Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA PHỦ DẦY – NAM ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.05 KB, 16 trang )

ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN GIỮA KÌ

QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
PHỦ DẦY – NAM ĐỊNH


Nội dung đề tài:
Đề cương:
1. Lí do chọn đề tài
Trong dân gian vẫn lưu truyền câu: “Tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ”.
Cha - Đức Thánh Trần; Mẹ - Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Hàng năm cứ đến tháng Ba
(Âm lịch), du khách ở khắp mọi miền đất nước lại về đất Kẻ Dầy xưa - Kim Thái
ngày nay để tham dự lễ hội.
Lễ hội Phủ Dầy nằm trong trục nghi lễ tháng tám giỗ Cha tháng ba giỗ Mẹ
của Đạo Mẫu nói riêng và trục lễ tiết Xuân thu nhị kỳ của lễ hội Việt Nam nói
chung. Gốc rễ của hệ thống lễ hội đó gắn bó chặt chẽ với hệ thống nghi lễ nông
nghiệp: Gieo cấy (mùa xuân) và thu hoạch (mùa thu). Sau này, do tiếp thu các
nhân tố lịch sử, xã hội và tôn giáo khác nhờ đó biến dạng đi nhiều và mang các sắc
thái phong phú, đa dạng như ngày nay. Lễ hội Phủ Dầy cũng như các lễ hội cổ
truyền khác, chứa đứng các giá trị nhân văn sâu sắc: Hướng về cội nguồn, biểu
dương và cố kết sức mạnh cộng đồng, thoả mãn và cân bằng nhu cầu đời sống tâm
linh, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá. Do đó, tôi chọn đề
tài này nhằm hiểu sâu sắc hơn một quần thể di tích vùng đồng bằng sông Hồng
mang nhiều ý nghĩa lịch sử và được coi là bảo tàng sống của văn hoá Việt Nam
này.
2. Nội dung chính
2.1. Một vài nét về vùng đất địa linh văn hiến
2.1.1. Vị trí địa lý
Nam Định là tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng “Dân cư đông đúc
như hình con Long”. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa cho rằng: Đây là
vùng đất văn hiến mà điểm sáng là vùng văn hóa Thiên Bản (Vụ Bản ngày nay) -




Thiên Trường và Quần Anh. Trong đó, Thiên Bản là vùng đất cổ, lưu giữ những
dấu ấn tinh hoa văn hóa của người Việt từ thủa Vua Hùng dựng nước đậm đà bản
sắc dân tộc và được phát triển mạnh mẽ qua các thời đại.
Là một huyện của tỉnh Nam Định, Vụ Bản cách thành phố Nam Định 15km
về phía Tây Nam. Huyện có 17 xã, 1 thị trấn. Diện tích tự nhiên 14766,23 ha, dân
số 12700 người có ranh giới:
+ Phía Đông giáp thành phố Nam Định và huyện Nam Trực
+ Phía Tây giáp huyện Ý Yên
+ Phía Nam giáp huyện Ý Yên và Nghĩa Hưng
+ Phía Bắc giáp huyện Mỹ Lộc.
Theo nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh: Huyện Vụ Bản có hơn chục làng với
tên “Kẻ” ở đầu xuất hiện vào thời vua Hùng nằm rải rác ở vùng đất ven chân núi
hay bãi cao trong đó có Kẻ Dầy, Kẻ Báng thuộc xã Kim Thái. Kẻ Dầy sau này có
tên chữ là An Thái nay là thôn Tiên Hương và Vân Cát. Xưa và nay trong lịch trình
tiến hóa, hai làng Tiên Hương và Vân Cát đều nằm ở vị trí vừa quan trọng về chính
trị, kinh tế vừa đẹp về cảnh sắc thiên nhiên. Sông Sắt chạy ép phía Tây làng vốn là
một nhánh của sông Ninh Giang nối liền Châu Giang chảy ra sông Hồng. Điều kỳ
thú cả hai đường thủy, bộ đều là con đường có thể tới hành cung Thiên Trường xưa
thời Lý - Trần các vua đi kinh lý đi qua, để lại những dấu ấn họat động văn hóa
trên đất Vụ Bản.
Không chỉ dừng lại ở mảnh đất non nước hữu tình mà Vụ Bản xưa là Thiên
Bản là một vùng đất văn hiến, có bề dày lịch sử - văn hóa truyền thống cách mạng.
Vụ Bản là quê hương của trạng nguyên Lương Thế Vinh, nhà sử học Trần Huy
Liệu, nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nguyễn Bính. Quê hương của nhiều nhà khoa
bảng, khoa học, văn nghệ sĩ, chiến sĩ cách mạng nổi tiếng.
Quần thể Phủ Dầy hiện nay thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản - Nam Định
(xã xưa là xã Yên Thái huyện Thiên Bản thuộc Phủ Kiến Bình) với 21 di tích liên



