Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Vai trò của hội liên hiệp phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế từ năm 2001 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.94 KB, 54 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam giữ một vai trị
và vị trí quan trọng. Giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong
những mục tiêu của cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài
đến sự phát triển của đất nước. Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ, phát huy sức
mạnh và chăm lo sự phát triển mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên,
rất quan trọng của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng.
Từ khi thành lập, Đảng ln quan tâm lãnh đạo phát huy vai trị của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, để Hội thực sự là tổ chức đoàn kết các tầng lớp
phụ nữ, phát động và hướng dẫn các phong trào cách mạng của phụ nữ.
Hiện nay, cả nước ta đang phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hố đất nước. Đổi mới là một cuộc
vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, tạo ra những điều kiện, những cơ hội để phát huy mọi tiềm
năng của mọi gia đình, mọi thành viên trong xã hội. Trong số các vấn đề xã
hội hiện nay, quan tâm đến các chính sách nhằm giải phóng phụ nữ, phát huy
vai trị người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội được coi là vấn đề hết sức
cơ bản và cấp bách.
Xuất phát từ thực tế đó, Đại hội Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam toàn
quốc lần thứ IX, đã xác định mục tiêu phong trào phụ nữ hướng tới trong giai
đoạn hiện nay, đó là sự thay đổi tích cực của chính bản thân người phụ nữ,
nâng cao chất lượng cuộc sống của phụ nữ và bình đẳng giới trong xã hội. Để
thực hiện được mục tiêu đề ra, Đại hội đã xác định sáu chương trình trọng tâm
của cơng tác Hội, trong đó chương trình II - “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế”
được xem là chương trình thiết thực cải thiện đời sống vật chất và tinh thần


của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ.

Trang 1


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong quá trình
thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” đã đạt được một số
kết quả tích cực, đã giúp đỡ các tầng lớp phụ nữ trong huyện phát triển kinh tế
gia đình, tăng thu nhập tạo ra sự biến đổi về đời sống kinh tế, góp phần đáng
kể vào chương trình xố đói giảm nghèo của địa phương. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện chương trình vẫn cịn gặp những khó khăn nhất định, chương
trình chưa bao khắp đến mọi tầng lớp phụ nữ trong huyện vẫn còn một bộ
phận phụ nữ nghèo, thiếu trình độ, thiếu cơng ăn việc làm, cuộc sống bấp
bênh. Đó cũng là một vấn đề đáng quan tâm hiện nay.
Trong thời gian qua, nghiên cứu về hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ
và phong trào phụ nữ đã có nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu như: Bài viết
“Những kết quả đáng ghi nhận từ phong trào thi đua phụ nữ tích cực học tập,
lao động sáng tạo xây dựng gia đình hạnh phúc” đăng trên báo “Thông tin phụ
nữ” số ra ngày 20/10/2006, đề tài nghiên cứu “Cơng tác vận động phụ nữ
trong tình hình mới của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang” của tác giả
Nguyễn Thị Minh Nguyệt, bài viết “Hội Phụ nữ tỉnh An Giang với cơng tác
xóa đói giảm nghèo” đăng trên quyển “Thông tin công tác tư tưởng” số
10/2007. Tuy nhiên, hầu hết các bài viết, đề tài nghiên cứu cịn mang tính lí
luận, chưa có điều kiện đi sâu vào tìm hiểu hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ
nữ, trong việc thực hiện một chương trình cụ thể ở địa phương cấp huyện như
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Từ yêu cầu lý luận và thực tiễn trên, cũng như vấn đề nâng cao vị trí xã
hội của người phụ nữ là một vấn đề mà tôi đã rất tâm đắc. Là một người con
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Chợ Mới, tơi mong muốn đóng góp một phần
cơng sức nhỏ bé của mình vào q trình nâng cao vị trí xã hội của người phụ
nữ ở huyện Chợ Mới. Chính vì vậy, tơi đã quyết định chọn đề tài cho khóa
luận tốt nghiệp của mình là “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang triển khai thực hiện chương trình Hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế từ năm 2001 đến năm 2006”.

Trang 2


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ
2.1. Mục đích
- Nghiên cứu vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang với chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ năm 2001 đến
năm 2006.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chương
trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
trong những năm sắp tới.
2.2.

Nhiệm vụ

- Nghiên cứu lý luận về phụ nữ và vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ với
phong trào phụ nữ

- Nghiên cứu thực tế triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế” của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
từ năm 2001 đến năm 2006 để làm rõ những đóng góp tích cực của chương
trình đối với đời sống các tầng lớp phụ nữ trong huyện .
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hoạt động
của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang thực hiện chương
trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” trong những năm sắp tới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng
Nghiên cứu vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ triển khai thực hiện chương
trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
trong triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ
năm 2001 đến năm 2006.

Trang 3


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khoá luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội khoa học, kết hợp với phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp lơgic, lịch sử, khảo sát thực tiễn, thống kê,
so sánh.
5. ĐÓNG GĨP CỦA KHĨA LUẬN
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm nguồn tư liệu cho Hội

Liên hiệp Phụ nữ các cấp tham khảo trong quá trình thực hiện chương trình
“Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” tại địa phương.
-

Góp phần cung cấp những cơ sở khoa học cho Đảng bộ và chính
quyền các cấp tham khảo trong lãnh đạo, quản lí có những chủ trương
và tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Liên hiệp Phụ nữ thực hiện có hiệu
quả hơn chương trình “ Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế”.

6. KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, khoá luận gồm 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VỚI
PHONG TRÀO PHỤ NỮ
1.1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam
về Phụ nữ.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Phụ nữ.
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Phụ nữ.

1.2.

Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ với phong trào phụ nữ.
1.2.1. Thời kỳ đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc dân chủ nhân

dân ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
1.2.2. Thời kỳ đổi mới đất nước.

Trang 4



Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

Chương 2: VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN CHỢ
MỚI, TỈNH AN GIANG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH “HỖ TRỢ PHỤ NỮ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ” TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2006.
2.1. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang với phong trào phụ nữ trong 30
năm xây dựng và phát triển (1975 – 2005).
2.1.

Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
trong triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế” từ năm 2001 đến năm 2006.
2.2.1. Thực trạng đời sống phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
2.1.1.1.

Vài nét về vị trí địa lý và tình hình kinh tế - xã hội huyện Chợ
Mới.

