Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Vai trò của đội ngũ bí thư xã, phường trên địa bàn thành phố cao lãnh tỉnh đồng tháp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.44 KB, 117 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN NGỌC LUÂN LÝ

VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ BÍ THƯ XÃ, PHƯỜNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CAO LÃNH
TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

ĐÔNG THÁP - 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN NGỌC LUÂN LÝ

VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ BÍ THƯ XÃ, PHƯỜNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CAO LÃNH
TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn khoa học: TS LƯƠNG THANH TÂN

ĐÔNG THÁP - 2015


3
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Trường, quý
thầy, cô Khoa Giáo dục Chính trị, Phòng Sau đại học Trường Đại
học Vinh, Trường Đại học Đồng Tháp.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy TS.
Lương Thanh Tân, người trực tiếp hướng dẫn khoa học; Thành ủy,
Ban Tổ chức, Ban tuyên giáo Thành ủy thành phố Cao Lãnh, Ủy
Ban nhân dân Phường 3 đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác giả
trong việc khảo sát, cung cấp số liệu để thực hiện luận văn.
Mặc dù rất cố gắng để hoàn thành nhưng công trình không
thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định, rất mong được
sự nhận xét, đóng góp ý kiến quý báu của quý thầy, cô trong Hội
đồng để công trình được hoàn thiện hơn.
Trân trọng.
Đồng Tháp, tháng

năm 2015

Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Luân Lý


4

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1: VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ, PHƯỜNG

Trang
1
6
6

Ở THÀNH PHỐ CAO LÃNH TỈNH ĐỒNG THÁP
1.1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của xã, phường, các đảng bộ xã, phường và

6

1.2
1.3

đội ngũ bí thư đảng ủy cấp xã, phường hiện nay
Yêu cầu về đội ngũ bí thư đảng ủy cấp xã, phường ở thành phố Cao Lãnh
Thực trạng đội ngũ bí thư đảng ủy xã, phường ở thành phố Cao Lãnh

30
39

1.4


tỉnh Đồng Tháp hiện nay
Đội ngũ bí thư đảng ủy xã, phường ở thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng

50

Tháp - thực trạng, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm
Chương 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM

69

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ BÍ THƯ XÃ, PHƯỜNG
Ở THÀNH PHỐ CAO LÃNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Phương hướng nâng cao vai trò của đội ngũ bí thư xã, phường ở thành

69

phố Cao Lãnh hiện nay
Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ bí thư đảng

73

2.2

ủy xã, phường ở thành phố Cao Lãnh trong giai đoạn hiện nay
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


107
109


5
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và xây dựng đội
ngũ bí thư đảng uỷ cấp cơ sở nói riêng đã được các văn kiện của Đảng đề cập và
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Trong các đề tài và bài viết liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đáng chú ý
là các công trình: "Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo
chính trị chủ chốt cấp cơ sở" của Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1992; Đề
tài nhánh KX.05-11-2005: "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ
chốt chốt cấp cơ sở” năm 1993 do TS Phan Văn Tích làm chủ nhiệm; "Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 do
PGS,TS Nguyễn Phú Trọng và PGS,TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên. Các công
trình này đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mẫu hình người
cán bộ lãnh đạo, những yêu cầu mới và những giải pháp mang tính tổng quát nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt cấp cơ sở trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Liên quan đến đề tài nghiên cứu còn có các công trình tiêu biểu như: Bùi
Đình Phong: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách mạng và sự
thống nhất giữa đức và tài", Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2003; Trần Văn
Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay", Tạp
chí Lý luận chính trị, số 5/2003; Hồ Bá Thâm: "Nâng cao năng lực tư duy của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay", Luận án Tiến sĩ Triết học,
1994; Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Sầm chủ biên: "Xác định cơ cấu và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới", Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Phạm Công Khâm: "Xây dựng đội

ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay", Luận án tiến sĩ Triết học, 2000; Trần Duy Hưng: "Xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn


6
hiện nay", Luận văn thạc sĩ Lịch sử, 2002; Nguyễn Mậu Dựng: "Xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay", Luận án
tiến sĩ Lịch sử, 2000; Nguyễn Căn Côi: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ lịch
sử, 2002; Phan Thị Thúy Vân: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở
thành phố Cần Thơ hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, 2005; Vĩnh Trọng: "Qui hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở", Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 1 và 2/2004; Trần Trung Trực: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, 2005, v.v…
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã có những luận giải có giá trị về
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở, trong đó có vấn đề xây dựng đội
ngũ bí thư đảng uỷ cấp xã, theo các góc độ khác nhau. Đây là những thành
tựu quan trọng, nổi bật được chúng tôi kế thừa để triển khai trong công trình
nghiên cứu về xây dựng đội ngũ bí thư đảng ủy cấp xã, phường. Tuy nhiên,
qua khảo sát tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng, vấn đề xây dựng
và nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ bí thư cấp xã, phường trên địa bàn
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu.
Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay đã và đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn mới cần phải tiếp tục nghiên cứu về xây dựng, phát triển đội ngũ bí
thư nói chung, bí thư đảng ủy xã, phường nói riêng nhằm góp phần thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới.
Cao Lãnh là thành phố trung tâm của Tỉnh Đồng Tháp, có nhiều tiềm

năng, nhưng trước mắt điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Tuy vậy,
với sự quan tâm của Tỉnh ủy và Thành ủy thành phố Cao Lãnh, đội ngũ bí thư
đảng ủy của các xã, phường, trong thành phố đã có bước trưởng thành đáng kể,
là nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định


