Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường trung học phổ thông thành phố thanh hóa, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.11 KB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________

LÊ THỊ HƯƠNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ NỮ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2
NGHỆ AN – 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________

LÊ THỊ HƯƠNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ NỮ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS Thái Văn Thành




3
NGHỆ AN – 2015
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện đề tài “Một số
giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường trung học phổ thông
thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá” tôi đã nhận được sự động viên, giúp
đỡ nhiệt tình; sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi của các cấp lãnh đạo, các
thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Từ những tình cảm chân thành nhất, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn
đến toàn thể các thầy giáo, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, trang bị cho tôi
những kiến thức rất quý báu về lý luận và thực tiễn trong quản lý giáo dục, về
những phương pháp nghiên cứu khoa học để hoàn thành Luận văn..
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Giáo dục, Phòng Sau
đại học Trường Đại học Vinh; Ban Tổ chức Thành ủy, UBND tỉnh, Sở Nội
vụ, Cục Thống kê, Sở Giáo dục và Đào tạo, UBND thành phố, phòng giáo
dục thành phố, các trường THPT trên địa bàn thành phố Thanh Hoá, tỉnh
Thanh Hoá đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong thời gian qua để hoàn
thành Luận văn.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Thái Văn
Thành, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thiện Luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và hoàn thiện Luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng, song Luận văn vẫn không thể tránh
khỏi những khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của các
thầy giáo, cô giáo, của bạn bè, đồng nghiệp và của các quý vị quan tâm.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả Luận văn



4
Lê Thị Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................5
Tổng thu ngân sách 9 tháng năm 2014 ước đạt: 1.187 tỷ đồng, thu điều tiết
ngân sách thành phố ước đạt 860,7 tỷ đồng, đạt 109,8% dự toán cả năm tỉnh
giao, đạt 86,8% dự toán cả năm thành phố giao [53]. ....................................35
c. Trình độ lý luận chính trị.............................................................................44
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thiên niên kỷ mới, thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển.
Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc
đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Việt Nam xác
định giáo dục là chìa khóa quan trọng để hội nhập nền kinh tế toàn cầu, vì
giáo dục chính là công cụ hiệu quả nhất để nâng cao dân trí, đào tạo nguồn
nhân lực cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI tiếp tục khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí,
phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển
đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục
và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu;
đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển” [28,tr77].
Phát triển giáo dục và đào tạo(GD – ĐT) là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý(CBQL) giáo dục là lực lượng
nòng cốt, đóng vai trò quan trọng. Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường xây
dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục một cách toàn diện. Đây là nhiệm
vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa mang tính chiến lược lâu dài, đóng vai

trò quyết định cho sự phát triển của nền giáo dục quốc dân, nhằm thực hiện
thành công chiến lược phát triển giáo dục hiện nay.


6
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 cũng đã nêu “Phát
triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát
triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” [52,tr130,131].
Ngành Giáo dục và Đào tạo là một trong những ngành nghề (cùng với
ngành y tế, cao su, dệt may, ngân hàng...) có số lượng CBGVNV nữ cao,
chiếm tỉ lệ 73,6%; ngành GD&ĐT Thanh Hoá có tỉ lệ nữ chiếm hơn 70,8%,
các trường THPT Thành phố Thanh Hóa có tỉ lệ nữ chiếm 71,5%.
Phải khẳng định rằng, với số lượng đông đảo như vậy, CBGVNV nữ
ngành GD&ĐT có nhiều đóng góp công sức, trí tuệ cho việc giáo dục thế hệ trẻ,
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, cũng như có nhiều đóng
góp quan trọng vào thành tựu KT – XH của quê hương, đất nước. Và vai trò, vị
trí của CBGVNV nữ ngày càng được nâng cao trong gia đình và trong xã hội.
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN, Đảng
và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, quan tâm lãnh đạo công
tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, cũng như công tác cán bộ nữ
nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo. Nghị quyết
số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định: “Xây dựng,
phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ
nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác
cán bộ của Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán
bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”. Kết luận số 55-KL/TW ngày 18/01/2013 của Ban Bí thư

về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của
Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước yêu cầu: “Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn thực hiện công