2.2.1.2.Thực trạng đời sống phụ nữ huyện Chợ Mới.
2.1.2. Thực tế triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển

kinh tế” tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến năm
2006.
2.1.2.1.


Mục tiêu của chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế”
từ năm 2001 đến năm 2006.

2.1.2.2.

Nội dung của chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế”
từ năm 2001 đến năm 2006.

2.1.2.3.

Một số kết quả và hạn chế của thực hiện chương trình “Hỗ
trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ năm 2001 đến năm 2006.

2.2.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình
“Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” ở huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang trong những năm sắp tới.
2.2.1. Tập trung huấn luyện cán bộ Hội phụ nữ về kiến thức và kỹ năng
cần thiết để hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế.

Trang 5


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

2.2.2. Tiếp tục vận động các nguồn vốn trong nước và quốc tế để tăng nguồn


vốn vay cho phụ nữ. Ưu tiên hỗ trợ vốn thực hiện xóa đói giảm nghèo,
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thu hút lao động
2.2.3. Tăng cường phối hợp với ngành Lao động - Thương binh và xã

hội, các ban ngành liên quan củng cố, nâng cao chất lượng công tác
đào tạo nghề và giới thiệu việc làm.
2.2.4. Tăng cường công tác chuyển giao khoa học - kỹ thuật nhằm hướng
dẫn phụ nữ sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao.
2.2.5. Phát động thường xuyên các phong trào như “Phụ nữ giúp nhau

làm kinh tế gia đình” hay phong trào “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” để
động viên phụ nữ tự vươn lên thoát nghèo.

Trang 6


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VỚI
PHONG TRÀO PHỤ NỮ.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về

Phụ nữ.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Phụ nữ
Trong xã hội loài người, phụ nữ là cái nôi tiếp nối cho sự sống, là người
thầy đầu tiên của con người, là một trong những nguồn lực chính để phát triển
xã hội và đã có những đóng góp lớn lao vào sự phát triển của mỗi quốc gia,

dân tộc. Lịch sử nhân loại đã trải qua biết bao thăng trầm. Song, hình ảnh
người phụ nữ ở bất cứ quốc gia, dân tộc nào cũng luôn luôn là biểu tượng cao
đẹp của con người.
Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải sản xuất của cải vật
chất. Muốn sản xuất của cải vật chất phải có đơng đảo những người lao động
bao gồm cả nam lẫn nữ. Nhìn lại lịch sử lồi người từ trước đến nay, phụ nữ
bao giờ cũng là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người
lao động. Bằng lao động sáng tạo của mình, phụ nữ đã góp phần làm giàu
cho xã hội. Khơng chỉ góp phần sáng tạo của cải vật chất, phụ nữ còn góp
phần cả trong các hoạt động văn hóa, tinh thần, làm phong phú thêm cuộc
sống của con người.
Song song với những hoạt động góp phần sáng tạo mọi của cải vật chất
và tinh thần, phụ nữ cịn tích cực tham gia các cuộc đấu tranh giai cấp, các
phong trào nổi dậy của quần chúng bị áp bức bóc lột. Từ khi xã hội phân chia
thành giai cấp đến nay, lịch sử luôn luôn chứng kiến cuộc đấu tranh giai cấp
giữa những người lao động bị bóc lột với chủ bóc lột. Phụ nữ lao động là
những người bị bóc lột nhiều nhất, nên rất hăng hái tham gia đấu tranh giải
phóng bản thân mình cũng như nhân loại.

Trang 7


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

Lịch sử đấu tranh của giai cấp vô sản còn ghi lại gương chiến đấu kiên
cường của những người phụ nữ Công xã Pari năm 1871. Trong cuộc đấu tranh
vũ trang đầu tiên này của giai cấp vô sản, hàng vạn phụ nữ đã sát cánh cùng
nam giới bảo vệ Công xã. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười

Nga năm 1917, phụ nữ công nông Nga và phụ nữ nhiều nước khác đã đứng lên
cùng chồng con, cha anh để bảo vệ nước Nga Xô - viết.
Như vậy, từ xưa đến nay, xét bất cứ mặt nào của đời sống xã hội (sản
xuất vật chất, hoạt động tinh thần, đấu tranh giai cấp), phụ nữ mà chủ yếu là
phụ nữ lao động có vai trị rất to lớn. Chính phụ nữ cùng đơng đảo người lao
động khác là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bên cạnh đó, phụ nữ cịn
có chức năng cao q là chức năng làm mẹ, phụ nữ đóng vai trị rất quan
trọng trong việc bảo tồn nòi giống, giáo dục và bồi dưỡng thế hệ mai sau góp
phần quan trọng vào sự phát triển đất nước.
Với vai trò quan trọng như vậy, phụ nữ phải được tơn trọng và có địa vị
xứng đáng trong xã hội, nhưng trong tất cả các xã hội có giai cấp đối kháng,
phụ nữ ln bị khinh rẻ và mất quyền bình đẳng, khơng những trong xã hội mà
trong cả gia đình.
Tuy nhiên, phụ nữ sinh ra vốn không phải ngay từ đầu đã ở vào địa vị bị
áp bức bóc lột và khơng bình đẳng với nam giới. Trải qua hàng chục vạn năm
trong xã hội cộng sản nguyên thủy, phụ nữ tuy phải sống cuộc đời thấp kém,
vất vả chung của loài người, nhưng họ chưa bị áp bức bóc lột và mất quyền
bình đẳng. Do sức sản xuất còn rất thấp, nên con người phải cùng sống chung,
làm chung và cùng hưởng chung những thứ kiếm được. Sự phân cơng lao
động hồn tồn có tính chất tự nhiên giữa nam và nữ. Đàn ông thì tìm kiếm
hoặc chế tạo công cụ, săn thú, bắt cá. Đàn bà do có chức năng sinh đẻ nên làm
cơng việc gia đình, chế biến thức ăn. Khi nguồn thức ăn do săn bắt cung cấp
còn chưa nhiều, lại hay thất thường thì cơng việc “tề gia nội trợ” ấy càng có ý
nghĩa xã hội rất quan trọng. Ph.Ăngghen đã viết về vai trò của người phụ nữ
trong xã hội công xã nguyên thủy như sau: “Trong nền kinh tế gia đình cộng