7
chính trị, quốc phòng và an ninh ở địa phương trong những năm qua. Song, so
với yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay và thời gian tới, đội ngũ cán bộ này còn bất cập về
nhiều mặt: trình độ, năng lực tổ chức thực tiễn, phẩm chất đạo đức, trình độ lý luận
chính trị... Vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm xây
dựng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã, phường trên địa bàn thành Phố Cao Lãnh hiện nay
là vấn đề vừa cần thiết, cấp bách, vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài.
Trên cơ sở trân trọng kế thừa, tiếp thu những thành tựu của các công trình đi
trước, luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề: "Vai trò của đội ngũ bí thư xã,
phường trên địa bàn thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp hiện nay" nhằm góp
phần nâng cao kiến thức đã học và góp phần xây dựng đội ngũ bí thư xã, phường
trên địa bàn thành phố Cao Lãnh ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và luận chứng góp phần làm rõ thêm những luận cứ
khoa học về công tác cán bộ của Đảng ở cơ sở, luận văn khảo sát, đánh giá thực
trạng xây dựng đội ngũ bí thư đảng ủy các xã, phường ở thành phố Cao Lãnh thời
gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
vai trò của đội ngũ bí thư xã, phường của thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
- Làm rõ vị trí, vai trò của đội ngũ bí thư đảng uỷ cơ sở nói chung và đội
ngũ bí thư đảng uỷ cơ sở ở thành phố Cao Lãnh nói riêng trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá đúng thực trạng việc xây dựng đội ngũ
bí thư đảng ủy xã, phường trên địa bàn thành phố Cao Lãnh thời gian qua, chỉ ra
nguyên nhân và bài học kinh nghiệm và xác định những vấn đề cần giải quyết để
tạo cơ sở cho sự phát triển tiếp theo.


8
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai
trò của đội ngũ bí thư xã, phường ở thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp ngang
tầm nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài này, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đội ngũ
bí thư đương chức và kế cận của đảng uỷ các xã, phường của thành phố Cao
Lãnh hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để giải quyết tốt vấn đề trên, luận văn chỉ giới hạn việc nghiên cứu đặc
điểm của các xã, phường; những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của đội ngũ bí
thư xã, phường gắn với đặc điểm văn hóa vùng miền, đặc điểm địa lý, chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
trong công tác xây dựng đội ngũ bí thư đảng uỷ cấp xã, phường ở thành phố
Cao Lãnh trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về cán bộ và công tác cán bộ
của Đảng trong điều kiện có chính quyền.
- Luận văn được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng kết hợp các
phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgic, khảo

sát điều tra xã hội học, phương pháp phân vùng văn hóa, đặc biệt coi trọng
phương pháp tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ nội dung và mục đích của đề tài.

6. Những đóng góp mới của đề tài


9
- Luận văn phân tích và đánh giá đúng thực trạng đội ngũ bí thư đảng uỷ
xã, phường và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ này của thành phố Cao Lãnh.
- Luận văn đề xuất các phương hướng và giải pháp cơ bản có tính khả thi
nhằm góp phần nâng cao vai trò của đội ngũ bí thư xã, phường của thành phố
Cao Lãnh có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển ở địa phương trong
giai đoạn hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp thêm những
luận cứ khoa học cho các cấp uỷ đảng trong tỉnh thực hiện tốt công tác cán bộ ở
cơ sở hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 2 chương:
Chương 1: Vai trò của đội ngũ bí thư đảng ủy xã, phường ở thành phố
Cao Lãnh – những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của
đội ngũ bí thư xã, phường ở thành phố Cao Lãnh trong giai đoạn hiện nay.

B. NỘI DUNG


10

Chương 1

VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ, PHƯỜNG
Ở THÀNH PHỐ CAO LÃNH TỈNH ĐỒNG THÁP
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của xã, phường, các đảng bộ xã, phường
và đội ngũ bí thư đảng ủy cấp xã, phường hiện nay
1.1.1. Quan niệm về xã, phường và cấp xã, phường
Làng xã là đơn vị quần cư chủ yếu của người Việt Nam - một dân tộc vốn
có nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Các tên gọi “làng”, “xã”, “thôn” xuất
hiện từ rất sớm. Theo GS,TS Hoàng Chí Bảo: “Làng: là một từ Nôm, là tiếng
nói dân dã, là ngôn ngữ đời sống trong dân gian đã ăn sâu vào tâm lý, ý thức của
người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó không chỉ là một không gian sinh
tồn, một môi trường kinh tế - sản xuất với nghề trồng lúa nước cổ truyền mà còn
là một không gian xã hội và cảnh quan văn hóa” [2, tr.54]. Cùng với quan điểm
này, nhà nghiên cứu dân tộc học Trần Từ cũng cho rằng: “ “Làng là tế bào
sống của xã hội Việt Nam thời cổ, là sản phẩm tự nhiên tiết ra từ quá trình
định cư và cộng cư của người Việt trồng trọt” [46, tr.35].
Cũng theo GS,TS Hoàng Chí Bảo: “Xã” là một từ Hán, là khái niệm hành
chính, là đơn vị cơ sở của quản lý hành chính, được thừa nhận khi chính quyền nhà
nước phong kiến lúc đó thi hành những cải cách hành chính, biến công xã – làng
Việt cổ - thành đơn vị hành chính cấp cơ sở gọi là “xã” [2, tr.54].
Xã hiện nay là tên gọi chung các đơn vị hành chính thuộc cấp thấp nhất ở
khu vực nông thôn, ngoại thành, ngoại thị của Việt Nam. Thuật ngữ đơn vị hành
chính cấp xã đôi khi được dùng để chỉ toàn bộ cấp đơn vị hành chính thấp nhất
của Việt Nam, nghĩa là bao gồm cả xã, phường và thị trấn.


