Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Vai trò của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở huyện quan hóa, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.02 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ LƯỢNG

VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở HUYỆN QUAN HÓA, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ LƯỢNG

VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở HUYỆN QUAN HÓA, TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG


NGHỆ AN - 2015


2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Trường Đại học Vinh, tôi đã nhận được rất
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ phía Nhà trường, Thầy cô và đồng nghiệp.
Nhân dịp luận văn được bảo vệ, tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới
PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng, người đã định hướng đề tài và trực tiếp hướng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị, Phòng
Đào tạo Sau Đại học, Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào Trường Đại học Vinh; Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện
Quan Hóa - tỉnh Thanh Hóa cùng gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã tận tâm
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện song luận văn sẽ không
tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các Thầy cô giáo, các
anh chị và các bạn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2015

Phạm Thị Lượng


3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa..........................................................................................................................
Lời cảm ơn..............................................................................................................................
Mục lục...................................................................................................................................
Danh mục các chữ viết tắt.......................................................................................................


A. MỞ ĐẦU......................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................
2. Mục đích nghiên cứu...............................................................................
3. Nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.........................
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn............................................
B. NỘI DUNG.................................................................................................14
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI...................................................14
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài..................................................
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí của
chính quyền cấp xã..............................................................................
1.3. Vai trò của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới..........
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP
XÃ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN QUAN HÓA,
TỈNH THANH HÓA.......................................................................................38
2.1. Khái quát về đặc điểm tình hình của huyện Quan Hóa........................
2.2. Thực trạng về vai trò của chính quyền cấp xã huyện Quan Hóa
trong xây dựng nông thôn mới............................................................
2.3. Những vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của chính quyền
cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Quan Hóa, tỉnh
Thanh Hóa...........................................................................................
Tiểu kết chương 2........................................................................................
Chương 3 GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP
XÃ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN QUAN HÓA,. .69


4
TỈNH THANH HÓA.......................................................................................69

3.1. Tăng cường sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị cấp xã
nhằm phát huy vai trò chính quyền trong xây dựng nông thôn
mới.......................................................................................................
3.2. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.................................................
3.3. Nâng cao hiệu quả phát huy vai trò của nông dân, vận động các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh ở huyện Quan Hóa tích
cực tham gia xây dựng nông thôn mới................................................
3.4. Phát huy vai trò chủ thể của người dân................................................
Tiểu kết chương 3........................................................................................
C. KẾT LUẬN................................................................................................91
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................94


5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


6
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn là vấn đề chiến lược
trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh
nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, chính phủ trông
mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân
ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh” . Nước ta
hiện nay, sau hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước vẫn là một nước nông
nghiệp với hơn 70% dân cư đang sống ở nông thôn. Phát triển nông
nghiệp nông thôn đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu, có vai trò
quyết định đối với việc ổn định kinh tế, xã hội của đất nước. Nghị quyết
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định mục tiêu xây
dựng nông thôn mới là: Xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ,
công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù
hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại. Quán
triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương lần thứ VII (khóa X) ra
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 đã nêu một cách
toàn diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết
khẳng định: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn, có vị
trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”
[3, tr 1]. Chính vì vậy các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải
được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hoá đất nước.
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn
để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình

của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông


7
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hóa, môi trường và an
ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của
người dân được nâng cao. Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách
mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới
không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là vấn đề kinh tế - chính trị, giúp
cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết cùng nhau
phát triển đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần, dân chủ, văn minh.
Thực hiện đường lối của Đảng, Nghị quyết của chính phủ, trong thời
gian qua, phong trào xây dựng nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các
địa phương trên cả nước, thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy
được sức mạnh của xã hội nói chung và huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa nói
riêng. Vì vậy, quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Quan Hóa, tỉnh
Thanh Hóa đã đạt được thành tựu khá toàn diện. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội cơ bản đảm bảo, tạo sự thuận lợi trong giao lưu buôn bán và phát triển sản
xuất; kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ,
ngành nghề, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả gắn với xây dựng
nông thôn mới, nâng cao thu nhập và đời sống vật chất tinh thần cho người
dân; hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường; dân chủ cơ
sở được phát huy; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; vị
thế của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao. Những thành tựu đó
đã góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn ở huyện Quan Hóa và góp phần vào
thành tựu phát triển - xã hội của huyện.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Quan Hóa,
tỉnh Thanh Hóa còn bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế, như: Công tác quy
hoạch còn bất cập, thiếu tính khả thi; đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về
năng lực, nên trong quá trình triển khai còn lúng túng; công tác huy động

vốn gặp nhiều khó khăn; nhận thức của người dân còn mơ hồ trong việc
thực hiện chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước… Tất cả những vấn đề đó