Trang 8


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm


Svth: Trần Phan Như Ý

sản thời cổ, một nền kinh tế bao gồm nhiều cặp vợ chồng với con cái họ, việc
tề gia nội trợ, được giao cho phụ nữ, là một loại hình hoạt động xã hội cần
thiết, cũng ngang như việc nam giới cung cấp lương thực”.[14;115]
Đến cuối xã hội cộng sản nguyên thủy, chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất dần dần hình thành, dẫn tới sự phân chia xã hội thành giai cấp,
thành bọn đi bóc lột và những người bị bóc lột. Bước sang thời kỳ xã hội
chiếm hữu nô lệ, phụ nữ cùng với chồng, con và mọi người nô lệ khác phải
sống dưới sự áp bức, bóc lột của chủ nơ. Đến xã hội phong kiến là xã hội dựa
trên chế độ gia trưởng và đẳng cấp thì quyền lợi và nhân phẩm của người phụ
nữ bị chà đạp rất nghiệt ngã. Xã hội phong kiến chứa đựng đầy rẫy những
thành kiến bất công và những tập tục khinh rẻ phụ nữ.
Chẳng riêng gì xã hội chiếm hữu nơ lệ và xã hội phong kiến, ngay xã hội
tư bản là xã hội vẫn cho rằng đã giải phóng con người, giải phóng phụ nữ thì
địa vị khơng bình đẳng của phụ nữ cũng thể hiện rõ. Trong các nước tư bản,
kể cả những nước tự xưng là văn minh dân chủ thì phụ nữ thường không được
hưởng đầy đủ những quyền lợi về chính trị. Dù trên danh nghĩa họ có được
bình đẳng thì trong thực tế họ vẫn rất ít khi được hưởng quyền bình đẳng ấy.
Về kinh tế, phụ nữ lao động trong xã hội tư bản bị bóc lột rất nặng nề.
Bọn tư bản đã lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật, sự mở
rộng quy mô sản xuất, bằng nhiều cách thu hút ngày càng nhiều phụ nữ và trẻ
em vào sản xuất. Với lao động phụ nữ và trẻ em, bọn tư bản thu được nhiều lợi
nhuận vì lương của phụ nữ thấp nhiều so với lương của nam giới, thường chỉ
bằng một nửa. C.Mác đã vạch rõ sự bóc lột lao động phụ nữ trong xã hội tư
bản: “Lao động càng ít cần đến sự khéo tay và sức lực chừng nào, nghĩa là
cơng nghiệp hiện đại càng tiến, thì lao động của đàn ông càng được thay thế
bằng lao động của đàn bà và trẻ em. Những sự phân biệt già trẻ, trai gái khơng
cịn có ý nghĩa xã hội gì nữa đối với giai cấp công nhân. Tất cả đều là cơng cụ

lao động, mà giá cả thì thay đổi tùy theo già trẻ và trai gái”[2;29]. Tình trạng
một bộ phận phụ nữ được thu hút vào sản xuất, khiến bọn tư bản có thể dựa

Trang 9


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

vào đó để hạ thấp tiền lương của chồng con họ, làm cho cuộc sống của giai
cấp công nhân càng khó khăn thêm. Mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, thì hàng
loạt cơng nhân bị đẩy ra khỏi nhà máy, phụ nữ lại thường là những người bị
loại trước hết. Tình cảnh đó dẫn phụ nữ đến bước đường cùng, đời sống họ
càng thêm khốn khổ.
Trong gia đình, thân phận của phụ nữ cũng chẳng hơn gì. Quan hệ vợ
chồng của giai cấp tư sản, về thực chất cũng chỉ là quan hệ tiền tài, trong đó
người chồng giữ quyền thống trị, chi phối. Thái độ tôn trọng phụ nữ mà bọn tư
bản thường khoe khoang thật ra chỉ đối với một bộ phận nhỏ phụ nữ trong các
tầng lớp trên của xã hội. Trong các gia đình lao động, dù quan hệ vợ chồng có
xây dựng trên tình yêu giai cấp thì người phụ nữ vừa bị nền sản xuất tư bản
làm cho kiệt sức, vừa phải gánh vác những cơng việc nội trợ trong gia đình
nên cũng khơng thể vươn lên bình đẳng cùng nam giới. Bên cạnh đó, cịn có
những cách đối xử khơng bình đẳng như cảnh hành hạ, đánh đập, chửi mắng
vợ con của chính những người lao động do chịu ảnh hưởng tư tưởng của chế
độ bóc lột. V.I Lênin đã nêu lên tình cảnh của người phụ nữ như sau: “…Dưới
chế độ tư bản thì phụ nữ, tức là một nửa nhân loại phải chịu hai tầng áp bức.
Nữ công nhân và nữ nông dân đều bị tư bản áp bức và ngồi ra, họ cịn…bị
giam hãm trong cảnh nơ lệ gia đình…”[3;38-39]
Từ khi chế độ tư hữu và nạn người bóc lột người xuất hiện, thì vai trị

người phụ nữ bị hạ thấp. Họ là những người bị thiệt thòi nhiều nhất, so với tất
cả những người lao động khác. Sống trong hồn cảnh bị khinh rẻ và mất quyền
bình đẳng ấy, tất nhiên người phụ nữ khát khao được giải phóng và thực tế, họ
đã khơng ngừng đấu tranh giải phóng mình. Trước đây, do điều kiện chưa cho
phép, những cuộc đấu tranh của họ chưa mang lại kết quả mong muốn. Chỉ
đến khi giai cấp công nhân xuất hiện và được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin thì vấn đề giải phóng phụ nữ mới được nhận thức và giải quyết đúng.
Giai cấp công nhân hiểu rằng, muốn tự giải phóng thì trước hết phải giải
phóng mọi người lao động trong đó có phụ nữ và chỉ khi nào giải phóng được

Trang 10


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

phụ nữ thì khi ấy giai cấp cơng nhân mới được giải phóng hồn tồn. Cho nên
giải phóng phụ nữ là nhiệm vụ cách mạng chung của giai cấp cơng nhân.
Được chính đảng vơ sản lãnh đạo và giáo dục, phụ nữ thấy rõ chính giai
cấp tư sản, chính bọn đế quốc và phong kiến đã làm cho họ bị mấy tầng áp
bức, bị khinh rẻ và mất quyền bình đẳng. Muốn thốt khỏi tình cảnh đó, phụ
nữ chỉ có một con đường là tham gia cuộc cách mạng do giai cấp công nhân
và Đảng Cộng sản lãnh đạo, chủ động đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng
của bản thân mình. V.I.Lênin đã khẳng định đối với cuộc đấu tranh của phụ
nữ: “Chúng ta nói, việc giải phóng cơng nhân phải là việc của bản thân công
nhân, mà việc giải phóng phụ nữ lao động cũng vậy, nó phải là việc của bản
thân phụ nữ” [3;55]
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, muốn giải phóng phụ nữ thì điều quan
trọng là phải giải phóng họ về kinh tế, vì địa vị xã hội của phụ nữ, do địa vị
kinh tế của họ quyết định. Trong các xã hội có áp bức bóc lột, phụ nữ ln ở