11
Phường là một đơn vị hành chính cấp thấp nhất của Việt Nam hiện nay,
cùng cấp với xã và thị trấn. Phường là đơn vị hành chính nội thị, nội thành của
một thị xã hay một thành phố trực thuộc tỉnh hoặc của một quận ở thành phố

trực thuộc trung ương.
Hiện nay, để dễ quản lý địa bàn và liên kết các hộ gia đình, mỗi phường
cũng tự chia thành các khu, dưới các khu lại có các tổ. Tuy nhiên, các đơn vị
nhỏ này không thuộc vào cấp đơn vị hành chính chính thức nào của Nhà nước
Việt Nam. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2013, Việt Nam có 1.545 phường.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, cấp xã, phường giữ vị
trí, vai trò hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội và chống ngoại xâm. Xã, phường là nơi cộng đồng dân cư sinh sống, liên
kết chặt chẽ với nhau trong quan hệ kinh tế, xóm làng, họ tộc, hội hè, tín
ngưỡng, giúp đỡ và chia sẽ với nhau trong cuộc sống. Xã được hình thành bởi
các làng; mỗi làng, xã – ngoài những điểm chung về văn hóa, phong tục, tập
quán, còn có những nét riêng, tạo nên sự phong phú, đa dạng cho nền văn hóa
của xã hội Việt Nam.
Trong thời kỳ Bắc thuộc và Pháp thuộc, các chính quyền nhà nước đều xác
định cấp xã là cấp quản lý hành chính ở cơ sở, nằm trong hệ thống quản lý hành
chính lãnh thổ của đất nước. Bộ máy chính quyền cấp xã là công cụ phục vụ đắc
lực cho chính quyền nhà nước cấp trên trong việc cai quản nông thôn. Vì thế, họ
luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố bộ máy chính quyền cấp xã để nắm chắc
ruộng đất và dân đinh ở làng xã mình, khai thác đầy đủ, triệt để các thứ thuế
khóa và nghĩa vụ của dân đinh đối với nhà nước; duy trì và tăng cường sự bóc
lột của chúng đối với nhân dân ta.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, xã, phường trở thành địa bàn đặc biệt
quan trọng, ở đó các tổ chức của Đảng được che chở, bảo vệ và hoạt động tuyên
truyền giác ngộ quần chúng, lôi cuốn họ vào phong trào đấu tranh cách mạng.


12
Khi giành được chính quyền, cùng với việc xây dựng bộ máy chính quyền
Trung ương, tỉnh, huyện, Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng việc xây dựng tổ chức
bộ máy của Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở cấp xã, phường. Vị trí,

vai trò của cấp xã, phường được quy định trong Hiến pháp và nhiều sắc lệnh của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trong các văn kiện Đảng. Hiến pháp
năm 1946 và Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945, Hiến pháp 1959 và nhiều sắc lệnh
của Nhà nước xác định: cấp xã là một cấp nằm trong hệ thống hành chính lãnh thổ
của đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, vị trí, vai trò của cấp xã, phường đã được nâng
lên ở tầm cao mới, thể hiện sâu sắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược. Trong thời kỳ này, xã là căn cứ địa của cách mạng; là nơi
xây dựng và hoạt động của lực lượng du kích, dân quân tự vệ; là nơi cung cấp cho
Đảng những quần chúng ưu tú để tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo
của Đảng.
Số lượng xã là được xác định rõ ràng, thị trấn cũng tương đương với xã,
còn phường ở thành phố là đơn vị hành chính cơ sở, nhiều phường vẫn gắn một
phần với sản xuất và cư dân nông nghiệp, nên cấp cơ sở được gọi chung là cấp
xã, bao gồm cả xã, phường và thị trấn.
Theo Hiến Pháp 1992 (sửa đổi), xã là một cấp quản lý nhà nước trong hệ
thống hành chính 4 cấp của nước ta hiện nay ở khu vực nông thôn với một địa bàn
rộng lớn; xã là cấp cơ sở, chiếm 85% tổng số đơn vị cơ sở ở nước ta. Theo Điều
110 của Hiến pháp năm 2013, tiếp tục khẳng định các đơn vị hành chính của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân chia thành 4 cấp: Nước chia
thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã và
thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị
xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và
thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.


