việc đang làm bằng một công
việc khác để có thể làm việc thêm giờ;
- Muốn tăng thêm giờ của một trong các công việc đang làm, hoặc kết hợp
3 loại mong muốn trên.
Thứ hai, sẵn sàng làm việc thêm giờ, nghĩa là trong thời gian tới (ví dụ
một tuần) nếu có cơ hội việc làm thì họ sẵn sàng làm thêm giờ ngay.
Thứ ba, thực tế họ đã làm việc dưới một ngưỡng thời gian cụ thể đối
với tất cả các công việc đã làm trong tuần tham chiếu. Giống như các nước
đang thực hiện chế độ làm việc 40 giờ/tuần, “ngưỡng thời gian” để xác định
tình trạng thiếu việc làm của nước ta là “đã làm việc dưới 35 giờ trong tuần
tham chiếu”.
- Phương pháp tính
Có hai chỉ tiêu đo lường mức độ thiếu việc làm như sau [54, tr.4]:
(1) Tỷ lệ phần trăm thiếu việc làm so với lực lượng lao động:
(2) Tỷ lệ phần trăm thiếu việc làm so với số người đang làm việc:
20
Việc làm cho người lao động là vấn đề có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế
chính trị - xã hội, trong quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt đối với nước ta hiện
nay đang trên con đường đổi mới phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, định hướng XHCN đã mang lại những kết quả rất quan trọng, đưa
nước ta sang một giai đoạn mới, giai đoạn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Song đây cũng đặt ra một vấn đề khác bức xúc đối với xã hội hiện nay, đặc biệt
là tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm, nhất là đối với lao động nữ họ còn
nhiều thiệt thòi so với lao động nam giới. Chính vì vậy tình trạng thất nghiệp và
thiếu việc làm của lao động nữ ngày càng trở nên bức xúc hơn bao giờ hết.
1.1.4. Khái niệm phụ nữ nghèo
Theo quan điểm của Liên hiệp quốc nghèo là tình trạng một bộ phận dân
cư không được hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống, như đảm
bảo mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp xã hội, vệ sinh, y tế, giáo dục.
Như vậy, cách tiếp cận này thông qua các nhu cầu cơ bản để nhận diện,
nghèo đói, cách tiếp cận này là tương đối thống nhất và được sử dụng rộng rãi ở
nhiều quốc gia, khu vực.
Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu. Nó không chỉ là một
thực tế đang diễn ra ở nước ta mà còn là một tồn tại phổ biến trong khu vực và
trên toàn thế giới. Ngay cả những nước phát triển cao vẫn còn một bộ phận dân
cư sống ở mức nghèo khổ. Phát biểu tại Diễn đàn “Bình đẳng giới và giảm
nghèo bền vững”, Chủ nhiệm Uỷ ban Các vấn đề xã hội Trương Thị Mai ngoài
việc điểm lại những thành tích, nỗ lực trong công cuộc xoá đói giảm nghèo cũng
như bình đẳng giới cũng đã cho rằng: “Phụ nữ thường phải gánh chịu ảnh hưởng
của nghèo đói nhiều hơn nam giới và chính họ là những người nghèo nhất trong
số những người nghèo" (Ngày 02/6/2008, Diễn đàn Bình đẳng giới và Giảm
nghèo bền vững tại Hà Nội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội). Và đặc biệt
trong nhóm nghèo đó phụ nữ lại chính là những người chiếm đa số 70% trong số
1,3 tỷ người nghèo trên thế giới là phụ nữ. (Trích trong bài báo: “Khi người
21
nghèo là phụ nữ, của báo Phụ nữ Đà Nẵng, ra ngày Thứ sáu, 02 - 12 - 2011).
Theo các nhà nghiên cứu xã hội thì phụ nữ thường phải gánh chịu những ảnh
hưởng của nghèo đói nhiều hơn so với nam giới, và dường như hình ảnh phụ nữ
đa phần được gắn liền với nghèo đói bởi đa phần những thế hệ phụ nữ nông thôn
đều có cùng một điểm chung: ít học, lấy chồng sớm, đẻ nhều, sức khỏe kém,
công việc bấp bênh, thu nhập thấp, không có tiếng nói trong gia đình và xã hội.
Phụ nữ nghèo thường ít được đến trường học hơn so với nam giới, cho
nên trình độ học vấn của họ thấp, họ không biết là mình có thể làm được việc
gì khác ngoài nông nghiệp. Vì vậy mà những người phụ nữ nghèo thường chủ
yếu là những người có trình độ học vấn thấp, ít được học hành và không có
hiểu biết rộng.