địa vị bị phụ thuộc về kinh tế, nên không bao giờ được hưởng quyền bình
đẳng cùng nam giới. Điều này đã được Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Chỉ có thể giải
phóng được người phụ nữ khi người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một
quy mô xã hội rộng lớn và chỉ phải làm cơng việc trong nhà rất ít. Nhưng chỉ
với nền đại công nghiệp hiện đại, là nền công nghiệp không những thu nhận
lao động của phụ nữ trên quy mơ lớn, mà cịn trực tiếp địi hỏi phải có lao
động phụ nữ và ngày càng có xu hướng hịa tan lao động tư nhân của gia đình
trong nền sản xuất cơng cộng, thì mới có thể thực hiện điều nói trên” [14;241]
Bên cạnh việc giải phóng phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong
việc tham gia giải phóng giai cấp, giải phóng tồn nhân loại. V.I.Lênin đã
khẳng định: “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết
làm việc nước, như thế cách mạng mới gọi là thành công”[6;288]
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học đã đánh giá cao vai trò
của phụ nữ trong xã hội, họ cho rằng, việc giải phóng phụ nữ, thực hiện nam

Trang 11


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

nữ bình quyền, là một mục tiêu lớn của cách mạng do Đảng lãnh đạo. Điều
này có thể giải thích tại sao từ năm 1920 thế giới tiến bộ lấy ngày 8/3 là “Ngày
đàn bà con gái”, sau đổi là ngày Quốc tế phụ nữ nhằm đoàn kết các tầng lớp
phụ nữ các nước đấu tranh để giải phóng giới mình, giành quyền bình đẳng về
kinh tế, chính trị và xã hội cho họ. C.Mác đã khẳng định vai trò quan trọng của
phụ nữ: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà khơng có
phụ nữ giúp vào thì chắc chắn khơng làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của

đàn bà con gái thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào”[6;288].
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Phụ nữ.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, từ tổ tiên xưa đến
con cháu ngày nay, phụ nữ nước ta đã cùng nhân dân cả nước làm nên lịch sử
vẻ vang của dân tộc, hình thành nên truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt
Nam. Ở mỗi thời kỳ phát triển của dân tộc, phụ nữ luôn biết lựa chọn chỗ
đứng, lựa chọn đường đi đúng đắn vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, của
gia đình và của chính bản thân mình. Do đặc điểm sống trong hồn cảnh đất
nước ln có giặc ngoại xâm, phụ nữ Việt Nam với truyền thống yêu nước và
ý chí căm thù giặc sâu sắc, luôn là người trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến
đấu, gắn bó quyền lợi của mình với vận mệnh đất nước góp phần tơ thắm
những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, các thế hệ phụ nữ, người
trước mở đường cho người sau tiếp bước, càng phát huy sức mạnh đồn kết
và ý chí kiên cường, đã làm nên biết bao kỳ tích. Đặc biệt, trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, với tinh thần gan dạ và
mưu trí, tài năng sáng tạo, hàng triệu phụ nữ đã lập nên những chiến cơng lẫy
lừng trên khắp các mặt trận, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại giành
độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tạo tiền đề đưa đất nước bước vào thời
kỳ phát triển mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới thành lập đã thể hiện rõ quan
điểm của mình về phụ nữ, Đảng coi trọng mục tiêu giải phóng phụ nữ, thực

Trang 12


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý


hiện nam nữ bình đẳng, đặt sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền với sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già dân tộc, vị lãnh tụ tối cao, Người đã
cống hiến cả đời mình cho nhân dân và đất nước ta. Trong cuộc đời hoạt động
của mình, Người ln quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Với quan
điểm cách mạng rất khoa học, đầy tính nhân văn, Người đã dành cho phụ nữ
Việt Nam những tình cảm ưu ái, cái nhìn đúng đắn. Từ giữa thế kỉ XIX, nhân
dân Việt Nam “một cổ hai tròng áp bức”, cảnh ngộ của người phụ nữ khi nước
mất nhà tan đã phải chịu trăm nghìn cay đắng. Ngay từ những ngày đầu khi
xâm lược Việt Nam, giặc Pháp đã đốt phá, giết người và hãm hiếp, gây biết
bao tai họa cho nhân dân và phụ nữ ở khắp nơi. Những hành động dã man ấy
khiến Hồ Chí Minh phải thốt lên: “Người ta thường nói: chế độ thực dân là ăn
cướp. Chúng tôi xin thêm: là hiếp dâm và giết người”[6;106]. Thấu hiểu nỗi
khổ nhục của người phụ nữ, họ là những nạn nhân của ách áp bức bóc lột giai
cấp, là đối tượng bị bóc lột đè nén nặng nề nhất. Chính vì vậy, theo Hồ Chí
Minh giải phóng phụ nữ bản thân nó cũng là một cuộc cách mạng, nó gắn liền
với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ trong cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, Người đã rút ra kết luận rằng “Xem trong lịch sử cách mệnh
chẳng có lần nào là khơng có đàn bà con gái tham gia” rồi Người khẳng
định: “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành
cơng”[6;228-289].
Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh phụ nữ chiếm một nửa nhân loại khi nói
đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội, vì vậy, phụ nữ là một lực lượng lao
động rất quan trọng, nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã
hội chỉ một nửa.
Từ nhận thức đúng đắn về vai trò lực lượng phụ nữ trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam có một
chính Đảng thấu hiểu sâu sắc tình hình, đặc điểm phụ nữ và đưa ra được