13
Ngày 27-12-2005, Chính phủ ra Nghị định số 159/2005/NĐ-CP về phân loại
đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn để Nhà nước có chính sách phát triển kinh tế
- xã hội, góp phần đảm bảo sự ổn định của đơn vị hành chính cấp xã và nâng cao

hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở, đồng thời làm cơ sở để
xác định số lượng cán bộ, công chức chuyên trách và không chuyên trách; số lượng
thành viên Ủy ban nhân dân; bổ sung chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn.
Cũng theo Nghị định này, các xã, phường, thị trấn được chia thành ba loại
sau:
- Xã, phường, thị trấn loại I: thuộc địa bàn biên giới, hải đảo, có từ 221
điểm trở lên.
- Xã, phường, thị trấn loại II: có từ 141 đến 220 điểm.
- Xã, phường, thị trấn loại III: có từ 140 điểm trở xuống (cách tính điểm
được quy định cụ thể trong Nghị định).
Tiêu chí phân loại trên dựa trên các điều kiện: dân số, diện tích và các yếu
tố đặc thù như dân tộc, tôn giáo và khu vực.
Như vậy, xã, phường, thị trấn là cấp hành chính thấp nhất. Các tổ chức
trong hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn có hai đặc trưng nổi bật: gần dân
nhất và là nơi thực hiện tất cả các nghị quyết, chỉ thị của các tổ chức đảng cấp
trên; các chính sách, pháp luật của Nhà nước; các chương trình, kế hoạch của
chính quyền cấp trên; các chủ trương của các đoàn thể cấp trên, đồng thời xây
dựng và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chương trình công tác của cấp mình.
1.1.2. Những đặc điểm chung của cấp xã, phường
Nói tới cơ sở là nói tới xã - phường - thị trấn, trong đó xã là chủ yếu, chiếm
tới 85% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp cơ sở. Cơ sở và hệ thống chính trị
ở xã là khâu trung tâm cần phải đột phá trong chỉnh đốn và đổi mới hệ thống chính
trị cơ sở. Giải quyết khâu đột phá này, lẽ dĩ nhiên không thể không bàn tới quan hệ
giữa xã và thôn, tới vai trò của Đảng bộ hoặc chi bộ xã, của Mặt trận Tổ quốc ở xã


14
và các đoàn thể, các tổ chức quần chúng cấu thành hệ thống chính trị ở xã, các
phương thức tổ chức, hoạt động cùng các mối quan hệ giữa chúng.

Nhận thức về cấp xã, phường, cần nhấn mạnh tới một số đặc điểm sau
đây:
Thứ nhất, xã, phường là nơi chính quyền trong lòng dân như Đảng ta đã xác
định. Xã, phường là cấp thấp nhất trong các cấp độ quản lý của hệ thống chính
quyền nhà nước nhưng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội.
Thứ hai, xã, phường là nơi diễn ra cuộc sống của dân, nơi chính quyền và
các đoàn thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân
cư để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình.
Nếu dân chủ là người dân làm chủ như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, thì xã,
phường là nơi thể hiện rõ nhất và trực tiếp nhất ý thức và năng lực dân chủ của
dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Chế độ ủy
quyền và những phương tiện, những điều kiện nhằm thực hiện và đảm bảo cho
sự ủy quyền đó phải được bắt đầu từ xã, phường mà nhân dân là chủ thể. Bao
nhiêu quyền hành đều là của dân, bao nhiêu lợi ích cũng thuộc về dân. Quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân. Dân có quyền làm chủ, đồng thời có nghĩa vụ
của người chủ. Do ở xã, phường là nơi làm việc và sinh hoạt hàng ngày của dân
chúng, là nơi thể chế được dân trực tiếp tổ chức nên và dân thường xuyên tiếp
xúc, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với những người đại diện cho mình,
đồng thời dân cũng có điều kiện biết rõ sự hoạt động của thể chế, của con người
và tổ chức bộ máy, mặt hay cũng như mặt dở, mặt tốt cũng như mặt xấu với
những khuyết tật của nó… nên quan hệ và thái độ của dân đối với thể chế ở xã,
phường cho thấy rõ nhất hiện trạng của thể chế nói chung. Động lực, nội lực của
sự phát triển hay vật cản kìm hãm, sự trì trệ và suy thoái được nhận thấy rõ nhất
ngay ở xã, phường. Những yếu kém diễn ra trong thể chế ở xã, phường làm tổn
hại đến uy tín và ảnh hưởng xã hội của thể chế nói chung. Những phản ứng, bất


15
bình của dân đối với cán bộ xã, phường là khởi đầu cho những mất ổn định,
thậm chí trở thành tình huống, thành điểm nóng gây hại tới sự bình yên của chế

độ. Do vậy, mấu chốt của xã, phường là chất lượng cán bộ, là hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị sao cho giữ được dân, làm cho dân yên ổn, phấn
khởi làm ăn, sinh sống, liên kết cộng đồng, quan tâm và bảo vệ thể chế, phát
triển xã hội, phát triển sức dân.
Thứ ba, xã, phường là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ vĩ mô
phải tác động tới. Xã, phường là địa chỉ quan trọng cuối cùng mà mọi quyết
định, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
phải tìm đến. Đường lối, nghị quyết có đi vào cuộc sống thực sự hay không, dân
có được tổ chức hành động trong phong trào rộng khắp để biến khả năng thành
hiện thực hay không; đường lối, chính sách có tác dụng, hiệu quả đến đâu, đúng
sai ra sao được chứng thực bởi cuộc sống, tâm trạng, thái độ, niềm tin và hành
động thực tế của dân chúng. Vì vậy, xã, phường tuy là cấp thấp nhất trong hệ
thống quản lý nhưng có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề sống còn, thành bại
của chế độ. Xã, phường là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là vùng nhạy cảm nhất
của đời sống xã hội, không được xao nhãng mà cần đặc biệt quan tâm, chỉ đạo
thường xuyên. Thực chất của mất xã, phường là mất dân, mà khởi đầu của sự
mất dân là xa dân của cán bộ xã, phường, sự rệu rã của tổ chức bộ máy và sự
hoành hành của nạn quan liêu, tham nhũng làm cho dân đói khổ, bần cùng.
Thứ tư, xã, phường không phải là cấp hoạch định đường lối, chính sách…
xã, phường là cấp hành động, tổ chức hành động, đưa đường lối, nghị quyết, chính
sách vào cuộc sống. Là cấp hành động, tổ chức thực hiện nên cán bộ xã, phường
phải gần dân, hiểu dân, sát dân và năng lực của cán bộ xã, phường là năng lực thực
thi, tổ chức công việc và thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, vận động quần
chúng. Tổ chức bộ máy xã, phường phải thực sự gọn nhẹ, “thà ít mà tốt”, năng
động, nhạy bén, cán bộ xã, phường phải thực sự nhuần nhuyễn lý luận với thực