quan đến sự tích truyền thuyết về thánh Mẫu Liễu Hạnh, nằm trải đều trong một
không gian đẹp với cảnh quan nhiên nhiên phong phú, có núi sông xen kẽ đồng
ruộng màu mỡ.
Với vị trí nằm ở giao điểm của các trục đường lớn, quốc lộ 10, quốc lộ 21,
tỉnh lộ 56, tỉnh lộ 12, cách thành phố Nam Định không xa, chỉ hơn 10km, đường
đến Phủ Dầy bằng đường bộ rất thuận lợi.
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển
Theo văn bia, sắc phong và những tài liệu cổ còn lưu giữ, Phủ Dầy được xây
dựng vào thời Lê Cảnh Trị (1663 - 1671). Ban đầu nơi đây chỉ là một ngôi miếu
nhỏ, sau đó nhân dân địa phương và khách thập phương công đức tiền của, sức lực
xây dựng thành một quần thể kiến trúc để thờ Mẫu và các bậc danh nhân như: Nam
Đế (tức Lý Bí) thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống giặc Lương thế kỷ thứ 6 lập nên
nước Vạn Xuân, Đình Lôi - tướng quân của Lý Bí, Nguyễn Minh Không - Ông Tổ
nghề đúc đồng…
Trải qua thời gian được trùng tu, tôn tạo, bổ sung, mở rộng, nâng cấp đến
nay thành một quần thể điện đài lộng lẫy, hoàn chỉnh, tương xứng với lòng ngưỡng
vọng Mẫu Liễu Hạnh trong tâm linh nhân dân.
Di tích lịch sử văn hóa Phủ Dầy gồm 2 ngôi Phủ lớn là Phủ Tiên Hương, Phủ
Vân Cát và Lăng Mẫu. Ngoài ra bao quanh mỗi Phủ là một hệ thống các đền, miếu.
Ban đầu, phủ Vân Cát là nơi bà Chúa sinh ra nên được coi là phủ chính. Nhưng về
sau, Phủ Tiên Hương được xây dựng với quy mô còn to lớn và cao đẹp hơn Phủ
Vân Cát do tổng đốc Nam Định là Đoàn Triển đứng ra giúp người thôn Tiên
Hương xây dựng. Sau đó, tri huyện Vụ Bản là Trần Lê Quần quê ở Tiên Hương đã
giành cái tên Phủ chính về cho Tiên Hương. Còn lăng Mẫu được xây là nhờ một vị
vua triều Nguyễn. Vua Bảo Đại lấy vợ lâu không có con, hoàng hậu đến khấn ở
Đền Sòng, Thanh Hóa (1 đền khác thờ Thánh Mẫu) đã được Thánh Mẫu ban cho
hoàng tử Bảo Long. Để trả ơn Mẫu, nhà vua và Nam Phương Hoàng Hậu đã cho



xây dựng lăng Thánh Mẫu tại làng Tiên Hương quê hương Bà Chúa. Năm 1938
lăng được xây dựng hoàn toàn bằng đá xanh và đỏ rất đẹp đã gây một tiếng vang
lơn rộng rãi làm thêm uy thế cho làng Tiên Hương.
Tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển, cùng với hàng chục đền chùa miếu Phủ
trong quần thể di tích Phủ Dầy điểm xuyết trong cảnh sắc thiên nhiên sơn thủy hữu
tình hiếm có, làm cho Phủ Dầy trở thành quần thể di tích chiếm vị trí đặc biệt quan
trọng trong hệ thống các di tích danh thắng của tỉnh Nam. Lòng thành tâm, sự
ngưỡng vọng lớn lao với Thánh Mẫu Liễu Hạnh ấy tạo ra nguồn lực vật chất góp
phần tu bổ, tôn tạo di tích ngày càng khang trang, đẹp đẽ hơn.
2.2. Thánh Mẫu Liễu Hạnh và tục thờ Mẫu ở Việt Nam
2.2.1.Vài nét về tục thờ Mẫu ở Việt Nam
Các di tích ở Phủ Dầy đều phụng thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh, một trong “Tứ
bất tử” Việt Nam được dân gian suy tôn. Mẫu Liễu Hạnh còn được biết đến như vị
thần chủ của tín ngưỡng thờ Mẫu (thờ Mẹ) - một tín ngưỡng hoàn toàn thuần Việt
và độc đáo.
Đạo Mẫu là một hệ thống các tín ngưỡng dựa trên nền tảng thờ nữ thần, rồi
trên cơ sở đó tiếp thu những giao lưu ảnh hưởng từ bên ngoài để hình thành các lớp
thờ Mẫu thần và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Đạo Mẫu lấy biểu tượng của người Mẹ
(Mẫu) với thiên năng sản sinh, nuôi dưỡng và bảo trợ, nó phản ánh trên bình diện
tín ngưỡng, tâm linh vai trò quan trọng của người phụ nữ trong sản xuất, chiến đấu
và quan hệ xã hội. Đạo Mẫu sản sinh và tích hợp vào nó những giá trị văn hoá, giá
trị đạo đức, nó sớm được lịch sử hoá và trở thành một biểu tượng của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam. Cặp biểu tượng Vua Cha - Thánh Mẫu, chính là sự nối tiếp và
phát triển của cái trục biểu tượng cội nguồn: Cha Lạc Long - Me Âu Cơ, khiến Đạo
Mẫu trở thành một trong những tín ngưỡng cổ xưa và mang tính bản địa nhất,
giống như là thờ cúng Tổ tiên, Thành Hoàng, thờ cúng các Anh hùng dân tộc...
Do vậy mà nguyên lý thờ Mẫu có từ ngàn xưa, lại càng được bổ sung, vun