Trang 13


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

những thuyết sách đúng đắn về lý luận và thực sự phụ nữ đã phát huy vai
trò, khả năng cách mạng, truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Trong Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo
và được thơng qua trong Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thì vấn đề nam
nữ bình quyền đã được được đề cập đến. Về mặt Nhà nước, trong bản Hiến
pháp đầu tiên năm 1946, do Bác Hồ chỉ đạo soạn thảo, tại Điều 9 đã ghi:
“Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”[11;9]. Có lẽ đây là
lần đầu tiên quyền bình đẳng nam nữ được ghi trong một văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất ở Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập kinh nghiệm của các
nước xã hội chủ nghĩa và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản ở các nước khác.
Từ những năm hai mươi của thế kỉ XX, Hồ Chí Minh đã xác định các Đảng
Cộng sản cần phải xây dựng tổ chức riêng của phụ nữ và thường xuyên chăm
lo xây dựng tổ chức đó vững mạnh để tập hợp, vận động phụ nữ hoạt động
cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ và đấu tranh vì sự tiến bộ
của phụ nữ. Tổ chức phụ nữ ở mỗi nước phải hoạt động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản nước đó và chịu sự chỉ đạo của Phụ nữ quốc tế. Người khẳng
định: “Mỗi Đảng Cộng sản phải có một bộ phụ nữ, trực tiếp thuộc về Phụ nữ
quốc tế”, “…chuyên trách về mặt tuyên truyền, tổ chức và huấn luyện đàn bà
con gái, và giúp về đường giáo dục trẻ con công nông”[6; 289].
Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau, Đảng đã tổ chức ra những đoàn thể phụ nữ mang các tên gọi khác nhau:
Hội phụ nữ giải phóng (1931-1935), Hội phụ nữ phản đế (1936-1938), Hội

phụ nữ dân chủ (1939-1940), Đoàn phụ nữ cứu quốc. Đặc biệt vào ngày 2010-1946 Bác Hồ đã chỉ thị thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tập hợp
thống nhất mọi phụ nữ Việt Nam gia nhập liên đoàn phụ nữ quốc tế. Tờ báo
“Tiếng gọi” (là tiền thân báo Phụ nữ Việt Nam ngày nay) đã ra đời để nói lên
tiếng nói của phụ nữ Việt Nam.

Trang 14


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta ln quan tâm lãnh đạo phát huy vai trị của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, để Hội thực sự là tổ chức đoàn kết các tầng lớp phụ
nữ, phát động và hướng dẫn các phong trào cách mạng của phụ nữ, góp phần
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ cho Đảng, Nhà nước và các đồn thể nhân dân
tích cực tham gia các hoạt động của phụ nữ quốc tế và tranh thủ được sự ủng
hộ to lớn của phụ nữ quốc tế đối với phụ nữ Việt Nam.
Thấm nhuần tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp giải phóng và phát triển phụ nữ, những năm qua Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng đối với sự trưởng thành của các
thế hệ phụ nữ. Vấn đề phụ nữ đã được đưa vào Hiến pháp các năm: 1946,
1960, 1986, 1992 với những điều khoản cụ thể, tạo cơ sở pháp lí quan trọng
cho mọi quyền và nghĩa vụ cho hoạt động của phụ nữ trên mọi lĩnh vực. Vấn
đề phụ nữ cũng được đưa vào các Bộ luật, các Luật như Bộ luật Hình sự
(1986), Bộ luật Dân sự (1994), Luật Hơn nhân và gia đình (1986), Luật Lao
động (1994)… đã có nhiều điều khoản qui định các quyền và bảo vệ quyền lao
động, quyền sống, quyền hạnh phúc của phụ nữ trong cộng đồng. Bên cạnh đó
Đảng, Nhà nước và các cơ quan hữu quan đã có nhiều văn bản tạo điều kiện

và bảo vệ phụ nữ trên nhiều lĩnh vực, nhằm tạo môi trường tốt cho phụ nữ có
điều kiện phát triển.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12-1986) được gọi là Đại
hội đổi mới, với mục tiêu khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng
năng lực sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế - xã
hội, phát huy nhân tố con người. Con người được coi là mục tiêu và động lực
phát triển xã hội. Đại hội đánh giá cao vai trò phụ nữ Việt Nam trong sự
nghiệp chung của đất nước. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đã nêu: “Phụ
nữ nói chung và lao động nữ nói riêng có những đặc điểm cần được chú ý. Để
phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng, cần làm cho
đường lối vận động phụ nữ của Đảng được thông suốt trong cả hệ thống

Trang 15


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

chun chính vơ sản, được cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật….cần có
biện pháp thiết thực tạo thêm việc làm, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, chăm
sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, thực hiện đúng Luật hơn nhân và gia đình. Tạo
điều kiện cho phụ nữ kết hợp được nghĩa vụ của công dân với chức năng làm
mẹ, xây dựng gia đình hạnh phúc” [7;51]
Ngày nay, trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất
nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, trước những thời cơ và thách
thức mới nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, địi hỏi phải phát huy cao hơn bao giờ hết tiềm năng, sức sáng tạo,
nghị lực của mọi tầng lớp xã hội, trong đó có vai trò hết sức quan trọng của
các tầng lớp phụ nữ. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị Quyết số 11-NQ/TW “Về công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết tiếp tục khẳng
định quan điểm đúng đắn của Bộ Chính trị về cơng tác phụ nữ, trong đó nhấn
mạnh đến việc phát huy vai trị, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị
phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ mới”, đồng thời “Xây dựng và phát triển vững chắc
đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách
quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của
Đảng”[13;8]
Hiện nay nước ta bước sang những năm đầu tiên của thế kỉ XXI, trong
bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi. Vấn đề giải phóng phụ nữ
tiếp tục được Đảng ta tăng cường quan tâm lãnh đạo, Chính phủ có chiến lược
và kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ, phong trào phụ nữ quốc tế có
những bước phát triển mới, bình đẳng giới, phát triển và hịa bình tiếp tục là
mục tiêu hành động mang tính chất tồn cầu. Đây chính là những yếu tố ảnh

Trang 16


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

hưởng tích cực tới sự bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ, thúc đẩy phong trào
phụ nữ Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế. Cơ hội dành cho đội ngũ nữ
trí thức trở thành những nhà khoa học cũng được nhân lên từ đây.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X đã nêu lên

quan điểm của Đảng ta về công tác phụ nữ trong tình hình hiện nay. Đó là:
“Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần,
thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trị của
người cơng dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con
người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt
động xã hội, các cơ quan lãnh đạo quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hồn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao
động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu
tranh chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm
nhân phẩm phụ nữ”[5;120]
Gần tám thập kỷ qua kể từ khi có Đảng, phụ nữ Việt Nam đã tạo dựng
nên biết bao truyền thống, đức tính quý báu cho dân tộc Việt Nam, Đảng và
Nhà nước ta mãi mãi ghi ơn, tự hào vì những đóng góp này. Phụ nữ rất xứng
đáng với lời khen mà Đảng và Nhà nước đã phong tặng “Phụ nữ Việt Nam
trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng”. Phát huy truyền thống oanh liệt của
Bà Trưng, Bà Triệu, các thế hệ phụ nữ Việt Nam anh hùng, thế hệ phụ nữ Việt
Nam ngày hôm nay cùng với việc Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi
cho sự tiến bộ của phụ nữ, tin chắc rằng, họ sẽ tiếp tục phấn đấu vươn lên trở
thành những người phụ nữ có trí tuệ, tài năng và phẩm giá cao đẹp, đáp ứng
được yêu cầu của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, cùng dân tộc tiến tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng dân chủ, văn minh”, vì bình đẳng giới - phát triển - hịa bình.