16
tiễn, sáng tạo một cách thiết thực, biết rõ phương hướng hành động, có bản lĩnh
dám chịu trách nhiệm, có phương pháp và phong cách dân vận “óc nghĩ, mắt nhìn,

miệng nói, tai nghe, chân đi, tay làm” như Hồ Chí Minh đã chỉ ra [32, tr.699]. Biết
làm cho dân tin, dân ủng hộ; biết tập hợp dân thành lực lượng và hoạt động trong
phong trào; phục vụ dân, làm lợi cho dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, đó là tất cả
những gì cán bộ xã, phường cần có.
Các tổ chức của hệ thống chính trị cấp xã, phường là một bộ phận quan
trọng tạo nên hệ thống chính trị ở nước ta. Hệ thống chính trị ở xã, phường
mạnh thì hệ thống chính trị ở cấp huyện, cấp thành phố mới mạnh; là cơ sở, tiền
đề tạo nên sự vững chắc của hệ thống chính trị quốc gia, có sức đề kháng tốt,
vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, đáp
ứng ngày càng cao yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Các tổ chức của hệ thống chính trị cấp xã, phường vững
mạnh, hoạt động có hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ chủ chốt của
hệ thống chính trị cấp xã, phường. Đội ngũ này có chất lượng tốt, năng động,
sáng tạo, có năng lực, phẩm chất đạo đức, phương pháp, phong cách công tác tốt
sẽ làm cho hệ thống chính trị cấp xã, phường vững mạnh.
Ngoài những đặc điểm chung của cấp xã, phường trong cả nước, cấp xã,
phường trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp còn có những đặc
điểm riêng đáng chú ý.
Ngày 23 tháng 2 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban
hành Quyết định số 13-HĐBT về việc thành lập thị xã Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng
Tháp: Thành lập thị xã Cao Lãnh trên cơ sở tách thị trấn Cao Lãnh và các xã Hòa
An, Mỹ Trà, Mỹ Tân của huyện Cao Lãnh; Thành lập 4 phường của thị xã Cao
Lãnh là phường 1, phường 2, phường 3 và phường 4 (trên đất của thị trấn Cao
Lãnh cũ); Thị xã Cao Lãnh gồm có các phường 1, phường 2, phường 3, phường
4 và các xã Hoà An, Mỹ Trà, Mỹ Tân.


17
Ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt
Nam ban hành Quyết định số 36/HĐBT về việc điều chỉnh địa giới hành chính

các huyện Cao Lãnh, Thạnh Hưng và các thị xã Cao Lãnh, Sa Đéc thuộc tỉnh
Đồng Tháp. Tách 3 xã Tân Thuận Tây, Tịnh Thới và Tân Thuận Đông; 5 ấp của
xã Tân Nghĩa; ấp 4, ấp 5 của xã Phương Trà và một phần ấp 5 của xã Phong Mỹ
với tổng diện tích tự nhiên 6.380 hécta và 52.459 nhân khẩu của huyện Cao
Lãnh để sáp nhập vào thị xã Cao Lãnh. Thị xã Cao Lãnh gồm 4 phường, 7 xã, có
9.624 hécta diện tích tự nhiên với 104.193 nhân khẩu.
Ngày 29 tháng 4 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định
số 36-CP về việc di chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp từ thị xã Sa Đéc về thị xã
Cao Lãnh. Cuối năm 2003, thị xã Cao Lãnh có 6 phường và 7 xã.
Ngày 30 tháng 11 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định
số 194/2004/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập phường
thuộc các thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp như sau: Thành lập phường Hòa Thuận
thuộc thị xã Cao Lãnh trên cơ sở 229,20 ha diện tích tự nhiên và 5.309 nhân khẩu
của xã Hòa An. Phường Hòa Thuận có 229,20 ha diện tích tự nhiên và 5.309 nhân
khẩu; Thành lập phường Mỹ Phú thuộc thị xã Cao Lãnh trên cơ sở 263,70 ha diện
tích tự nhiên và 7.490 nhân khẩu của xã Mỹ Trà. Phường Mỹ Phú có 263,70 ha
diện tích tự nhiên và 7.490 nhân khẩu. Tháng 8 năm 2005, thị xã Cao Lãnh
được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại 3 trực thuộc tỉnh Đồng Tháp.
Ngày 16 tháng 1 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định
số 10/2007/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng
Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực
thuộc của thị xã Cao Lãnh. Thành phố Cao Lãnh có 10.719,54 ha diện tích tự
nhiên và 149.837 nhân khẩu, có 15 đơn vị hành chính, gồm các phường: 1, 2, 3,
4, 6, 11, Hoà Thuận, Mỹ Phú và các xã: Mỹ Tân, Hoà An, Tịnh Thới, Tân
Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Mỹ Trà, Mỹ Ngãi.