7
tác cán bộ nữ để các cấp ủy đảng, ban, ngành, đoàn thể, địa phương xây dựng
quy hoạch cán bộ nữ. Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy
đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân
các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỉ lệ nữ từ 30%, nhất thiết có
cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc
hội, Nhà nước, Chính phủ có tỉ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới”.
[4]
Những năm gần đây, ngành GD – ĐT Thanh Hoá đã quan tâm nhiều
đến công tác xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục, hầu
hết có phẩm chất chính trị đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững
vàng, đội ngũ này – trong đó có nữ CBQL giáo dục đã có những đóng góp to
lớn, góp phần tích cực vào phát triển sự nghiệp GD – ĐT tỉnh nhà.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển giáo dục trong thời kỳ CNH-HĐH,
đội ngũ CBQL nữ của ngành giáo dục nói chung, đội ngũ CBQL nữ của các
trường THPT của thành phố Thanh Hoá nói riêng vẫn còn nhiều bất cập: chưa
đảm bảo về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, trình độ đào tạo sau đại học còn rất
thấp, năng lực chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện tại và tương lai, vấn đề
dự báo nhu cầu CBQL nữ và quy hoạch đội ngũ CBQL nữ chưa được quan
tâm đúng mức đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục của ngành còn thấp, khả
năng của nữ CBQL chưa được nhận thức đúng; việc chăm lo, đào tạo, sử
dụng và đề bạt cán bộ nữ chưa được các cấp lãnh đạo quan tâm đúng mức;
việc chỉ đạo công tác cán bộ nữ còn thiếu chặt chẽ, chưa thường xuyên. Một
bộ phận phụ nữ còn có tư tưởng tự ty, an phận, ngại khó, thiếu ý chí vươn
lên…Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị đã chỉ ra “Phụ nữ tham gia lãnh đạo,

quản lý có tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực
lượng lao động nữ, nguồn cán bộ nữ hẫng hụt, ở một số lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ
nữ sụt giảm” ... Với mong muốn đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển
giáo dục nói chung và của tỉnh nhà nói riêng, nhằm phát huy vai trò, tiềm


8
năng, trí tuệ của CBGVNV nữ ngành GD&ĐT trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện sứ mệnh đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục Việt Nam, tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài “Một số giải
pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường trung học phổ thông
Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa” góp phần vào việc thực hiện
thành công chiến lược phát triển giáo dục tỉnh nhà.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT
Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
THPT của tỉnh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT Thành phố Thanh
Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp có tính khoa học, khả thi thì sẽ phát
triển được đội ngũ CBQL nữ trường THPT Thành phố Thanh Hóa, tỉnh
Thanh Hóa .
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản
lý nữ trường THPT.

5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý nữ trường THPT thành phố Thanh Hóa.
5.3. Đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ
trường THPT thành phố Thanh Hóa.


9
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những tài liệu lý luận, các công trình
nghiên cứu về những nội dung có liên quan đến đề tài, các văn bản, nghị
quyết, nghị định, chỉ thị, thông tư…
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu bằng phiếu điều tra
Phiếu điều tra được xây dựng trên cơ sở lý luận, mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu và tham khảo những đề tài liên quan đã có trước đây.
Phiếu điều tra gồm có ba loại:
- Phiếu điều tra dành cho CBQL trường THPT.
- Phiếu điều tra dành cho CBQL giáo dục Sở GD&ĐT, một số phòng
ban, cơ quan ban ngành liên quan cấp tỉnh.
- Phiếu điều tra dành cho giáo viên các trường THPT.
6.2.2. Phương pháp chuyên gia
Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà giáo, CBQL giáo dục lâu
năm, nhiều kinh nghiệm để khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các giải
pháp đề xuất trong đề tài.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Xử lý kết quả điều tra khảo sát nhằm đánh giá thực trạng và định hướng
phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT thành phố Thanh Hóa.
7. Đóng góp của luận văn
-Hệ thống được cơ sở lý luậnvề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nới

chung và đội ngũ cán bộ quản lý nữ nói riêng
- Đánh giá được thực trạng của đội ngũ CBQL nữ trường THPT đóng
trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa.
- Đề xuất được một số giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ trường
THPT đóng trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa, Tỉnh Thanh Hóa.


10
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
nữ trường THPT.
Chương 2. Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường
THPT thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3. Một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ
trường THPT thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.