8
có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân chủ yếu là do
chính quyền cấp xã ở huyện Quan Hóa chưa phát huy vai trò của mình
trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn mang tầm chiến lược
quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Cho đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về vai trò của chính quyền cơ sở trong xây dựng nông thôn
mới. Qua nghiên cứu, tìm hiểu của học viên, có một số công trình tiêu biểu
như sau:
* Nhóm công trình nghiên cứu về vai trò của chính quyền xã
(cấp cơ sở) trong phát triển kinh tế - xã hội
- TS. Lưu Minh Trị, “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở
nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, năm 1993.
- Đặng Thị Hiền, “Đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở
nông thôn (thông qua khảo sát thực tế của tỉnh Tuyên Quang) ”, Luận văn
thạc sĩ khoa học chuyên ngành Triết học, 1993.
- GS.TS. Phạm Ngọc Quang, “Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị
nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động”, Tạp chí
Triết học, số 3 năm 1996.
- GS. Nguyễn Đức Bình, GS. PTS. Trần Ngọc Hiên, GS. Đoàn
Trọng Truyến, Nguyễn Văn Thảo, PGS. PTS Trần Xuân Sầm (đồng chủ
nhiệm), “Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai
đoạn mới” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
- PGS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), “Hệ thống chính trị cấp cơ sở
và dân chủ hoá đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số

các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
- TS. Vũ Hoàng Công, “Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng
và giải pháp”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.


9
- TS. Đặng Đình Tân, “Chính quyền cấp xã - những vấn đề đặt ra
hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Đặc san số
3 năm 2002.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm
Ban chấp hành Trung ương khoá IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- GS.TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên), “Hệ thống chính trị ở cơ sở
nông thôn nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
- TS. Chu Thái Thành (chủ biên), “Hệ thống chính trị cơ sở - Thực
trạng và một số giải pháp đổi mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Luận án tiến sĩ của Đàm Bích Hiên, “Hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay” (2008).
Nơi bảo vệ: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Các công trình này đã nghiên cứu trực tiếp hệ thống chính trị ở cơ
sở từ các góc độ khác nhau trên cơ sở khái niệm hệ thống chính trị; định
nghĩa khái niệm hệ thống chính trị và khái quát những đặc điểm, xu
hướng vận động, vị trí, vai trò; phân tích thực trạng và những bất cập của
hệ thống chính trị ở cơ sở, tìm nguyên nhân và đề xuất các giải pháp đổi
mới ở nước ta hiện nay. Những tri thức mà các nhà khoa học rút ra ở đây
có ý nghĩa khoa học và và là cơ sở cần được kế thừa để tác giả hoàn thành
nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
* Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới
- Tô Xuân Dân (Chủ biên), Lê Văn Viện, Đỗ Trọng Hùng (2013):
“Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam: Tầm nhìn mới, tổ chức quản lý

mới, bước đi mới”, Nxb Nông nghiệp, đã cung cấp cho chúng ta những
kiến thức cơ bản về nông nghiệp, nông dân, nông thôn mới ở Việt Nam
trên một số khía cạnh: tầm nhìn, bước đi, mô hình tổ chức, nguồn lực và
một số kỹ năng cần thiết đối với cán bộ quản lý nông thôn mới ở cơ sở. Vì