đắp, nó sẽ và mãi tồn tại trong tâm thức dân gian (folkoru) Việt Nam và tất nhiên

nó là hương sắc của một tín ngưỡng bản địa thuộc Văn Lang - Đại Cồ Việt, Đại
Việt, Đại Nam với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2.2.2. Huyền tích thánh Mẫu Liễu Hạnh
Quần thể di tích Phủ Dầy gắn liền với sự tích về Mẫu Liễu Hạnh. Phủ Dầy
nơi sinh ra Mẫu Liễu Hạnh và chính những huyền thoại về bà, về công đức của bà
đối với nhân dân đã tạo nên sự hấp dẫn kỳ lạ đối với khách thập phương về với
Phủ Dầy. Mẫu Liễu Hạnh là nhân vật văn hóa dân gian, vừa là Thần như sắc
phong, vừa là Thánh như dân phong, vừa là Phật, vừa là Tiên như sự tích, là biểu
tượng bất tử của tâm linh, tâm hồn, tình cảm, ý chí cao cả của người Việt Nam về
khát khao giải phóng phụ nữ, ca ngợi người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt
Nam, là “Mẫu nghi thiên hạ”.
Căn cứ vào các nguồn tài liệu, sự tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì Bà có ba
lần sinh hóa. Lần thứ nhất vào năm 1434 (đầu thời Lê) là người tiên nữ Phạm Tiên
Nga xinh đẹp, giáng trần làm con gái của một gia đình nghèo. Nàng đầy nhân hậu,
rất hiếu nghĩa, tốt đẹp. Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên
Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện. Năm bà vừa tròn 40 tuổi, trời nổi cơn
giông, gió cuốn, mây bay. Bà đã hóa thân về trời. Mẫu giáng sinh giai đoạn thứ hai
vào thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557) tại thôn Vân Cát, xã An Thái, Huyện
Thiên Bản (nay là Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định), tạo nên sự tích thiêng liêng về
một tiên nữ vương vấn bụi trần. Sự tích giáng sinh lần thứ 3, sinh tại đất Tây Mỗ Nga Sơn - Thanh Hóa thời Lê Khánh Đức thứ 2 (1650), nàng lấy chồng, sinh con
nhưng về trời năm mới vừa tròn 18 tuổi. Ngoài ra còn nhiều giai thoại nói về người
tiên du ngoạn, khi ở Lạng Sơn, lúc về Hồ Tây vào Phú Đồi, Sòng Sơn, khi giáng
Phúc, lúc giáng họa.
Thực thực hư hư chuyện đời thường của Thánh Mẫu Liễu Hạnh không có sự


đặc sắc như Bà Trưng, Bà Triệu. Song lại hòa hợp với cuộc sống, được người đời
chấp nhận, tôn vinh là mẹ, được Triều đình nhà Nguyễn phong tặng “Mẫu nghi
thiên hạ”, khác chi một tượng đài văn hóa dân tộc.
Tâm thức dân gian tôn vinh Mẫu Liễu Hạnh trong hàng “Tứ bất tử” Việt