11
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ QUẢN LÝ NỮ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Trong lịch sử Trung hoa cổ đại (những năm 500 đến 300 tr.CN), đã
xuất hiện tư tưởng quản lý của Khổng Tử nhằm mục đích đào tạo ra lớp người
cai trị xã hội, tư tưởng đó được xây dựng trên cốt lõi triết lý của đạo nhân với
các yếu tố: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng. Những tư tưởng trên, tuy chưa thực
sự chuyên sâu về quản lý nhưng đã đặt nền móng cho việc hình thành tư

tưởng về nâng cao chất lượng những người làm công tác quản lý trong xã hội
lúc bấy giờ.
Đến thời Chủ nghĩa Tư bản tư tưởng quản lý xuất hiện vào giai đoạn
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Do yêu cầu phát triển sản xuất đại công
nghiệp, chịu sự tác động của cuộc cách mạng kỹ thuật, nhu cầu quản lý không
ngừng tăng ở cả phạm vi vi mô lẫn vĩ mô. Dần dần khoa học quản lý từng
bước tách ra khỏi triết học và trở thành một bộ môn khoa học độc lập, có sự
tham gia đóng góp của nhiều trường phái như: Thuyết Quản lý khoa học,
Thuyết Hành chính, Thuyết Tổ chức trong quản lý, Thuyết Hành vi...
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lê nin tuy không để lại những
tác phẩm chuyên nghiên cứu về quản lý, nhưng qua các tác phẩm về kinh tế
và chính trị - xã hội của họ, chúng ta có thể rút ra những tư tưởng về quản lý.
Trong Bộ Tư bản, Các Mác đã coi vai trò của nhà quản lý giống như vai trò
của nhạc trưởng trong dàn nhạc. Ông viết: “Một người độc tấu vĩ cầm tự mình
điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng" [17,
tr.480].
Trong cuốn “Vấn đề quản lý và lãnh đạo nhà trường” V.A
Xukhomlinxki đã nêu rất cụ thể cách tiến hành phân tích và khảo sát giúp đội


12
ngũ CBQL nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ CBQL. Do đó yêu cầu về đào tạo, cơ cấu và phát triển đội ngũ
CBQL để thích ứng với sự thay đổi đã trở thành áp lực thường xuyên của giáo
dục.
Năm 1991, tổ chức UNESCO đã xuất bản cuốn “Quản lý hành chính và
sư phạm” của Jean Valérien, nhằm giới thiệu các modul về vai trò, chức năng,
trách nhiệm, yêu cầu chất lượng và nhiệm vụ của người Hiệu trường trường
Trung học.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam, khoa học Quản lý tuy còn non trẻ, song nó cũng đã có
những thành tựu đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội trong
những điều kiện cụ thể, tương ứng với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
sự nghiệp giáo dục; trong đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng về vấn đề
phát triển đội ngũ CBQL. Điều đó được thể hiện qua các chủ trương, chính
sách, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật; tiêu biểu gần đây nhất là Chỉ
thị số 40-CT/TW, ngày 16/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc
xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
[3]; Quyết định số 09/2005/QĐ – TTg, ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 – 2010” [52];
Trong những năm qua đã có có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận
và thực tiễn cũng như đề ra các giải pháp quản lý trong lĩnh vực quản lý và
phát triển giáo dục - đào tạo Việt Nam. Chúng ta có thể liệt kê một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Tác giả Vũ Dũng, tác giả Phùng Đình Mẫn nghiên cứu "Tâm lý học
quản lý" [25], đã đề cập đến khái niệm quản lý và lãnh đạo, bản chất của quản


13
lý và nghiên cứu sâu sắc đến quyền lực trong lãnh đạo, phong cách và uy tín
của người lãnh đạo.
- “Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục” [46] của tác
giả Nguyễn Ngọc Quang, đã đề cập đến những khái niệm cơ bản của quản lý,
quản lý giáo dục và các đối tượng của khoa học quản lý giáo dục.
- "Chính sách và kế hoạch phát triển trong quản lý giáo dục" [43] của
nhóm tác giả Đặng Bá Lãm và Phạm Thành Nghị, đã phân tích về lý thuyết và
mô hình chính sách, các phương pháp lập kế hoạch giáo dục.