10
vậy, đây là cơ sở lý luận để luận văn thấy được vai trò của chính quyền
cấp cơ sở trong việc xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
- Vũ Văn Phúc (Chủ biên), Hồ Xuân Hùng, Phạm Tất Thắng…,
“Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb
CTQG, H. 2012. Tài liệu này tập hợp một số bài viết nghiên cứu về các
vấn đề lý luận chung, kinh nghiệm quốc tế trong quá trình xây dựng nông
thôn mới và thực tiễn xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam thời gian qua.
Tài liệu này sẽ cung cấp cho luận văn những vấn đề lý luận về xây dựng
nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
- Đoàn Quang Thiệu: “Phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp là nội
dung cơ bản để xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển
(2009). Số 145. tr. 51-53. Bài viết khẳng định việc phát triển nông - lâm
nghiệp hiện nay ở nước ta là nội dung cơ bản để hoàn thành mục tiêu xây
dựng nông thôn mới.
- Nguyễn Hồng Chuyên (2013), “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới”, Nxb Tư pháp, H. Cuốn sách
này giới thiệu một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới. Trình
bày chủ trương, đường lối của Đảng, chính quyền, pháp luật của Nhà
nước về thực hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nông thôn mới. Phân tích
lý luận vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng
nông thôn mới. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp
xã phục vụ xây dựng nông thôn mới qua thực tế của tỉnh Thái Bình. Đề
xuất các giải pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về

dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
- Nguyễn Anh Thuỳ, “Tài liệu hỏi - đáp xây dựng nông thôn mới cấp
xã”, sách viết về những câu hỏi đáp về những nguyên tắc cơ bản xây dựng
nông thôn mới cấp xã theo Quyết định 491 của Thủ tướng Chính phủ.
- Dương Chí Thiện (2012), “Vai trò và những đóng góp chủ yếu của
các tổ chức xã hội tự nguyện trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam


11
hiện nay”, Tạp chí Xã hội học. Bài viết đã chỉ ra một số tổ chức xã hội tự
nguyện ở nông thôn hiện nay, chỉ ra vai trò của các tổ chức này trong việc
xây dựng nông thôn mới.
- Trần Minh Yến (Chủ biên), Nguyễn Việt Anh, Đào Thị Hoàng
Mai.... “Xây dựng nông thôn mới - Khảo sát và đánh giá”, Nxb. KHXH
2013, Cuốn sách trình bày một số lý luận và thực tiễn về xây dựng nông
thôn mới, khảo sát thực trạng và đánh giá bước đầu về quá trình thực hiện
xây dựng nông thôn mới, những kiến nghị và kết luận về chương trình xây
dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
- Lê Thị Hiền, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Lê Thị Hồng Phúc: “Phát
huy dân chủ để xây dựng nông thôn mới”, Nxb. Văn hóa dân tộc 2013, cuốn
sách gồm 15 câu hỏi và đáp những vấn đề cơ bản trong xây dựng nông thôn
mới cũng như việc phát huy dân chủ để xây dựng nông thôn mới.
- Thuỳ Linh, Việt Trinh, hệ thống hóa, “Hướng dẫn thực hiện bộ
tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới 2014: Có hiệu lực kể từ ngày
20-11-2013”, Nxb Nông nghiệp, H. 2013. Hướng dẫn thực hiện bộ tiêu
chí quốc gia về nông thôn mới. Các văn bản chỉ đạo thực hiện chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Giới thiệu bộ quy chuẩn
quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Cơ chế đầu tư, hỗ trợ nông dân phát
triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Hướng dẫn quản lý, sử dụng kinh
phí ngân sách nhà nước và kiểm toán chương trình mục tiêu quốc gia về

xây dựng nông thôn mới.
Từ kết quả khảo cứu tài liệu nghiên cứu nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu
vai trò của chính quyền cơ sở huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa trong xây
dựng nông thôn mới chưa có công trình nghiên cứu. Vì vậy, tác giả chọn vấn
đề: Vai trò của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở huyện
Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Chính trị học.


12
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ vai trò và thực trạng của chính quyền cơ sở
trong việc xây dựng nông thôn mới ở huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa,
luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của
chính quyền cấp xã trong việc xây dựng Nông thôn mới ở huyện Quan
Hóa hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Trình bày khái quát một số vấn đề lý luận chung về xây dựng nông
thôn mới và vai trò của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
- Phân tích thực trạng vai trò của chính quyền cấp xã trong việc xây
dựng nông thôn mới ở huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của chính
quyền cấp xã ở huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa trong việc xây dựng
nông thôn mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của chính quyền cơ sở (Hội đồng nhân dân xã, Ủy ban nhân
dân xã) trong việc xây dựng nông thôn mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Vai trò của chính quyền cấp xã trong việc xây dựng nông thôn mới
ở huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các văn kiện Đại hội
Đảng và các hội nghị Trung ương; các công trình khoa học trong và