Nam, công đức lớn lao như Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử tiên ông và
Tản Viên Sơn thánh. Tất cả đều là những bậc thánh thần đạo cao, đức trọng, công
lớn với nước với hậu thế từ buổi bình minh lịch sử, sẽ mãi mãi tồn tại trong đời
sống tinh thần dân tộc.
2.3. Quần thể di tích lịch sử - văn hóa Phủ Dầy
2.3.1. Khái niệm di tích lịch sử - văn hóa
Di tích lịch sử – văn hoá là những không gian vật chất cụ thể, khách quan,
trong đó chứa dựng những giá trị điển hình lịch sử, do tập thể hoặc do cá nhân con
người hoạt động sáng tạo trong lịch sử để lại.
Di tích lịch sử tích lịch sử – văn hoá là tài sản quý giá của mỗi địa phương,
mỗi dân tộc. Nó là bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể về đặc điểm văn hoá
mỗi nước, là biểu tượng sáng ngời cho kho tàng văn hoá dân tộc. Quần thể di tích
lịch sử - văn hóa Phủ Giầy tại tỉnh Nam Định cũng là một trong những di sản ấy.
2.3.2. Quần thể di tích lịch sử - văn hóa Phủ Dầy
Phủ Dầy là một quần thể di tích Đạo Mẫu tam phủ, tứ phủ gồm hơn 20 đền,
phủ, chùa, lăng,... tạo nên một điện thần đạo Mẫu khá hoàn chỉnh. Tất cả quần thể
kiến trúc ấy gần như tập trung trong phạm vi xã Kim Thái, thuộc huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định. Đó là vùng đồng bằng với những cánh đồng lúa bát ngát, có những
ngọn núi đá thấp nằm rải rác, làng mạc trù phú, có dòng sông hiền hòa uốn khúc
quanh co, tạo nên cảnh sắc thiên nhiên và văn hóa rất nên thơ. Di tích Phủ Giầy đã
được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá theo Quyết định số 09/QĐ-VH
ngày 21-2-1975.


Phủ Dầy được xem là trung tâm thờ Mẫu lớn nhất cả nước. Trong đó, ba di
tích chính là phủ Tiên Hương, Vân Các và lăng Mẫu đã được Bộ VH-TT cấp bằng
công nhận di tích lịch sử, văn hoá cấp Quốc gia năm 1975.
Phủ Tiên Hương là một công trình đẹp được xây dựng từ thời Lê - Cảnh Trị
(1663 - 1671) và đã qua nhiều lần trùng tu. Phủ Tiên Hương có 19 toà với 81 gian
lớn nhỏ, mặt phủ quay về phía tây nam nhìn về dãy núi Tiên Hương. Trước phủ có

hồ và một sân rộng, có 3 toà nhà dàn hàng ngang hai tầng, tách mái đó là phượng
du nơi đón khách tới hành hương. Một hồ bán nguyệt có lan can thấp bao quanh,
có bình phong và hai cầu vượt đều bằng đá chạm khắc hình con rồng với móng
vuốt sinh động tinh xảo. Phủ có 4 lớp thờ (4 cung): đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ.
Các cung đều được tập trung các nghệ thuật chạm khắc tinh vi, thể hiện đủ các
mảng đề tài: rồng, phượng, hổ... Chính cung (cung đệ nhất) có một khám thờ khảm
trai, bề thế và tinh xảo. Đây chính là nơi đặt 5 pho tượng có giá trị mỹ thuật cao
của thế kỷ thứ 19.
Phủ Vân Cát được xây dựng trên khu đất rộng gần 1ha, mặt quay về hướng
tây bắc. Phủ Vân Cát hiện nay có 7 toà với 30 gian lớn nhỏ. Phía trước có hệ thống
cửa ngọ môn với 5 gác lầu; phía ngoài ngọ môn có hồ bán nguyệt, giữa hồ là nhà
thủy lâu, 3 gian, mái cong. Phủ Vân Cát cũng có 4 cung như ở phủ Tiên Hương.
Trung tâm là nơi thờ chúa Liễu, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là đền thờ Lý
Nam Đế.
Lăng Bà Chúa Liễu được xây dựng vào năm 1938. Lăng được xây dựng
bằng đá xanh, chạm trổ đẹp, với diện tích 625m 2, gồm có cửa vào lăng theo hướng
đông tây, nam bắc. Các cửa đều có trụ cổng trên đắp hình bông sen. Giữa lăng là
ngôi mộ khối bát giác, mỗi cạnh chừng 1m. Toàn lăng có 60 búp sen hồng trông xa
như một hồ sen cạn.


Di tích Phủ Dày có giá trị rất cao về trình độ kiến trúc nghệ thuật cuối thế kỷ
19 đến đầu thế kỷ 20. Đến với Phủ Dày vừa để thưởng ngoạn cảnh đẹp, vừa là dịp
Mẫu ban cho điều lành và sự may mắn.
2.3.3. Quần thể di tích Phủ Dầy và các hoạt động lễ hội
Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa được xuất hiện lâu đời trong lịch sử trở
thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống mỗi người dân. Cuộc sống
hàng ngày khiến cho con người cảm thấy dồn nén, căng thẳng, họ đến lễ hội để cầu
sức khỏe, bình an, phát tài, phát lộc đơn thuần chỉ để thưởng thức những hình thức
nghệ thuật dân gian được hòa mình vào không khí náo nhiệt của nó. Hội hè là dịp