- “Hệ thống giáo dục hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI ” [30]
của nhóm tác giả Vũ Ngọc Hải và Trần Khánh Đức đã trình bày những quan
điểm, mục tiêu giải pháp phát triển giáo dục và hệ thống giáo dục.
- Tác giả Phạm Minh Hạc trong “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng
cửa của thế kỷ XXI” [29] đã khẳng định: Đội ngũ giáo viên là một yếu tố
quyết định sự phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và đã đưa ra những
chuẩn quy định đào tạo giáo viên.
Bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) của nước ta đã công nhận về quyền
bình đẳng giữa nam và nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Bản Hiến
pháp đó tuyên bố với thế giới: dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do.
Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới phụ nữ Việt Nam đã đứng ngang hàng với
đàn ông để hưởng mọi quyền công dân”. Và di chúc của Bác ghi rõ: “Trong
sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ ta đảm đang đã góp phần xứng đáng
trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố
gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự
cho phụ nữ” [33].
Cuốn sách “Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý” [36] do Trần Thị Tuy
Hòa làm chủ biên (1997), là một công trình khoa học nghiên cứu cơ sở lý luận


14
về vị trí, vai trò của phụ nữ nước ta đang tham gia quản lý. Đề tài đã chứng
minh rằng, cho dù ở bất cứ cương vị nào và làm công việc gì thì người phụ nữ
luôn tỏ rõ vai trò và năng lực của giới nữ, đặc biệt là vai trò của phụ nữ tham
gia lãnh đạo và ra quyết định quản lý.
Trong cuốn sách “Vai trò của nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2003)[44] của tác giả Võ Thị Mai, đã
góp phần làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi vai trò nữ CBQL nhà nước

trong quá trình CNH - HĐH, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao vai trò, vị thế của phụ nữ tham gia công tác quản lý nhà nước.
Trong lĩnh vực GD&ĐT, đề tài về quản lý giáo dục nói chung, xây dựng,
phát triển đội ngũ CBQL nói riêng được đặc biệt quan tâm. Đã có một số luận
văn thạc sỹ quản lý giáo dục nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ, xây dựng đội ngũ CBQL trường THPT nói chung và các biện
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ, xây dựng đội ngũ CBQL nữ trường THPT
nói riêng ... Ở thành phố Thanh Hóa chưa có đề tài nghiên cứu khoa học nào đề
cập đến vấn đề phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT một cách toàn diện.
Vì vậy, việc nghiên cứu giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT
thành phố Thanh Hóa là rất cần thiết.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Cán bộ quản lý và cán bộ quản lý nữ
Trong quyển từ điển tiếng Việt đã nêu: CBQL là “người làm công tác
có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có
chức vụ" [45,tr.105].
CBQL là những người đứng đầu của một cơ quan, một tổ chức, được
giao chức trách tổ chức điều hành hoạt động của đơn vị. CBQL có thể là cấp
trưởng hoặc cấp phó của một tổ chức được cơ quan cấp trên bổ nhiệm bằng
quyết định hành chính nhà nước. Cấp phó giúp việc cho cấp trưởng, chịu


15
trách nhiệm trước cấp trưởng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về công
việc được phân công.
CBQL là lực lượng rất quan trọng trong cơ quan, đơn vị. Theo ông Lê
Đức Bình, nguyên Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng đã nêu trong
quyển Tổ chức và cán bộ (2001): “Cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo,
quản lý là lực lượng nòng cốt trong bộ máy tổ chức" [8].
Từ những khái niệm nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng CBQL là chủ thể

quản lý, là người có chức vụ trong tổ chức, được cấp trên ra quyết định bổ
nhiệm, là người chỉ huy, giữ vai trò lãnh đạo, dẫn dắt, tác động, ra lệnh, kiểm
tra đối tượng quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu của đơn vị. Người quản lý
vừa là người lãnh đạo, quản lý của cơ quan, đơn vị, vừa chịu sự chỉ đạo, quản
lý của cấp trên.
Vì vậy, cán bộ quản lý nữ là chủ thể quản lý thuộc giới nữ, là người có
chức vụ trong tổ chức, được cấp trên ra quyết định bổ nhiệm và đòi hỏi người
CBQL nữ phải có những phẩm chất và năng lực điển hình đáp ứng những yêu
cầu, nhiệm vụ mà tổ chức, cơ quan quản lý cấp trên giao phó.
1.2.2. Đội ngũ và đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường THPT
1.2.2.1. Đội ngũ
Có nhiều quan niệm khác nhau về đội ngũ:
- Theo Từ điển tiếng Việt: “Đội ngũ là tập hợp một số đông người
cùng chức năng nghề nghiệp thành một lực lượng" [50]. Trong xã hội khái
niệm đội ngũ dùng cho các tổ chức được sử dụng khá rộng rãi: đội ngũ tri
thức, đội ngũ giáo viên, đội ngũ thanh niên tình nguyện, đội ngũ công chức,
viên chức, công nhân, lao động...
- Theo nghĩa khác, đội ngũ là “Tập hợp gồm số đông người cùng chức
năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực lượng”. Khái niệm đội ngũ tuy có các
nghĩa khác nhau, nhưng đều có điểm chung là: Một nhóm người được tổ chức
và tập hợp thành một lực lượng, để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể


16
cùng hay không cùng nghề nghiệp, nhưng đều có chung một mục đích nhất
định.
Từ đó, ta có thể hiểu: Đội ngũ là tập hợp gồm số đông người, có cùng lý
tưởng, cùng mục đích, làm theo sự chỉ huy thống nhất, có kế hoạch, gắn bó
với nhau về quyền lợi vật chất và tinh thần.
1.2.2.2. Đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường

THPT
Đội ngũ CBQL là hạt nhân thiết lập bộ máy tổ chức, phát triển, điều
hành đội ngũ nhà giáo, hỗ trợ sư phạm và hỗ trợ quản lý cho đội ngũ nhà giáo
của nhà trường để mọi hoạt động của nhà trường thực hiện đúng theo tính
chất, nguyên lý, mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục.
Đội ngũ CBQL giáo dục là những người làm công tác có chức vụ trong
một cơ quan, một tổ chức thuộc ngành giáo dục, có vị trí quyết định sự thành
bại của quá trình giáo dục và đào tạo. Đội ngũ CBQL giáo dục trước hết phải
là những người đã có nhiều kinh nghiệm thực tiễn hoặc được bồi dưỡng
nghiệp vụ quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị, được
phân công một hay nhiều lĩnh vực trong công tác giáo dục của một tổ chức
trong hệ thống giáo dục, cơ sở giáo dục, tổ chức điều hành hoạt động giáo dục
của đơn vị.
Đội ngũ CBQL trường THPT bao gồm: Hiệu trưởng, phó Hiệu trưởng
là những người chịu trách nhiệm trước Nhà nước về trọng trách quản lý
trường THPT nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục học sinh THPT phát triển
toàn diện. Hệ thống quản lý giáo dục của chúng ta như là hệ thần kinh điều
khiển toàn ngành mà từng CBQL là những tế bào của hệ thần kinh đó. Nếu
từng người không mạnh thì hệ thống không mạnh. Đặc biệt là từng tế bào,
ngoài việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã được sắp đặt trong hệ thống còn
góp phần hoàn thiện hệ thống.


17
Theo đó, đội ngũ CBQL nữ trường THPT, bao gồm: Hiệu trưởng, phó
Hiệu trưởng thuộc giới nữ, là những người chịu trách nhiệm trước Nhà nước
về trọng trách quản lý trường THPT nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục học
sinh THPT phát triển toàn diện.
1.2.3. Phát triển và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường THPT
1.2.3.1. Phát triển:

Theo Từ điển tiếng Việt "phát triển” có nghĩa là biến đổi hoặc làm biến
đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp.
Theo tác giả Đặng Bá Lãm “ Phát triển là một quá trình vận động từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, theo đó cái cũ biến mất và cái mới ra
đời ... Phát triển là một quá trình nội tại, là bước chuyển từ thấp lên cao xảy ra
bởi vì trong cái thấp đã chứa đựng dưới dạng tiềm tàng những khuynh hướng
dẫn đến cái cao. Còn cái cao là cái thấp đã phát triển ”[42]
Như vậy, sự phát triển là một quá trình vận động và biến đổi không
ngừng làm cho số lượng và chất lượng luôn đi lên theo chiều hướng nhất
định, bền vững. Xây dựng và phát triển luôn gắn kết và có mối quan hệ hữu
cơ với nhau.
Một số giải pháp phát triển là những tác động liên tục, có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý, làm cho số lượng và
chất lượng của khách thể quản lý luôn vận động đi lên trong mối hỗ trợ, bổ
sung lẫn nhau, tạo nên thế phát triển bền vững.
1.2.3.2. Phát triển đội ngũ CBQL và phát triển đội ngũ CBQL nữ trường
THPT
Sự phát triển đội ngũ CBQL được hiểu là quá trình biến đổi làm cho số
lượng, cơ cấu và chất lượng luôn vận động đi lên trong mối quan hệ hỗ trợ bổ
sung lẫn nhau tạo nên thế cân bằng, bền vững.