Ở nông thôn với trên 70% dân số có ít nhất trên 10 triệu phụ nữ nghèo ít
có điều kiện tiếp cận với các tiện nghi, phúc lợi xã hội và đang vất vả trong sản
xuất nông nghiệp, buôn bán hàng rong, thậm chí phải đi ở đợ.
Phụ nữ nghèo là nhóm xã hội thường có học vấn thấp, nhận thức hạn chế,
gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế, sinh hoạt. Họ dễ bị tổn thương, rất ít
cơ hội để cải thiện đời sống và thăng tiến bản thân. Phụ nữ nghèo cũng thường
là những lao động thuần nông hoặc “buôn thúng bán bưng”, lao động chân tay
không có trình độ chuyên môn. Trong nhiều gia đình nông thôn hiện nay vẫn tồn
tại tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Do đó, người phụ nữ ít được tiếp xúc với các
dịch vụ của giáo dục. Hơn nữa, nữ giới là đối tượng hay bị bỏ học hơn nam giới.
Vì vậy, những kiến thức của phụ nữ về các vấn đề xã hội, về trình độ chuyên
môn còn rất hạn chế.
Phụ nữ nghèo ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo,
thường gặp nhiều khó khăn trong công việc gia đình, thiếu quyền quyết định
trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng
một loại việc. Trình độ học vấn thấp, công việc nặng nhọc và điều kiện kinh tế
khó khăn dẫn đến việc họ ít quan tâm đến tình trạng sức khoẻ của bản thân và
22
đây cũng là một nguy cơ khiến họ không thể thoát nghèo bền vững. Vì vậy, phụ
nữ nghèo là đối tượng cần được sự quan tâm đặc biệt của xã hội.
Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Hội LHPN. Bởi hoạt động
của Hội cần có sự phối hợp và hỗ trợ của nhiều ban, ngành, đoàn thể khác nhau.
Do đó, đòi hỏi các cán bộ và các hội viên Hội LHPN cần có một trình độ nhất
định để có thể tuyên truyền, giải thích cho các chị em hiểu rõ hơn về các chương
trình, hoạt động của Hội. Đồng thời, các hội viên cũng cần phải có hiểu biết để
có thể nắm bắt được những chủ trương của Hội.
1.1.5. Một số quan điểm về phát huy vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ
trong giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo
1.1.5.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo
- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết việc làm cho phụ
nữ nghèo
Trước khi Chủ nghĩa Mác ra đời, vấn đề giải phóng phụ nữ và tạo việc
làm cho phụ nữ đã được nhiều nhà tư tưởng quan tâm nghiên cứu. Bởi lẽ phụ nữ
không chỉ có vai trò làm vợ, làm mẹ trong gia đình mà họ còn là người lao động,
người công dân trong xã hội. Họ không chỉ là người thực hiện chức năng tái sản
xuất ra con người, mà còn là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, tinh
thần cho xã hội, là một lực lượng quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của
xã hội. Tuy nhiên, dưới chế độ tư hữu luôn tồn tại một nghịch lý là người phụ nữ
dù có vai trò to lớn nhưng trên thực tế lại có địa vị thấp hèn không chỉ trong gia
đình và cả ngoài xã hội. Phụ nữ luôn chịu cảnh bất bình đẳng với nam giới, bị
bóc lột thậm tệ, bị tha hóa. Các hình thức bất bình đẳng tuy có thay đổi qua từng
thời kỳ lịch sử nhưng bản chất của nó thì không hề thay đổi.
Một trong những quan điểm phi lý đã từng ngự trị trong lịch sử xã hội loài
người là: kể từ khi có xã hội, đàn bà đã là nô lệ của đàn ông. Để bảo vệ chế độ
thống trị, các nhà tư tưởng của giai cấp bóc lột đã biện hộ rằng do giá trị “không
23
đầy đủ” [37, tr.15] của người phụ nữ nên sự lệ thuộc của họ vào người đàn ông
là lẽ tất nhiên. Trái với quan điểm này, các nhà tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là các
nhà tư tưởng XHCN trước Mác đã kịch liệt phê phán sự phân chia xã hội thành
các đẳng cấp khác nhau, sự xô đẩy người phụ nữ tới tận cùng của áp bức. Tômát-Mo-rơ nhà XHCN không tưởng nổi tiếng ở Anh thế kỷ XVI đã có cái nhìn
nhân đạo và tiến bộ với phụ nữ, ông là người đầu tiên trong lịch sử thế giới cận
đại chủ trương thực hiện nam - nữ bình đẳng, tự do kết hôn. Hôn nhân dựa trên
tình yêu, nam - nữ đều được hưởng một nền giáo dục chung.