mọi người tưởng nhớ tới công đức của các anh hùng dân tộc, bày tỏ lòng tôn kính
thánh thần, thể hiện tự do tín ngưỡng: Hội chùa Keo, hội Phủ Dầy, Hội chùa Cổ
Lễ, Hội Katê,.. Có thể nói rằng lễ hội truyền thống Việt Nam với tư cách là một
sản phẩm văn hóa đặc sắc, một sản phẩm văn hóa du lịch đặc biệt hấp dẫn, là nét
riêng của du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tháng ba, vào cuối tiết xuân, những người nông dân đang buổi nông nhàn,
rủ nhau mở mùa trảy hội. Từ muôn nơi người ta đổ về phủ Giầy, nơi có phong
cảnh non nước tươi đẹp, công trình đền miếu nguy nga, nơi con người có thể cầu
mong Mẫu mang lại những điều tốt lành, may mắn, tài lộc.
Lễ hội Phủ Dầy được mở chính thức từng ngày mồng ba đến ngày mồng tám
tháng ba. Trong những ngày mở hội, Phủ Dầy khép kín và đan xen các hoạt động
lễ hội, hội lễ. Không gian của lễ hội mở rộng trong toàn xã và bốn giáp của làng
Bảo Ngũ (xã Quang Trung và Trung Thành ngày nay).
Đặc trưng của các hoạt động lễ là tế và rước thỉnh kinh, là rước nước, lễ
rước đuốc. Đặc trưng Hội là Hội kéo chữ (Hoa trượng hội). Hội thì hát chầu văn,
hội thả rồng bay, thả đèn trời, chơi cờ đèn dưới nước, hội múa rồng, sư tử, hội hát
chèo… và cả hội chợ nữa.
- Nghi lễ rước Thánh Mẫu


Tiêu biểu nhất trong hội Phủ Dầy là nghi lễ rước Thánh Mẫu từ phủ chính
(Tiên Hương) lên chùa Gôi vào ngày 6/3 âm lịch. Ðám rước Thánh Mẫu dài gần 1
km, rất trang trọng có đội ngũ nhạc, có phường bát âm.
Kiệu rước bát nhang Thánh Mẫu phần lớn do các bà, các cô đảm nhận, y
phục rực rỡ, xúm xít dưới kiệu vàng, võng điều, cờ quạt, tán, lọng, phướn đủ màu
rực rỡ tung bay trước gió lồng lộng vào tiết cuối xuân, đầu hè. Các cô gái đồng
trinh của đồng quê được cử vào khiêng long đình, rước võng, khiêng kiệu, che tán,
che quạt, các bà trung niên thì cầm phướn, vác cờ, dẹp đường. Đoàn rước tiến bước
giữa tiếng loa gọi, rừng cờ phướn tung bay, có cả đoàn múa lân, rồng, tứ linh biểu
diễn. Sau đó, mỗi đoàn rước thả ba con rồng bay, mỗi con dài 25- 30m, được kết

bằng hàng vạn quả bóng bay đồng màu đỏ, vàng, xanh. Ai đã từng chiêm ngưỡng
ba con rồng từ từ bay lên không trung sẽ cảm thấy lòng mình lâng lâng như được
thăng hoa. Nếu về Phủ Dầy chỉ cần gặp được đoàn rước la du khách cảm thấy như
mình gặp được điều may mắn, được chứng kiến khung cảnh hùng vĩ, hoành tráng
nhất so với bất kỳ đoàn rước nào của Lễ hội truyền thống trên đất nước Việt Nam.
Đó chính là vinh hạnh cho những ai về Lễ hội Phủ Dầy đúng dịp.
Ngoài ra, vào đêm mùng 5, còn có một cuộc rước đuốc khổng lồ của hơn
1000 tay đuốc từ Phủ Tiên Hương lên Tiên Sơn tự, một dòng đốm lửa bập bùng
chập chờn như không bao giờ dứt như có một sức mạnh diệu kỳ cuốn hút lòng
người vào chốn sâu thẳm của những niềm tin và khát vọng vĩnh hằng của con
người. Đó là những điều lành, thiện tâm, bác ái.
- Hội kéo chữ
Nghi thức Hoa trượng - xếp chữ có ở nhiều nơi, tuy nhiên không có ở đâu
mỹ tục này lại quy mô, hoành tráng và mang tính nghệ thuật cao như ở hội Phủ
Dầy. Đặc biệt, nghi thức này lại được gắn với sự tích Vương phi của Chúa Trịnh là
Trịnh Thị Ngọc Đài, người gốc Phủ Dầy, trước khi thi tuyển vào làm phi tần đã
cầu nguyện với Mẫu Liễu Hạnh và được như ý, được Chúa sủng ái phong cho chức