13
ngoài nước đã nghiên cứu, công bố trên các phương tiện thông tin đại
chúng về vấn đề này...
Luận văn sử dụng những Chỉ thị, Nghị quyết, quyết định cùng các
tài liệu khác về xây dựng nông thôn mới được cung cấp từ Huyện Ủy, Hội
đồng nhân nhân, Uỷ ban nhân dân huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp cùng các phương pháp nghiên cứu
khoa học khác như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử và lôgíc, trừu tượng
và cụ thể, điều tra xã hội học, so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Góp phần làm sáng tỏ nét riêng về vai trò của chính quyền cấp xã trong
việc xây dựng nông thôn mới; tầm quan trọng của việc xây dựng nông thôn
mới ở huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, đưa ra giải pháp để phát huy
vai trò của chính quyền cấp xã trong việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta
nói chung, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm cơ sở lý luận cho cấp
ủy chính quyền cấp cơ sở nghiên cứu, xây dựng kế hoạch xây dựng nông thôn
mới ở các địa phương có đặc điểm tương đồng với huyện Quan Hóa, tỉnh

Thanh Hóa. Đồng thời, làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy,
bồi dưỡng vấn đề có liên quan ở các trường Chính trị tỉnh, các Trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện.


14
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm chính quyền cấp xã
Hiến pháp 2013 “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; Thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương
đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; Thị xã và Thành phố thuộc tỉnh chia
thành phường và xã; Quận chia thành phường [64, tr.64]. Vậy, chính quyền
địa phương cấp xã (hay gọi tắt là chính quyền cấp cơ sở) theo cách hiểu phổ
biến của khoa học hành chính là chính quyền cấp thấp nhất. Ở nước ta hiện
nay, theo quy định của Hiến pháp sửa đổi mới nhất năm 2013, chính quyền
địa phương cấp thấp nhất được gọi chung là "cấp xã''. Đối với cấp xã bao
gồm: xã, phường và thị trấn.
Từ những phân tích trên đây, có thể nêu khái quát khái niệm chính
quyền cấp cơ sở như sau: Chính quyền cấp cơ sở bao gồm Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở
Việt Nam, thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương, có chức năng thay
mặt nhân dân địa phương, căn cứ vào nguyện vọng của nhân dân địa
phương, quyết định và tổ chức thực hiện những vấn đề có liên quan đến phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của nhân dân
địa phương.

Chính quyền cấp cơ sở là chính quyền được tổ chức ra nhằm bảo đảm,
bảo vệ và phục vụ quyền, lợi ích của nhân dân. Nhân dân là đối tượng để
chính quyền phục vụ. Dưới góc độ vai trò của nhà nước; nhân dân chính là


15
chủ thể của quyền lực nhà nước. Theo đó, chính quyền địa phương cơ sở phải
là chính quyền do nhân dân tổ chức ra, của nhân dân và hoạt động vì nhân
dân. Các bản Hiến pháp của Việt Nam, từ các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và
2013 đều khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, 2013 khẳng
định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. ” [63, tr.11]. Điều đó có nghĩa: Cán bộ là người được
ủy quyền chứ không phải là người nắm quyền lực. Quyền lực thuộc về nhân
dân, nhân dân có quyền bãi miễn bất kỳ lúc nào khi cán bộ làm trái với mục
đích của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đi ngược lại với lợi ích chính đáng
của nhân dân.
Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn quyết nghị những chủ
trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Hội đồng
nhân dân cấp cơ sở thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Uỷ
ban nhân dân cùng cấp.
Ủy ban nhân dân cấp cơ sở thể chế hoá thành các chương trình, kế
hoạch để thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tuân theo pháp
luật. Nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách xã hội
khác trên địa bàn. Uỷ ban nhân dân cấp cơ sở thực hiện chức năng quản lý
nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất

trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
Chính quyền cơ sở là cấp thấp nhất, cũng là cấp gần dân nhất trong
bộ máy chính quyền của nhà nước. Đây là đầu mối quan trọng đóng vai