Trang 17


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý


1.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ với phong trào phụ nữ.
1.2.1. Thời kỳ đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đất nước Việt Nam từ bao đời nay với nền văn minh nông nghiệp, dựa
trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp, lại luôn luôn bị kẻ thù
xâm lược đã hun đúc nên truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Họ là những
chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm, là những người lao động trí
óc và lao động chân tay cần cù, sáng tạo, thơng minh, người nghệ sĩ bảo vệ,
giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hóa dân tộc, là người chủ gia đình
dịu hiền, đảm đang, trung hậu, người sản sinh ra những thế hệ anh hùng của
dân tộc anh hùng.
Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức bóc
lột, chịu nhiều bất cơng, nên ln có u cầu được giải phóng và sẵn sàng đi
với cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ đã tham gia
đông đảo vào các phong trào như: phong trào Cần Vương của Phan Đình
Phùng nổi tiếng là cơ Tám, phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu có người
phụ nữ họ Đinh, trong cuộc khởi nghĩa Hồng Hoa Thám có tài trí tuyệt vời
của bà Ba mà khi nghe tên quân thù đã khiếp sợ,… Đến những năm 1927 –
1930 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đơng đảo các
tầng lớp phụ nữ như: Công Hội đỏ, Nông Hội đỏ, các nhóm tương tế, tổ học
nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ: Phụ nữ phản đế, Đồng
minh phụ nữ hiệp hội, Hội phụ nữ giải phóng…
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Đơng Dương thành lập, trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền”. Đảng đã sớm nhận rõ,
phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ Đảng phải
giải phóng phụ nữ gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, phụ nữ
phải tham gia các đồn thể cách mạng (cơng hội, nơng hội) đồng thời phải
thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia
cách mạng. Chính vì vậy vào ngày 20/10/1946 tổ chức phụ nữ Việt Nam đầu


Trang 18


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

tiên được thành lập, với tên gọi “Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam”. Kể từ đó
đến nay, trải qua biết bao thăng trầm, bao sự biến động của lịch sử dân tộc,
phong trào phụ nữ không ngừng trưởng thành và lớn mạnh cùng với chặng
đường phát triển của dân tộc.
Qua các thời kỳ cách mạng, các tổ chức phụ nữ như: Hội phụ nữ giải
phóng (1930 – 1931), Hội phụ nữ Dân chủ (1936 – 1939), Hội phụ nữ Phản đế
(1939 – 1941), Đoàn phụ nữ Cứu quốc (16-6-1941), Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam (6/1976 – khi nước nhà thống nhất). Dù tên gọi có nhiều thay đổi
cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhưng trước sau Hội vẫn là tổ
chức kiên trung của phụ nữ Việt Nam.
Phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có
mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nếu thiếu
vai trò tập hợp, tổ chức, vận động, hướng dẫn của tổ chức Hội thì phong trào
phụ nữ sẽ trở thành phong trào tự phát và không thể có được vai trị, sự đóng
góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng trước đây cũng như sự nghiệp
đổi mới, xây dựng đất nước ngày nay.
Đối với từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hội phụ nữ ln thể
hiện vai trị là tổ chức tập hợp lực lượng chị em phụ nữ, dẫn dắt phong trào
phụ nữ phát triển đi theo những đường lối chiến lược cách mạng do Đảng và
Nhà nước đề ra.
Từ năm 1930 – 1935: đây là thời kỳ Đảng ta mới thành lập, nên mọi tổ
chức và lãnh đạo phong trào của Đảng hồn tồn trong bí mật vì phải đương
đầu với chính sách khủng bố cực kỳ dã man của thực dân Pháp. Do đó, hoạt

động của Hội phụ nữ lúc này đi vào phương thức tổ chức các hội giúp đỡ nhau
như: “Hội cấy”, “Hội gặt”, “Hội tương tế” để tranh thủ tuyên truyền, vận động
phụ nữ. Hình thức hoạt động này của Hội phụ nữ đã tập hợp được số đơng phụ
nữ tham gia và góp phần quan trọng vào đấu tranh chống lại sự áp bức đối với
phụ nữ. Được Đảng giác ngộ và lãnh đạo, nhiều phụ nữ đã thốt ly gia đình,
tham gia hoạt động cách mạng như rải truyền đơn, in ấn tài liệu, giao thông

Trang 19


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

liên lạc, vận động quần chúng đấu tranh…Năm 1930-1931 đã hình thành tổ
chức “Phụ nữ giải phóng” để thu hút đông đảo phụ nữ tham gia vào các cao
trào đấu tranh cách mạng.
Từ năm 1936 – 1939: đây là thời kỳ vận động dân chủ nên tổ chức phụ
nữ lúc này đã chuyển hướng hoạt động mạnh mẽ trong phong trào dân chủ với
tên gọi “Hội phụ nữ dân chủ”. Phụ nữ đã tham gia đấu tranh công khai, hợp
pháp, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng ta, tuyên truyền vận động quần chúng phụ nữ tham gia vào các
tổ chức cách mạng.
Từ năm 1940 -1945: đây là giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa giành chính
quyền cho nên mọi hoạt động của Hội phụ nữ đều tập trung vào các cuộc đấu
tranh lớn nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc. Để phù hợp với tình
hình, Hội lấy tên là “Hội phụ nữ phản đế”. Thời gian này, phụ nữ thốt ly gia
đình, tham gia hoạt động cách mạng ngày càng nhiều, dưới nhiều hình thức
như gây dựng cơ sở cách mạng, nuôi dấu, bảo vệ cán bộ cách mạng, trực tiếp
tham gia vào các cuộc khởi nghĩa, các đội tự vệ, vũ trang tuyên truyền… Khởi