18
Về mặt lịch sử, thành phố Cao Lãnh là thành phố trẻ. Hiện nay, các xã,
phường trên địa bàn thành phố Cao Lãnh đang được tiếp tục xây dựng và phát

triển. Tất cả các xã, phường hiện nay đều có đường ô tô đến trụ sở xã, phường,
đảm bảo giao thông xã liền xã, ấp liền ấp. Các xã, phường đều có trạm y tế, có
trường tiểu học, trường trung học cơ sở, một số phường có trường trung học phổ
thông, trường cao đẳng và trường đại học đóng trên địa bàn phường. Số lượng
hộ nghèo và cận nghèo ngày càng giảm.
Sự chuyển biến trong nhận thức của nhân dân các xã, phường về sự phát
triển của gia đình, quê hương ngày càng đúng hướng và tiến bộ. Các gia đình đã
biết coi trọng việc học tập của con cái, tích cực góp công, góp của xây dựng làng
quê ngày càng giàu đẹp, có ý thức trong việc bảo vệ tài nguyên môi trường ở địa
phương, không còn tình trạng dựng cầu tiêu trên sông hay khai thác bừa bãi các
nguồn thủy sản.
Ở thành phố Cao Lãnh có 3 dân tộc sinh sống đan xen, sẵn sàng tương
trợ nhau lúc khó khăn, trong đó dân tộc Kinh chiếm trên 90% dân số, người Hoa
và người Khơme chiếm gần 10% dân số.
Theo Chi cục Thống kê Đồng Tháp, năm 2013, dân số thành phố Cao
Lãnh là 161.292 người, mật độ 1.508 người/km². Thành phố Cao Lãnh là một
thành phố, đồng thời là tỉnh lỵ của Đồng Tháp. Đây còn là một trong các trung tâm
của vùng Đồng Tháp Mười, có thể xem là điểm tựa và cơ sở hậu cần cho sự phát
triển bền vững của một trong sáu vùng kinh tế lớn của Đồng bằng sông Cửu Long.
Cao Lãnh từng là tỉnh lỵ của tỉnh Kiến Phong cũ trong giai đoạn 1956-1975 dưới
thời Việt Nam Cộng hòa. Năm 1976, tỉnh Đồng Tháp được thành lập. Ban đầu, thị
xã Sa Đéc cũ giữ vai trò là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp trong suốt giai đoạn 19761994, và sau đó theo Nghị định số 36-CP ban hành ngày 29 tháng 4 năm 1994, tỉnh
lỵ tỉnh Đồng Tháp lại dời về thị xã Cao Lãnh (ngày nay là thành phố Cao Lãnh)
cho đến nay. Năm 2007, Cao Lãnh chính thức trở thành thành phố trực thuộc
tỉnh Đồng Tháp.


19
Trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, số lượng các phường chiếm tỷ lệ lớn
hơn so với các xã, có 10.560 hội viên nông dân (10.506/151.644 dân số toàn

thành phố) chiếm 6,92% dân số toàn thành phố. Toàn thành phố Cao Lãnh có
10.791,5 ha đất, trong đó có 6.900 ha đất nông nghiệp, chiếm 64,1%. Phần lớn cư
dân nông thôn trên địa bàn thành phố Cao Lãnh hiện nay vẫn còn nghèo, đời sống
khó khăn; hầu hết diện tích nông nghiệp còn độc canh cây lúa. Mặc dù ở một số
xã, phường trên địa bàn thành phố, nông dân đã rất cố gắng sản xuất từ 2 đến 3 vụ
lúa – màu trong năm, vòng quay của đất tăng nhanh, kết hợp trồng trọt và chăn
nuôi với các mô hình như VAR (vường, ao, ruộng), VAC (vường, ao, chuồng),
các trang trại quy mô nhỏ, đưa cây màu xuống ruộng… nhưng do thu nhập không
ổn định, lúc trúng mùa thì lại rớt giá, đầu ra của sản phẩm không ổn định nên đời
sống của nông dân vẫn còn nhiều khó khăn, tụt hậu ngày càng xa so với các tỉnh,
thành phố trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Người lao động thiếu việc làm, trình độ dân trí chưa cao, đội ngũ trí thức
trực tiếp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn rất ít;
kết cấu hạ tầng ở nông thôn kém, hiệu quả sử dụng đất đai, năng suất lao động
thấp; một bộ phận nông dân không có đất sản xuất phải đi làm thuê, làm mướn.
Mặt khác, một số nơi trên địa bàn thành phố Cao Lãnh hiện nay còn tốn tại các
tệ nạn như: số đề, đá gà, mại dâm và các tập tục lạc hậu như: mê tín dị đoan, bói
toán, cầu hồn, lên đồng; những vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh như: lấy chồng
ngoại, xuất khẩu lao động trái phép đã gây nên khó khăn, phức tạp không nhỏ
cho hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ cấp xã.
1.1.3. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với các đảng
bộ xã, phường ở thành phố Cao Lãnh hiện nay
1.1.3.1. Vai trò của đảng bộ xã, phường trên địa bàn thành phố Cao Lãnh


20
Về mặt tổ chức, hệ thống chính trị ở xã, phường bao gồm ba bộ phận cấu
thành là tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận bao gồm Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Nông dân
và Hội Cựu chiến binh.

Tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường là nền tảng của đảng ở xã, phường.
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đại hội X của Đảng thông qua
(được Đại hội XI sửa đổi, bổ sung) đã quy định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ
sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Ðảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Như vậy,
tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường là nền tảng của Đảng ở xã, phường. Điều này
bắt nguồn trực tiếp từ học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quyết
định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về vai trò của giai cấp công nhân lực lượng chủ yếu của cách mạng vô sản và là người lãnh đạo xã hội trong thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường có vai trò hạt nhân trong lãnh đạo chính
trị, lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở, bảo đảm cho đường lối, chính sách của
Đảng được cụ thể hóa và được thực hiện thắng lợi. Tổ chức đảng ở xã, phường
có vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động trong xã, phường, lãnh đạo
chính quyền và các đoàn thể quần chúng.
Tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường là nơi giáo dục, rèn luyện đảng viên và
phát triển Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng là nơi giáo dục lý tưởng cách mạng, rèn
luyện ý chí, trau dồi quan điểm, lập trường cách mạng cho đảng viên ở nông
thôn, động viên đảng viên tham gia các phong trào giữ gìn an ninh, trật tự, phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương; là nơi vận động và bồi dưỡng những người
ưu tú, xuất sắc trong phong trào quần chúng, kết nạp họ vào Đảng nhằm xây
dựng, phát triển, tăng cường số lượng và sức chiến đấu của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng và
là chỗ dựa đáng tin cậy của quần chúng nhân dân ở cơ sở. Bằng việc đưa đường
lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống ở xã, phường, tổ chức quần chúng thực


21
hiện thắng lợi đường lối chủ trương, của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; phát triển lực lượng đảng viên mới trong quần chúng, các tổ chức Đảng ở
xã, phường thực sự là “một đơn vị chiến đấu cơ bản” của Đảng, là hạt nhân lãnh
đạo của hệ thống chính trị và là chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân ở cơ sở.

Thành phố Cao Lãnh hiện có 15 đảng bộ xã, phường, chiếm 23,43 % trong
tổng số các đảng bộ cơ sở của thành phố Cao Lãnh. Mặc dù số lượng đảng bộ xã,
phường chiếm tỷ lệ không lớn so với tổng số đảng bộ của toàn thành phố, song các
đảng bộ cấp xã, phường ở thành phố Cao Lãnh có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp nói chung.
Các đảng bộ này là nền tảng của đảng bộ ở tất cả các xã, phường trên địa bàn thành
phố Cao Lãnh; là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng; nơi
thể hiện sự gắn bó giữa Đảng và nhân dân, đặc biệt là giai cấp nông dân.
Các đảng bộ xã, phường là những đơn vị chiến đấu, đại diện cho lập
trường của giai cấp công nhân ở cơ sở, lãnh đạo và định hướng giải quyết mọi
vấn đề ở cơ sở theo quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là các vấn đề nông
dân, nông nghiệp và nông thôn. Đó còn là nơi đúc kết những kinh nghiệm, nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân phản ánh với Đảng, để Đảng
sửa đổi, bổ sung đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng đúng đắn, hoàn
thiện hơn.
Vai trò của các đảng bộ xã, phường còn thể hiện ở chỗ quán triệt và vận
dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và của cơ quan cấp trên cho phù hợp với đặc điểm của địa
phương; đề ra chủ trương, phương hướng công tác của Đảng bộ. Trong quá trình
tổ chức thực hiện, các đảng bộ xã, phường phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, lựa
chọn cán bộ đưa ra ứng cử hoặc giới thiệu họ với các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị ở cơ sở để bố trí, sử dụng; tiến hành kiểm tra, giám sát các hoạt
động ở cơ sở nhằm kịp thời phát huy những điển hình tiên tiến và ngăn chặn
những mặt yếu kém, tiêu cực.


22
Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng, giữa các đảng bộ xã và các đảng bộ
phường cũng có những đặc điểm cơ bản khác nhau. Cụ thể:
- Đảng bộ xã là tổ chức cơ sở đảng được thành lập ở nông thôn, thường

địa bàn rộng, mật độ dân cư thưa, nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông, kết
cấu hạ tầng nông thôn chưa phát triển, dân trí còn thấp.
- Đảng bộ phường là tổ chức cơ sở đảng được thành lập nơi tập trung dân
cư, thường là những trung tâm chính trị, kinh tế, hành chính của thành phố, của
tỉnh, là đầu mối giao thông, lưu thông quan trọng; nhân dân chủ yếu sống bằng
kinh doanh thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp; kết cấu hạ tầng ở phường
tương đối được đầu tư phát triển hơn; trình độ dân trí tương đối cao hơn.
Do đó, trong khi thực hiện nhiệm vụ, các đảng bộ xã, phường cần chú ý
đặc điểm của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng và từng địa phương.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của các đảng bộ xã, phường
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX thông qua đã quy định nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng:
- Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đề
ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo có hiệu quả.
- Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng
sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý
cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình
độ kiến thức năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
- Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.