16
trò trực tiếp cụ thể hóa chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước đến với nhân dân và tiếp thu ý kiến của nhân dân gửi
đến Đảng và Nhà nước. Để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, vấn đề xây dựng và củng cố chính quyền cơ sở vững mạnh đóng vai
trò quan trọng tất yếu.
1.1.2. Khái niệm nông thôn mới
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định nông dân là lực lượng quan trọng cùng với giai cấp công nhân xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng ta đã kịp thời đề ra đường lối, chính
sách phù hợp với những nhiệm vụ của sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm không ngừng củng cố, phát triển
nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tăng cường khối liên minh công - nông
- trí ngày càng vững chắc.
Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội,
căn cứ vào tình hình cụ thể của nước ta và tính tích cực, tính cách mạng là
mặt chủ yếu của nông dân nước ta, Đảng ta đã đề ra đường lối, chính
sách, những hình thức tổ chức, những biện pháp thích hợp để thực hiện
hợp tác hóa nông nghiệp khi chưa có nền công nghiệp phát triển, thực
hiện hợp tác hóa đi đôi với thủy lợi hóa và cải tiến kỹ thuật nhằm phát
triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở tự
nguyện của nông dân, Đảng ta đã chủ trương đưa nông dân làm ăn riêng
lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mầm mống xã hội chủ nghĩa) tiến lên hợp tác
xã bậc thấp (nửa chủ nghĩa xã hội) rồi bậc cao. Phong trào hợp tác hóa và

sản xuất nông nghiệp gắn liền với công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Mặt khác, quá trình xây dựng nông thôn mới là điều kiện, là cơ sở để thúc
đẩy phong trào hợp tác hóa và sản xuất nông nghiệp. Có thể nhận thấy
rằng, Đảng ta đã có một hệ thống quan điểm khá toàn diện về xây dựng


17
nông thôn mới từ khi đất nước giành được độc lập dân tộc và trong suốt
quá trình đổi mới.
Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn trong đường lối
chính sách và phát triển đất nước của Đảng và nhà nước ta. Việc tổ chức
các hoạt động cho nông dân như tăng cường liên minh công - nông - trí
thức, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, đoàn kết nhân dân... chính là
những yếu tố để tạo nên nông thôn mới ở nhiều nông thôn, xóm, bản,
làng... Nông thôn mới là môi trường mang tính văn hóa, mà ở đó người
nông dân có được những điều kiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhất
định và qua đó hình thành được những nét đặc trưng của con người mới
và gia đình mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn phát triển của thế giới chứng minh rằng, sẽ không thể có một
nước công nghiệp nếu nông nghiệp và khu vực nông thôn nghèo nàn, lạc hậu;
cư dân nông thôn có đời sống vật chất và tinh thần thấp kém. Lịch sử hình
thành các cộng đồng người ở tất cả các quốc gia trên thế giới đều bắt đầu từ
nông thôn nên cái hồn cốt văn hóa làng quê là bản sắc văn hóa dân tộc, vừa đa
dạng, vừa mang bản sắc riêng của quốc gia dân tộc. Nếu quá trình xây dựng
nông thôn mới phá vỡ chức năng này là đi ngược lại với lòng dân, làm xói
mòn truyền thống văn hóa của dân tộc.
Thông tư số 54/TT-NNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quy định: “vùng khu vực nông thôn Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị
trấn; được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã” [6, tr.1].

Như vậy, nông thôn mới trước hết phải là nông thôn, chứ không phải là thị tứ,
thị trấn... Nông thôn mới vừa bao hàm chức năng lịch sử vốn có của nông
thôn là vùng nông dân quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nông
nghiệp, vừa có những thuộc tính khác với nông thôn truyền thống. Đó là:
Làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất phát triển bền vững