nghĩa Nam Kỳ năm 1940 – 1941 tiêu biểu như: Nguyễn Thị Minh Khai,
Nguyễn Thị Thập, Nguyễn Thị Bảy,… là những tấm gương sáng ngời của phụ
nữ Việt Nam ln sống mãi trong lịng dân tộc. Các hoạt động của Hội phụ nữ
đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Cách mạng Tháng
Tám năm 1945.
Từ năm 1945 – 1954: ngày 20/10/1946 Hội phụ nữ với tên gọi mới là
“Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam” được thành lập, nhằm động viên phụ nữ
tham gia phong trào cách mạng. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ hưởng ứng
lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội phụ nữ
đã phát động các phong trào như: “Phụ nữ tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm” nhằm tự túc, tự cấp về mọi mặt và đóng góp lương thực cho cuộc kháng
chiến; “Phụ nữ học cày, học bừa” nhằm vận động phụ nữ đảm đang công việc
đồng áng để nam giới yên tâm đi bộ đội; ở vùng tạm chiếm có phong trào

Trang 20


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

“Chống bắt lính”; “Vận động binh sĩ trở lại quê hương” và đã có hàng vạn phụ
nữ đi dân công tiếp lương tải đạn, phục vụ các chiến dịch. Nhìn chung những
đóng góp của Hội phụ nữ ở cả hậu phương và tiền tuyến, từ Bắc tới Nam, từ
nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến miền núi đã góp phần to lớn vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Từ năm 1954 – 1975: đây là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.

Ở miền Bắc, để tích cực tham gia vào cơng cuộc khơi phục kinh tế sau
chiến tranh. Tháng 3/1961, Hội phụ nữ đã phát động phong trào thi đua “Phụ
nữ 5 tốt” với nội dung: Đoàn kết, sản xuất, tiết kiệm tốt; Chấp hành chính sách
tốt; Tham gia quản lý tốt; Học tập chính trị, văn hóa, kỹ thuật tốt; Xây dựng
phong trào ni dạy con tốt. Phong trào đã phát triển mạnh mẽ, sâu rộng trong
các tầng lớp phụ nữ đã góp phần thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa và thực
hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965).
Tháng 3/1965, Mỹ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc ác liệt. Ban
chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã phát động phong
trào “Ba đảm đang chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội” với nội
dung: đảm đang sản xuất và công tác; đảm đang gia đình; đảm đang phục vụ
chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Từ phong trào “Ba đảm đang” phụ nữ đã có
những đóng góp to lớn trong sản xuất, công tác. Chị em đã tiến bộ vượt bậc về
mọi mặt và trưởng thành nhanh chóng.
Từ hai phong trào thi đua “Phụ nữ năm tốt” và “Ba đảm đang” do Hội
phụ nữ phát động, phụ nữ miền Bắc đã tích cực hưởng ứng và làm việc trên
tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”. Cả miền Bắc
lúc ấy sôi động như một công trường xây dựng, vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội, vừa chiến đấu chống phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, vừa chi
viện sức người, sức của cho miền Nam giết giặc. Trên khắp các nẻo đường đất

Trang 21


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

nước khẩu hiệu “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, nhiều đội nữ du kích đã lập
cơng lớn bắn hạ máy bay, tàu chiến của Mỹ. Hình ảnh mẹ Suốt trên sơng Nhật

Lệ ngày đêm chèo đị dưới làn bom đạn đưa bộ đội, chiến sĩ qua sông là một
minh chứng cho tinh thần đấu tranh kiên cường của phụ nữ Việt Nam. Trên
mặt trận chi viện miền Nam giết giặc, mười cô gái ngã ba Đồng Lộc, mười hai
cô gái Truông Bồn Nghệ An là những cá nhân, tập thể phụ nữ đã không tiếc
máu xương, tô thắm thêm truyền thống anh dũng của phụ nữ Việt Nam.
Phong trào “Ba đảm đang” thắng lợi, đã khẳng định đường lối công tác
phụ vận của Đảng và của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là hồn tồn đúng, vì nó
tạo điều kiện giải phóng phụ nữ. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã chỉ đạo cụ
thể và đưa phong trào thu được nhiều kết quả. Hội đã động viên cổ vũ, hướng
dẫn các tầng lớp phụ nữ phấn đấu thực hiện “Ba đảm đang”, nghiên cứu đề
xuất với Đảng và Nhà nước các chế độ chính sách đối với phụ nữ để tạo điều
kiện cho chị em phấn đấu vươn lên. Cán bộ, hội viên của Hội là lực lượng
nòng cốt thúc đẩy phong trào phát triển.
Ở miền Nam, trong những năm tháng đau thương uất hận nhất khi luật
10/59 ra đời, Ngơ Đình Diệm lê máy chém trên khắp miền Nam, thực hiện
“thà giết nhầm hơn bỏ sót” nhằm mục đích tiêu diệt cách mạng, trả thù những
người đi kháng chiến, bắt những người phụ nữ phải li khai cộng sản, phải ly dị
chồng, phải xa rời cách mạng. Trước tình hình cách mạng, ngày 8-3-1961 Hội
Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam được thành lập, Hội đã phát động
phong trào thi đua “Phụ nữ năm tốt” khắp miền Nam với nội dung: “Đồn kết
đấu tranh chính trị, vũ trang, binh vận tốt. Lao động, sản xuất, tiết kiệm tốt.
Chăm sóc ni dưỡng thương binh tốt. Học tập văn hóa, chính trị, chun mơn
tốt. Rèn luyện tư cách đạo đức tốt ”.
Phong trào “Phụ nữ năm tốt” của phụ nữ miền Nam và phong trào “Ba
đảm đang” của phụ nữ miền Bắc là phong trào yêu nước nồng nàn và rộng
khắp, lôi cuốn đông đảo phụ nữ hai miền thi đua sản xuất, phục vụ chiến đấu,
góp phần to lớn vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của toàn dân.