23
- Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và

pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức đảng,
đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Tùy lúc, tùy nơi, các đảng bộ cơ sở có những yêu cầu, nhiệm vụ riêng,
song về cơ bản, các tổ chức cơ sở đảng nói chung và các đảng bộ xã, phường nói
riêng, phải lấy những nhiệm vụ trên làm nền tảng. Những nhiệm vụ trên có mối
liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Do đó, trong hoạt động thực tiễn, không
được xem nhẹ nhiệm vụ nào. Căn cứ những đặc điểm riêng của từng đơn vị cơ
sở, các đảng bộ cần quán triệt và vận dụng sáng tạo quy định của Đảng về chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng cơ sở, xác định các vấn đề trọng tâm, tập trung
chỉ đạo có kết quả để thúc đẩy phát triển toàn diện.
Ngày 3-3-2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành các
Quy định số 94-QĐ-TW và 95-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ,
chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, trong đó nêu rõ: Tổ chức cơ sở đảng ở các xã,
phường, thị trấn là hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ
sở. Đảng bộ cơ sở xã, phường, thị trấn cần nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế
là trung tâm, nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; lãnh đạo nhân dân địa
phương thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống,
phục vụ nhân dân; khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao
trình độ dân sinh, dân trí, văn hóa và dân chủ ở cơ sở. Đây là nơi thể hiện toàn
diện, trực tiếp và cụ thể nhất mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân; là
nơi nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội ở cơ sở.


24
1.1.3.3. Yêu cầu đặt ra đối với các đảng bộ xã, phường hiện nay
Các tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường phải thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, thật sự là hạt nhân

chính trị lãnh đạo chính quyền, các đoàn thể và nhân dân thực hiện tốt chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở. Các tổ
chức cơ sở đảng ở xã, phường phải lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở;
chăm lo xây dựng chính quyển, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vững
mạnh, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị
hướng vào xây dựng địa phương vững mạnh toàn diện, phục vụ nhân dân, đưa
đường lối, chính sách của Đảng đến mọi người dân, kịp thời nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, khơi dậy nguồn lực và trí tuệ của dân. Phải xác định rõ
chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng, chức năng quản lý của chính quyền và vai trò
trách nhiệm của các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở; tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với chính quyền, các đoàn thể nhưng không bao biện, làm thay công việc
của chính quyền, đoàn thể. Xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa bí thư cấp
ủy với chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân, chủ tịch Mặt trận Tổ
quốc và những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân để bàn và giải quyết kịp thời
những công việc quan trọng, bức xúc trên địa bàn, những vấn đề lớn có quan hệ tới
cuộc sống, quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phương.
Tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị,
lãnh đạo tư tưởng, kiên quyết đấu tranh khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính
trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Triển khai sâu rộng việc giáo dục, rèn
luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên mà nội dung cơ bản là học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tạo dư luận xã
hội rộng lớn trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phê phán chủ nghĩa cá nhân; đề
cao cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; nêu gương người tốt, việc tốt. Kiên
quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tư tưởng cá nhân,
cơ hội, thực dụng, cục bộ địa phương trong cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm những


25
cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục thực
hiện có kết quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xác định rõ tiêu chuẩn,

đạo đức, lối sống, tác phong công tác cần xây dựng và những biểu hiện tiêu cực,
việc làm sai trái thường gặp trong từng ngành, địa phương cần đấu tranh, ngăn
chặn, khắc phục, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên tham những, tiêu cực và
những người bao che hành vi tham nhũng, bất cứ người đó là ai, ở cương vị nào.
Đối với thành phố Cao Lãnh, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với các đảng
bộ cấp xã, phường cũng chính là phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nội bộ
đảng trong sạch, vững mạnh, đảm bảo được vai trò lãnh đạo ở từng xã, phường
trên địa bàn thành phố.
Đối với các xã trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, nông thôn và nông dân
ngày nay vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và chế biến thủy sản,
phát triển một số ngành nghề thủ công truyền thống… Do vậy, yêu cầu bao trùm
trong hoạt động của các đảng bộ xã là phải quan tâm tìm hiểu, đi sâu sát với các
lĩnh vực hoạt động kinh tế của nông dân, từ đó có cơ chế, chính sách khuyến
nông, khuyến ngư kịp thời, đầu tư vốn, hỗ trợ khoa học – kỹ thuật, cây, con
giống, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế trong nông thôn, không ngừng củng cố và đổi mới hình thức tổ chức,
phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế hộ gia đình, khuyến khích, động viên, hổ trợ hộ sản xuất kinh
doanh giỏi, làm giàu chính đáng, đi dần đến xóa hoàn toàn số hộ nghèo.
Đối với các phường trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, nông thôn và nông
dân vẫn chiếm một tỷ lệ không nhỏ, do vậy, hoạt động của các đảng bộ phường
cũng tương tự như ở các đảng bộ xã trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, trên địa
bàn các phường ở thành phố Cao Lãnh, nhân dân chủ yếu sống bằng kinh doanh
thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp… do vậy, các đảng bộ phường lãnh
đạo thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo nghị
quyết của đại hội đảng bộ phường và của cấp trên, tạo mọi điều kiện thuận lợi để


×