18
theo hướng kinh tế hàng hóa; đời sống vật chất và tinh thần của người dân
nông thôn ngày càng được nâng cao; giá trị văn hóa truyền thống được bảo
tồn, phát triển; xã hội nông thôn an ninh tốt, phát huy dân chủ trong nhân dân.
Xây dựng nông thôn mới ở nước ta thực chất và trước hết là xây dựng
những người nông dân mới, con người mới ở nông thôn - người nông dân
XHCN. Người nông dân mới được hình thành cũng hướng theo những chuẩn
mực mới của con người mới của Việt Nam nói chung mà Đảng ta đã xác định
là: Có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và
lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần
quốc tế chân chính: Người nông dân mới, ngoài những chuẩn mực đạo đức
chung của con người Việt Nam còn có những nét riêng của người nông dân
Việt Nam như: Đôn hậu, chất phác, thật thà...
Như vậy, để xây dựng nông thôn mới, trước hết vấn đề căn bản và lâu
dài là mọi người nông dân phải tự xác định mình đã trở thành người chủ và
phải luôn luôn nâng cao tinh thần làm chủ quê hương, đất nước. Đây chính là
bước ngoặt căn bản, sự chuyển biến về chất, nâng lên một trình độ mới, tầm
cao mới. Xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ giữa nông dân với nhau, phải thực
hành dân chủ. Cán bộ phải gắn bó máu thịt với nhân dân, sống trong lòng
nhân dân, có như vậy nông thôn mới thực sự mang một chất mới của chế độ
mới - chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nông thôn mới còn được tạo lập bởi nhiều gia đình mới, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội

tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã
hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý
hạt nhân cho tốt” [38, tr.523]. Chỉ có xây dựng gia đình mới thì mới có
nông thôn mới; xây dựng gia đình mới ở nông thôn chính là xây dựng gia
đình văn hóa, là phải nâng cao truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
trong đời sống gia đình, chắt lọc những tinh hoa trong truyền thống văn


19
hóa phương Đông. Xây dựng gia đình văn hóa mới không có nghĩa là phá
bỏ mọi cái cũ và cái gì cũng làm mới, mà những truyền thống và những
phong tục tốt đẹp như tôn ti trật tự trong gia đình, kính già, yêu trẻ, trọng
nghĩa, trọng tình... cần phải phát triển thêm.
Nghị quyết 26-NQ/TW đưa ra mục tiêu xây dựng nông thôn mới là:
“Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh
tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo hướng quy hoạch; xã hội
nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao,
môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường” [18, tr.126].
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Triển khai
xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm cụ thể từng vùng theo các
bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác
mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của
doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động” [19, tr.197-198].
1.1.3. Nội dung xây dựng nông thôn mới
Nông thôn mới ở nước ta hiện nay được xây dựng theo “Bộ tiêu chí
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới” của Chính phủ, bao gồm 19 tiêu chí và

được chia thành 5 nhóm cụ thể.
Một là, tiêu chí về quy hoạch (có 01 tiêu chí):
Quy hoạch và sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; quy hoạch
phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường theo chuẩn mới (phải đạt chỉ
tiêu); quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư
hiện có theo hướng văn minh bảo tồn được bản sắc văn hóa tốt đẹp.


20
Hai là, tiêu chí về hạ tầng kinh tế - xã hội (Có 08 tiêu chí) bao gồm:
- Về giao thông: Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa bằng
bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ giao thông vận tải (phải đạt
100 %); Tỷ lệ đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ
thuật của Bộ giao thông vận tải (phải đạt 50%); tỷ lệ km đường ngõ, xóm
sạch và không lầy lội vào mùa mưa (phải đạt 100% (50% cứng hóa); tỷ lệ
km đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện
(phải đạt 50%).
- Về thủy lợi: Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng được sản xuất và dân
sinh (đạt); tỷ lệ kênh mương do xã quản lý được kiên cố hóa (phải đạt 50%).
- Về điện: Hệ thống điện đảm bảo an toàn của ngành điện (đạt); tỷ lệ hộ
sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn điện (phải đạt 95%).
- Về trường học: Tỷ lệ trường học các cấp: Mầm non, mẫu giáo, tiểu
học, trung học cơ sở có vật chất đạt chuẩn quốc gia (phải đạt 70%).
- Về cơ sở vật chất văn hóa: Nhà văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn
của Bộ văn hóa- thể thao và du lịch (đạt); tỷ lệ thôn có nhà văn hóa và khu thể
thao thôn đạt chuẩn của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (phải đạt 100%).
- Về chợ nông thôn: Chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng (đạt).
- Về bưu điện: Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông (đạt); có mạng
Internet đến thôn (đạt).

- Về nhà ở dân cư: Nhà tạm, dột nát (Không có); tỷ lệ hộ có nhà ở đạt
chuẩn của Bộ Xây dựng (phải đạt 75%).
Ba là, tiêu chí về kinh tế và tổ chức sản xuất: (có 04 tiêu chí) bao gồm:
- Về thu nhập: Thu nhập bình quân đầu người/ năm so với mức bình
quân chung của tỉnh (phải cao hơn 1,2 lần).
- Về hộ nghèo: Tỷ lệ hộ (10%)
- Về cơ cấu lao động: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong các
lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp (phải đạt 45%).