Phuriê - đại biểu xuất sắc nhất của XHCN không tưởng ở Pháp đầu thế kỷ
XIX đã phê phán sự bình đẳng trong quan hệ nam nữ trong gia đình và ngoài xã
hội, ông cho rằng “làm ô nhục phụ nữ là nét căn bản và tiêu biểu của thời đại
dã man cũng như thời đại văn minh” và “tự nhiên đã ban phát cho hai giới
những phần bằng nhau về năng lực làm khoa học và nghệ thuật”. [37, tr.12].
Song dưới chế độ TBCN người phụ nữ luôn chịu thiệt thòi, địa vị thấp kém. Vì
vậy, Phuriê là người đầu tiên khẳng định “trình độ giải phóng phụ nữ là thước
đo tự nhiên của sự giải phóng nói chung”[37, tr.13].
Rôbớt Ôoen - nhà XHCN không tưởng nổi tiếng ở Anh đầu thế kỷ XIX
cũng có cái nhìn rất nhân đạo đối với phụ nữ. Để xây dựng xã hội tốt đẹp theo
Ôoen cần phát triển giáo dục, phát triển trí tuệ, cải tạo triệt để hoàn cảnh sống
cho mọi người. Thực hiện giáo dục bình đẳng, hôn nhân tự do, phụ nữ được làm
việc phù hợp với sức khoẻ, có điều kiện chăm sóc con cái.
Như vậy, các nhà XHCN không tưởng đều quan tâm đến phụ nữ, các ông
đều mong muốn đem lại quyền tự do, bình đẳng cho phụ nữ trong học tập, lao
động, trong hôn nhân gia đình, tạo cơ hội cho phụ nữ làm tốt nhiệm vụ đối với
gia đình và xã hội. Do bị hạn chế về thế giới quan và bị quy định bởi hoàn cảnh
lịch sử, các nhà tư tưởng tiến bộ đương thời dù có nỗ lực vượt bậc cũng không
vượt qua được những hạn chế mà chính thời đại họ chưa cho phép. Vì vậy, các
ông chưa tìm ra con đường để giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam - nữ.
24
Đến giữa thế kỷ XIX, sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất đã tạo
ra tiền đề kinh tế - xã hội cho cuộc đấu tranh giải phóng các giai cấp bị áp bức
bóc lột và giải phóng phụ nữ. Trong hoàn cảnh ấy, kế thừa những tinh hoa trí tuệ
của nhân loại, cụ thể là tư tưởng nhân văn nhân đạo của các nhà XHCN không
tưởng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện cuộc cách mạng thật sự về lý luận
trong vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện nam - nữ bình đẳng. Các ông đã gắn
vấn đề giải phóng phụ nữ với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản
chống lại ách nô dịch của CNTB và các thế lực phản động; dày công nghiên cứu
quy luật phát triển của xã hội tư bản để từ đó phát hiện ra con đường giải phóng
con người nói chung và giải phóng giai cấp công nhân nói riêng. Lý luận ấy
không chỉ thấm đượm bản chất nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn vượt lên tầm
cao mà trước đó tư tưởng của nhân loại chưa thể vươn tới. Đó là quan điểm duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử coi con người là con người thực tiễn, chủ thể duy
nhất có khả năng nhận thức và cải tạo thế giới. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra
rằng: trong xã hội có giai cấp đối kháng, phụ nữ là nạn nhân trực tiếp của sự áp
bức giai cấp và của sự bất bình đẳng trong gia đình và xã hội.
Ở thời tiền sử, do lực lượng sản xuất còn thấp kém và chính cuộc sống
cộng đồng nguyên thủy đã tạo nên hình thức gia đình quần hôn người phụ nữ
giữ vai trò cai quản kinh tế gia đình, con chỉ biết mẹ đó là hình thức gia đình
mẫu hệ. Trong hình thức gia đình này mọi thành viên trong gia đình đều bình
đẳng thì quyền lực thuộc về người phụ nữ nên họ được tôn vinh, chế độ mẫu
quyền đã tồn tại trong một thời gian dài.
Sản xuất ngày càng phát triển, của cải dư thừa đã dẫn đến sự ra đời của
chế độ tư hữu. Cùng với nó là thất bại của chế độ mẫu quyền. Ăngghen cho
rằng: “đây là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của phụ nữ” [37,
tr.89]. Từ đây, quyền cai quản kinh tế thuộc về đàn ông, người đàn bà bị biến
thành nô lệ, thành công cụ sinh đẻ đơn thuần. Ăngghen chỉ rõ: “Sự áp bức đầu
tiên trùng hợp với sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà” [37, tr.106].