Vương Phi. Sau đó vào thời kỳ lũ lụt liên tiếp, bà đã có công lớn giúp đỡ đám dân
đi phu của làng Thiên Bản được trở về quê hương, cấp phát lương thực và sửa chữa
đê điều cho dân. Dân làng Người dân Thiên Bản mừng rỡ reo hò tạ ơn Vương phi,
Vương phi dặn họ phải vào phủ Dầy tạ ơn mẫu Liễu Hạnh vì nhờ Mẫu phù hộ mà
bà được chúa Trịnh yêu dấu. Về đến quê nhà, đám dân phu vào thẳng luôn phủ
Dầy tạ Mẫu Liễu Hạnh, mang theo luôn cả cuốc, thuổng và những công cụ đào đất.
Nhờ người cầm đầu khéo xếp đặt, những người dân phu đã xếp thành chữ: Thánh
Cung Vạn Tuế rồi cúi lạy trước sân phủ để tỏ lòng biết ơn Thánh Mẫu.
Từ đó trở đi, hàng năm đến kỳ lễ hội, người dân lại tổ chức kéo chữ để nhớ
lại một tích truyện xa xưa. Qua thời gian, các nông cụ được cải tiến bằng gậy buộc
hoa, dây trang trí nhưng ý nghĩa văn hóa thì không thay đổi. Đó là đạo lý uống

nước nhớ nguồn trong cuộc sống.
Mấy năm qua, mỹ tục này đã được khôi phục khá thành công, góp phần
không nhỏ vào việc tạo nên sắc thái văn hoá độc đáo của Hội Phủ Dầy. Phu cờ ăn
mặc đồng phục, áo cánh vàng quần trắng, đầu đội khăn đen, có phủ dải lụa vòng ra
ngoài, đi chân đất. Mỗi người còn vác một cây gậy dài bốn, năm thước, trên đầu
gậy buộc một cái ngù bằng lông gà các đốt gậy đều dán vòng giấy mầu xanh, đỏ có
tua. Giữa tiếng trống cái, trống con gõ liên hồi rộn rã, theo cờ lệnh trong tay Tổng
cờ, các phu cờ tiến lùi đứng lên, ngồi xuống thành hình chữ. Khi ngồi xuống, các
phu cờ vứt gậy xuống đất, như mô phỏng lại tục vứt cuốc xẻng xưa của dân phu
trước đền Thánh Mẫu. Việc xếp chữ gì do những người tổ chức hội hàng năm qui
định, nhưng thường là "Mẫu Nghi Thiên Hạ" (Đức mẹ của muôn dân), "Thiên hạ
thái bình", "Thạch cập sinh dân", "Vân hành vũ thi".
- Hát chầu văn và hầu đồng
Khi màn đêm buông xuống, du khách sẽ được đắm mình trong những điệu
Chầu văn tha thiết cùng những đèn trời được thả lung linh sắc mầu huyền ảo. Hát


xẩm và hát ca trù là nét đặc trưng riêng của Lễ hội Phủ Dầy đồng thời cũng là một
nét đẹp truyền thống giữ vai trò quan trọng trong kho tàng dân ca Việt Nam.
Một trong những nghi thức đặc trưng và điển hình nữa theo tục thờ Mẫu ở
Phủ Dầy là hầu bóng, đây là nghi lễ gắn với tín ngưỡng nguyên thuỷ. Hầu bóng là
một trong các nghi lễ tiêu biểu của Đạo Mẫu tam phủ, tứ phủ. Bản chất của Hầu
bóng là hiện tượng nhập hồn nhiều lần của thần linh tam phủ, tứ phủ vào thân xác
các ông đồng, bà đồng, tạo nên sự giao hoà giữa tâm linh và thần linh, để cầu
mong sức khoẻ, tài lộc. Người hầu bóng có trang phục và lễ vật thích hợp với nội
dung từng giá hầu. Đặc biệt, trong hầu bóng không thể thiếu hát cung văn. Mỗi giá
hầu đều có cung văn phục vụ. Họ là những người am hiểu tín ngưỡng tứ phủ, hiểu
sự tích các vị Thánh Mẫu và các vị thần trong tứ phủ, thuộc các bài hát văn tế từng
vị, có giọng hát hay và sử dụng thành thạo các nhạc cụ dân tộc. Người hầu bóng
còn biểu cảm tính cách từng vai thần linh theo điệu múa riêng (múa thiêng) mang