21
Về hình thức tổ chức sản xuất: Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động
có hiệu quả (Có).
Bốn là, tiêu chí về văn hóa - xã hội - môi trường (có 04 tiêu
chí) bao gồm:
- Về giáo dục: Phổ cập giáo dục trung học (đạt); tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp trung học cơ sở được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học
nghề) (đạt 70%); tỷ lệ qua đào tạo (hơn 20%)
- Về Y tế: Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế (phải
đạt 20%); Y tế xã đạt chuẩn quốc gia (đạt).
- Về văn hóa: Xã có từ 70% số thôn, bản trở lên đạt tiêu chuẩn làng văn
hóa theo quy định của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (đạt).
- Về môi trường: Tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh
theo quy chuẩn quốc gia (phải đạt 70%); các cơ sản xuất - kinh doanh đạt tiêu
chuẩn về môi trường (đạt); không có các hoạt động gây suy giảm môi trường
và có các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp (đạt); nghĩa trang
được xây dựng theo quy hoạch (đạt); chất thải, nước thải được thu gom và xử
lý theo quy định (đạt).
Năm là, tiêu chí về hệ thống chính trị (Có 02 tiêu chí) bao gồm:
- Về hệ thống tổ chức chính trị vững mạnh: Cán bộ xã đạt chuẩn (đạt);

có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định (đạt); Đảng bộ,
chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “Trong sạch, vững mạnh” (đạt); các tổ chức
đoàn thể chính trị của xã đạt danh hiệu tiên tiến trở lên (đạt).
- Về an ninh, trật tự xã hội: An ninh, trật tự xã hội được giữ vững (đạt).
Trên đây là bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới, đồng
thời là căn cứ để các địa phương triển khai chương trình xây dựng nông
thôn mới mà Chính phủ đã ban hành. Đồng thời, 19 tiêu chí trên đã đặt ra
những mục tiêu, nội dung cụ thể, cũng như phương hướng thực hiện để


22
giải quyết những khó khăn, bức xúc, đem lại lợi ích thiết thực cho người
nông dân.
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí của
chính quyền cấp xã
Trong hệ thống chính quyền địa phương của nước ta, cấp cơ sở có
một vị trí rất quan trọng, là đơn vị cuối cùng trực tiếp và chủ yếu thể hiện
sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện sự quản lý của Nhà nước đối với nhân dân.
Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được chuyển
hóa thông qua hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, cấp huyện và cuối
cùng được triển khai thực hiện trực tiếp ở cơ sở. Nếu cấp tỉnh và thành phố
trực thuộc Trung ương được coi là địa bàn vĩ mô trong sự phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước ở địa phương thì cấp cơ sở được coi là đơn vị vi mô
nền tảng của vĩ mô đó. Xuất phát từ đặc điểm cấp cơ sở là đơn vị hành
chính lãnh thổ nhỏ nhất trong hệ thống bộ máy nhà nước nên chính quyền
cấp cơ sở có vai trò như sau:
Một là: Chính quyền cấp cơ sở có HĐND là cơ quan quyền lực nhà
nước ở cơ sở và UBND do HĐND bầu ra là cơ quan chấp hành của HĐND,
cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở. Vì thế, chính quyền cấp cơ sở là cấp
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể về quản lý hành chính nhà nước trên các

lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, là cầu nối trực
tiếp giữa nhà nước và nhân dân, xử lý trực tiếp, kịp thời những yêu cầu hàng
ngày của nhân dân. Nên đây là cấp chính quyền gần với cộng đồng dân cư, tổ
chức và hoạt động mang tính tự quản cao. HĐND ở cơ sở phải thực sự là đại
diện cho nhân dân ở cơ sở, UBND là cơ quan chấp hành của HĐND cơ sở và
là cơ quan hành chính ở cơ sở, xử lý kịp thời những yêu cầu hàng ngày của
nhân dân.
Hai là: Chính quyền cấp cơ sở khác với chính quyền cấp tỉnh, cấp
huyện: Tổ chức bộ máy chính quyền cấp cơ sở chỉ bao gồm cơ quan quyền