Trang 22



Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

Đối với phong trào phụ nữ thế giới, đây cũng là thời điểm mà phụ nữ
Việt Nam có những đóng góp to lớn và nhận được sự ủng hộ tích cực của phụ
nữ tiến bộ ở khắp năm châu.
Ngày 30-4-1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta
đã kết thúc thắng lợi vẻ vang. Miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước được
độc lập, thống nhất, cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 3/1978, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động phong trào “Người phụ nữ mới xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Phong trào đã giáo dục, động viên phụ nữ cả nước
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, thực hiện quyền dân
chủ, bình đẳng chăm lo quyền lợi phụ nữ, trẻ em.
1.2.2. Thời kỳ đổi mới đất nước.
Từ năm 1986, đất nước bước vào thời kì đổi mới, hoạt động của phong
trào phụ nữ Việt Nam cũng cần được đổi mới về nội dung, phương thức hoạt
động cho phù hợp với tình hình. Tháng 3/1989, Hội đã phát động hai cuộc vận
động: “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Ni dạy con tốt, góp phần
hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học” nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp
của phụ nữ là đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và tổ
chức cuộc sống gia đình, khuyến khích chị em, phấn đấu nâng cao trình độ
mọi mặt đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Đến Đại hội Đại biểu Phụ nữ
toàn quốc lần thứ VII Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ chủ trương tiếp tục
thực hiện hai cuộc vận động lớn với các chương trình công tác trọng tâm. Từ
hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Ni dạy con
tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học” đã phát triển thành phong trào
mang ý nghĩa sâu rộng trong thời kỳ mới.
Đầu năm 1993, cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”

đã phát triển cả về bề rộng và bề sâu, cả về lượng và về chất. Nhờ có cuộc vận
động này nạn cho vay nặng lãi đã bị đẩy lùi, Hội phụ nữ đã phối hợp với Cơng
đồn và các ngành kinh tế kỹ thuật, triển khai các hoạt động chuyển giao kỹ
thuật, tìm việc làm, khơi phục ngành thủ cơng, phát triển các trung tâm dạy

Trang 23


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

nghề đã tạo ra việc làm cho phụ nữ thất nghiệp ở vùng nông thôn, thành phố,
thị xã. Từ đó, đã thật sự góp phần vào cơng tác xóa đói giảm nghèo của địa
phương, ngày càng có nhiều phụ nữ vượt nghèo thành cơng, vươn lên làm giàu
chính đáng bằng sức lao động, sáng tạo và nghị lực của chính mình, được
cộng đồng, xã hội tơn vinh.
Cuộc vận động “Ni dạy con tốt góp phần hạn chế trẻ em suy dinh
dưỡng và bỏ học” đã được cụ thể hóa trong chương trình với ba mục tiêu giúp
chị em biết tổ chức cuộc sống gia đình, biết chăm sóc sức khỏe cho bản thân
và con cái, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, liên kết phối hợp các ngành, đồn
thể xã hội chăm sóc bà mẹ và trẻ em, nâng cao chất lượng cuộc sống
Thực hiện hai cuộc vận động này, Hội phụ nữ đã có sự đổi mới vượt bậc
về nội dung và phương thức hoạt động, nội dung thiết thực gắn liền với lợi ích
của phụ nữ nên được chị em tích cực ủng hộ, tạo ra phong trào thi đua rộng rãi
sôi nổi trong phụ nữ cả nước.
Tháng 5/1997, Đại hội phụ nữ lần thứ VIII tiếp tục triển khai thực hiện
năm chương trình trọng tâm và phát động hai phong trào: “Phụ nữ tích cực
học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc” và
“Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”.

Thực hiện hai phong trào và năm chương trình trọng tâm, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam đã thể hiện tốt vai trò đại diện của tổ chức Hội, tham gia có hiệu
quả trong việc xây dựng kế hoạch, luật pháp, chính sách của Nhà nước có liên
quan trực tiếp đến phụ nữ. Cán bộ phong trào bám sát cơ sở, bám sát cuộc
sống, nắm vững yêu cầu và mục tiêu nhờ vậy mà các hoạt động của Hội đã
thực sự mang lại lợi ích thiết thực cho chị em phụ nữ
Sau chặng đường dài cùng với sự đi lên của đất nước, của dân tộc, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam đã trưởng thành và phát triển. Hội đã trở thành một tổ chức chính
trị- xã hội vững mạnh với hệ thống bốn cấp từ Trung ương đến cơ sở, với sự
tham gia đông đảo của hội viên và đội ngũ cán bộ Hội nhiệt tình, năng động đã

Trang 24


Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm

Svth: Trần Phan Như Ý

lãnh đạo phong trào phụ nữ từng bước phát triển và lớn mạnh. Đặc biệt, trong
công cuộc đổi mới đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại
hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ X đã tiếp tục phát động trong các tầng
lớp phụ nữ cả nước phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng
tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Năm chương trình trọng tâm cùng hai
phong trào lớn được triển khai thực hiện đã mang lại lợi ích thiết thực cho phụ
nữ trong cả nước, đồng thời vận động chị em tham gia có hiệu quả các chương
trình quốc gia như chương trình xóa đói giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết
việc làm, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nữ, dân số - KHHGĐ, vệ sinh mơi
trường, phịng chống các tệ nạn xã hội, phịng chống HIV/AIDS…Những
đóng góp của phong trào phụ nữ và hoạt động của các cấp Hội phụ nữ đã góp

phần tích cực vào việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Để đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, các cấp Hội đã đẩy mạnh thực hiện hoạt động tuyên truyền, phổ
biến và vận động phụ nữ thực hiện luật pháp, chính sách, tích cực tham gia
phát triển kinh tế xã hội, xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố. Với những thành tích đạt được qua phong trào phụ
nữ, báo cáo tại Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ X, đã thống kê qua
nhiệm kỳ “…có 32 đơn vị và cá nhân được nhận giải thưởng Phụ nữ Việt
Nam, 57 nữ doanh nhân được nhận giải thưởng Bông hồng vàng và gần 300
phụ nữ tài năng toàn quốc thời kỳ đổi mới...Đó là những thành tích rất đáng tự
hào của toàn thể cán bộ, hội viên và phụ nữ cả nước” [10;42]
Bên cạnh việc đẩy mạnh phong trào phụ nữ trong nước, Trung ương Hội
Liên hiệp Phụ nữ, đã đẩy mạnh công tác quan hệ ngoại giao với tổ chức phụ
nữ của các nước láng giềng và quốc tế góp phần xây dựng tình đồn kết , hợp
tác vì hịa bình, nhân đạo và cơng lý.
Tiếp nối truyền thống phụ nữ Việt Nam, ngày nay trong sự nghiệp đổi
mới, các tầng lớp phụ nữ trong cả nước lại đang tích cực đóng góp tài năng,

Trang 25


×