tính dân gian kết hợp với lời ca tiếng nhạc của cung văn như múa chèo đò, hái hoa,
bắn cung, múa hèo, cưỡi ngựa,...
- Hội chợ Viềng
Đầu xuân về Phủ Dầy, ngoài việc được tham dự các lễ hội, các đám rước
mang nét văn hoá đặc trưng của vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ, du khách còn
được tham dự một hội chợ lớn - chợ Phủ Dầy hay còn gọi là chợ Viềng xuân.
Chợ Viềng được tổ chức vào ngày mồng tám tháng giêng hàng năm. Song
cái thời khắc thiêng liêng nhất lại là đêm mồng bảy rạng ngày mồng tám. Đó là
thời khắc giao hoà giữa âm - dương, trời - đất. Theo quan niệm dân gian, lúc đó,
con người và thần linh mới có dịp gần nhau hơn và mọi điều cầu mong được thấu
hiểu hơn, mua bán lúc đó mới thật là may mắn. Chợ đêm mồng bảy còn được gọi
là "Chợ âm phủ". Người đi chợ Viềng xuân Vụ Bản, ngoài vui chơi đầu xuân cầu
may, còn mang theo tâm thức đến với Mẫu, cầu xin Mẫu ban phúc lộc, cầu cho


mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, gia đình an khang thịnh vượng. Họ mua, họ
bán chỉ để cầu mong được sự may mắn trong cả năm.
Chợ Viềng xuân thực sự là hội chợ đặc trưng của miền quê nông nghiệp giàu
sản vật, một loại hội chợ sinh động ngoài trời, trưng bày, giới thiệu, trao đổi những
sản phẩm nông nghiệp do người nông dân làm ra, nhất là những loại cây cảnh, cây
trồng đặc sản, cũng như những sản phẩm thủ công tinh xảo; từ đồ dùng sinh hoạt
đến công cụ lao động bằng đồng, bằng sắt; từ đồ tế tự đến đồ trang sức mỹ nghệ,
đồ chơi trẻ nhỏ,... Đặc biệt hơn cả, ai về chợ Viềng xuân cũng mua cho bằng được
thịt bê thui, coi đó là món quà chợ, lộc hội không thể thiếu được trong tâm thức
cầu may đầu xuân đi hội chợ Viềng.
2.4. Đánh giá sự khai thác quần thể di tích Phủ Dầy và Lễ hội phục vụ
phát triển Du lịch văn hóa
Lễ hội Phủ Dầy là một sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống phong phú,
sâu sắc,đậm đà bản sắc dân tộc và sắc thái văn hóa địa phương. Góp phần không
nhỏ làm phong phú cho nền văn hóa của dân tộc của quê hương. Chính vì vậy,

trong quyết định số 39/QĐ-BVHTT ngày 23/8/2001 của Bộ Văn hóa thông tin Lễ
hội Phủ Dầy được công nhận là một trong năm Lễ hội lớn của cả nước về tính chất,
quy mô, số ngày, số người hành hương và các hình thức sinh hoạt Lễ hội. Phủ Dầy
và Lễ hội Phủ Dầy ngày càng trở thành điểm đến của nhân dân cả nước và bạn bè
quốc tế, góp phần làm cho tỉnh Nam Định, huyện Vụ Bản, xã Kim Thái trở thành
điểm đến của thiên niên kỷ mới, của du lịch tâm linh Việt Nam.
Thực ra, lễ hội Phủ Dầy là một hệ thống các nghi lễ và lễ hội kéo dài gần hết
ba tháng xuân, mà tập trung nhất từ ngày mồng một đến mồng chín tháng ba âm
lịch. Về phương diện thời gian, hội Phủ Dầy có nét giống với hội Chùa Hương,
một trong những lễ hội mùa xuân điển hình của người Việt. Đấy là chưa kể, còn
hơn cả Chùa Hương, Phủ Dầy là nơi người hành hương từ muôn nơi đổ trong suốt
cả năm.


Du lịch văn hóa ngày nay đã và đang là loại hình du lịch được khai thác hiệu
quả, với những giá trị văn hóa của mình, Phủ Dầy và Lễ hội Phủ Dầy là một tiềm
năng lớn để khai thác cho du lịch văn hóa. Thông qua hoạt động du lịch mà cụ thể
ở đây là du lịch tâm linh, du lịch Lễ hội, những giá trị văn hóa của Phủ Dầy và Lễ
hội Phủ Dầy được bảo tồn và phát huy.
Di tích Phủ Dầy và Lễ hội Phủ Dầy thực sự hấp dẫn du khách bởi sự đan
xen, hòa quyện giữa các công trình kiến trúc, các nghi thức trang trọng cùng các
hoạt động văn hóa dân gian sôi nổi đặc sắc. Về với Hội Phủ Dày, du khách như
được trở về với cội nguồn dân tộc, bởi nơi đây quy tụ rất nhiều những tinh hoa văn
hóa ngàn đời của dân tộc ta. Và đó còn là một nhu cầu của vẻ đẹp tâm linh trong
những ngày đầu năm mới.
Những năm qua, các cấp, các ngành và nhân dân tỉnh Nam Định nói chung,
huyện Vụ Bản xã Kim Thái nói riêng, đã nỗ lực hết mình để khôi phục và giữ gìn
một lễ hội lớn vào bậc nhất của đất nước. Đó cũng là nghĩa cử cao đẹp, sự tri ân
của con người hôm nay với những bậc tiền nhân đã sáng tạo nên một quần thể văn
hóa kiến trúc phong phú đặc sắc vào bậc nhất Việt Nam này.