23
lực nhà nước là Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân ở địa phương và Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
không có các cơ quan tư pháp như: Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân
dân nên trong nhiều trường hợp phải kiêm nhiệm luôn cả chức năng tư pháp
(xét xử, hòa giải).
Trong hoạt động của chính quyền cấp cơ sở, giữa HĐND và UBND
khó tách biệt nhau, các lĩnh vực thẩm quyền UBND có ưu thế vượt trội.
Chính quyền cấp xã được coi là một cấp chính quyền hoàn chỉnh, bao quát
toàn diện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa bàn cơ
sở. Nội dung các quyết định của HĐND và quyết định của UBND về cơ bản
là phản ảnh đúng, trực tiếp nhu cầu thiết thực của quần chúng nhân dân. Chỉ
khác ở chỗ, HĐND quyết định biện pháp, còn UBND tổ chức thực hiện.
Ba là: Chính quyền cấp cơ sở là nơi triển khai, tổ chức thực hiện trên
thực tế chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước tới người dân. Cấp cơ
sở là cấp gần dân nhất, là nơi biểu hiện tập trung nhất, rõ nhất những ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cấp cơ
sở là cấp gần gũi với dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được

thì mọi việc đều xong xuôi” [37, tr.153. Chính vì vậy, chất lượng hoạt động
của chính quyền cơ sở đều ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng, Nhà nước,
đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Các đơn vị hành chính cấp cơ sở, được hình thành trên nền tảng
những địa điểm quần cư, nó liên kết dân cư trong một khối liên hoàn
thống nhất. Mọi vấn đề của cơ sở đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần
phải được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích: Nhà nước, cư
dân và giữa các cư dân với nhau. Chính quyền ở đây không chỉ là cơ quan
cai trị - quản lý mà còn là cơ quan thể hiện lợi ích chung của dân cư.


24
Bốn là: Chính quyền cấp cơ sở là nơi mà quan hệ họ hàng, truyền
thống, phong tục tập quán… có thể tác động mạnh nhất vào phong cách làm
việc của mỗi cán bộ chính quyền. Trong đó, cán bộ lãnh đạo, chủ chốt cấp cơ
sở là những người trực tiếp tiếp xúc với quần chúng nhân dân và bà con nông
dân. Đa số họ là những người sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ cơ sở, từ
chính quê hương mình. Do vậy, họ là những người hiểu quần chúng nhân dân,
hiểu tâm tư, nguyện vọng, thuận lợi, khó khăn của quần chúng nhân dân; hiểu
phong tục, tập quán, đặc điểm văn hóa trên địa bàn mà họ phụ trách, họ gắn
bó với cơ sở. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không chỉ gần gũi, tiếp xúc với dân
trong giờ hành chính, trong thời gian làm việc ở văn phòng mà còn trong các
buổi sinh hoạt ở địa bàn, ngoài giờ hành chính. Họ làm nhiệm vụ của mình
thông qua các biện pháp hành chính đồng thời còn phải trực tiếp làm công tác
vận động quần chúng, tạo nên tinh thần đoàn kết nhất trí trong nhân dân, bảo
vệ những giá trị văn hóa truyền thống, những phong tục tập quán lâu đời của
địa phương mình.
Hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở bị chi phối bởi cả
quan hệ gia đình, dòng tộc, phong tục, tập quán của địa phương đến việc
chung của xã hội. Họ đóng nhiều vai trò khác nhau trong giao tiếp, ứng xử để

điều hòa hoạt động. Chẳng hạn, họ đóng vai trò hòa giải trong mối quan hệ
giữa các công dân, làm chứng cho các quan hệ có tính chất công dân giữa
nhân dân lao động với nhau và giữa công dân với nhà nước. Họ là người giải
quyết tranh chấp dân sự lần đầu trên địa bàn, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân
cũng như các cơ quan quản lý khác trong việc xác định tư cách, xác định thân
nhân của các đối tượng khác nhau ở địa phương.
Năm là, Chính quyền cấp cơ sở không phải là cấp hoạch định đường
lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội … mà cơ sở là cấp hành động, tổ
chức hành động, đưa đường lối, Nghị quyết, chính sách vào cuộc sống. Là cấp
hành động, tổ chức thực hiện nên cán bộ cấp cơ sở phải gần dân, hiểu dân, sát


×