Sau hơn 10 năm khôi phục lễ hội Phủ Dầy, tuy còn không ít những hạn chế
trong khâu tổ chức, quản lý các di tích và lễ hội như trùng tu, tôn tạo tùy tiện, dâng
hương hoa, đốt vàng mã tràn lan…, nhưng về cơ bản đã khôi phục lại được một
quần thể di tích và lễ hội với quy mô lớn, hoành tráng với nhiều sắc thái văn hoá
độc đáo và lành mạnh, góp phần vào sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc, như nghị quyết của Đảng và Nhà nước đề ra.
3. Kết luận
Phủ Dầy với một quần thể kiến trúc phong phú đa dạng là một di sản quý giá
trong kho tàng văn hóa của đất nước. Các công trình xây dựng ở đây chủ yếu được
làm dưới triều Nguyễn nhưng có sự kết hợp hài hòa kiến trúc của nhiều địa
phương, trong đó có cả kiến trúc của kinh đô Huế để tạo nên một phong cách riêng


độc đáo. Cùng với đường giao thông hết sức thuận tiện nó đa đang thu hút khách
cả nước về hành hương. Đặc biệt là mùa xuân vào dịp Lễ hội nơi đây còn diễn ra
hoạt động văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc sẽ góp phần làm cho khách thập phương
thấy rõ được một vùng quê giàu truyền thống lịch sử và văn hóa đang trên đà đổi
mới.
Về với lễ hội Phủ Dầy, mỗi du khách còn có dịp phát tâm công đức vào việc
gìn giữ và phát huy những giá trị to lớn, vĩnh hằng trong tâm thức thờ Mẫu của
người dân đất Việt. Đồng thời cũng là cơ hội để du khách tham gia vào không gian
văn hóa mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc và sắc thái văn hoá của địa phương. Đó
cũng chính là cách để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc.
"Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ'', mỗi dịp tháng ba về, dù bận đến mấy,
mỗi chúng ta hãy cố gắng về với nơi này để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm
hồn, để được chia sẻ với trời đất, với người xưa, với người nay, để được hoà vào
những lễ nghi trang trọng, những hội hè tưng bừng mang đậm bản sắc văn hóa Việt
Nam, để có thêm tình yêu, niềm tin vào cuộc sống, có thêm sức mạnh vượt qua
mọi trở lực của cuộc sống đời thường.
4. Tài liệu tham khảo

1. Trần Minh Ân, Con về lễ hội.

2. Trần Lâm Biền (1990), Quanh tín ngưỡng Mẫu liễu và điện thờ, Nghiên
cứu Văn hóa Nghệ Thuật, số 5, tr.44-45.

3. Bùi Hạnh Cẩn (2004), Lược sử thanh thế Mẫu Liễu Hạnh và di sản văn
hóa lễ hội Phủ Dầy, NXB giáo dục.

4. Vũ Ngọc Khánh (1990), Tứ Bất Tử, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
5. Trần Hữu Nam, Du lịch và văn hóa trong mối quan hệ tương hỗ.
6. Nguyễn Xuân Năm (2000), Nam Định Đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc,
Sở văn hóa thông tin Nam Định.


7. PTS.TS Nguyễn Quang Ngọc (2003), Địa chí Nam Định, NXB chính trị
quốc gia HN.

8. Trọng Nội (1959), Sự tích đức Liễu Hạnh công chúa, NXB Sài Gòn..
9. Dương Văn Sáu (2004), Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch.
10. Sở văn hóa thông tin Nam Định (2004), Mười năm lễ hội Phủ Dầy.
11. Bùi Văn Tam (2004), Phủ Dầy và tín ngưỡng Mẫu Liễu, NXB văn
hóa dân tộc Hà Nội.
12. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất
bản TP. Hồ Chí Minh.
13. Hồ Đức Thọ (2008), Huyền tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh và di sản văn
hóa lễ hội Phủ Dầy, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
14. Hồ Đức Thọ (2000), Mẫu Liễu sử thi, Viện khoa học xã hội Việt Nam.
15. Vũ Quang Triệu (2006), Một số vấn đề quản lý Nhà Nước đối với lễ
hội Phủ Dầy Vụ Bản Nam Định, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.




×