18
Phát triển đội ngũ CBQL phải thực hiện các nội dung như: Kế hoạch
hoá đội ngũ CBQL, tuyển dụng, định hướng, bồi dưỡng, bố trí sử dụng đề bạt,
luân chuyển...
Tuy nhiên, phát triển đội ngũ CBQL nói chung và CBQL trường THPT
nói riêng là phát triển tập thể những con người nhưng là tập thể những con
người có học vấn, có nhân cách, phát triển ở trình độ cao. Vì thế trong phát
triển đội ngũ CBQL chúng ta cần chú ý một số yêu cầu chính như sau:

- Phát triển đội ngũ CBQL là gây dựng đội ngũ CBQL làm cho đội ngũ
đó được biến đổi theo chiều hướng đi lên, giúp cho đội ngũ phát huy được vai
trò chủ động, sáng tạo, khai thác ở mức cao nhất năng lực, tiềm năng của đội
ngũ, để họ có thể cống hiến được nhiều nhất cho việc thực hiện mục tiêu giáo
dục đề ra.
- Phát triển đội ngũ CBQL phải đảm bảo các nguyên tắc, mục tiêu sau:
+ Phải nhằm hướng vào phục vụ những lợi ích của tổ chức, cộng đồng
và xã hội, đồng thời phải đảm bảo thoả đáng lợi ích vật chất và tinh thần cho
họ.
+ Phải nhằm đáp ứng mục tiêu trước mắt và mục tiêu phát triển lâu dài
của tổ chức, đồng thời phải được thực hiện theo một quy chế, quy định thống
nhất trên cơ sở Pháp luật của Nhà nước.
+ Phải đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn và trên
chuẩn, đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục, đáp ứng yêu cầu đặt ra của địa phương.
+ Phải thực hiện tốt tất cả các khâu từ việc quy hoạch, tuyển chọn, bổ
nhiệm sử dụng hợp lý, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sàng lọc đội ngũ CBQL.
Đó là quá trình làm cho đội ngũ nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ chính
trị, năng lực quản lý, có phẩm chất tốt, có trí tuệ và tay nghề thành thạo, nhằm
giúp họ hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của người quản lý.


19
Theo đó phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT là những tác động
liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý tới đội ngũ CBQL nữ
trường THPT, làm cho đội ngũ này đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu; có kế
hoạch, quy hoạch, chuẩn hoá, nâng cao chất lượng nhằm phát huy năng lực, vai
trò, trách nhiệm của họ trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục.
1.2.4. Giải pháp và giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường
trung học phổ thông

1.2.4.1. Giải pháp:
- Giải pháp là hệ thống các cách đưa ra nhằm giải quyết một vấn đề khó
khăn, cụ thể. Theo Từ điển tiếng Việt (NXB Văn hóa Sài gòn - 2005) thì khái
niệm giải pháp được hiểu như sau: “Giải pháp là phương pháp giải quyết một
vấn đề nào đó” [50]. Cũng theo tài liệu này có nêu: phương pháp là hệ thống
các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó. Như phương pháp học
tập, làm việc có phương pháp... [50]. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài có
thể hiểu: Để đạt được mục đích hoặc cho ra một kết quả nào đó phải có một
hệ thống các cách thức tiến hành cụ thể trong hoạt động thực tiễn hay nói
cách khác là phải có các giải pháp.
1.2.4.2. Giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ trường trung học phổ thông
- Giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT là nhằm phát triển
đội ngũ CBQL nữ đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo về tỷ lệ
theo các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ nữ trong thời kỳ mới,
đạt chuẩn và trên chuẩn, đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.
- Giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT cần chú ý những
điểm sau:
+ Nâng cao nhận thức, quan điểm, cách nhìn của các cấp quản lý về
việc phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT,
+ Nâng cao năng lực quản lý, lãnh đạo cho CBQL nữ trường THPT,


20
+ Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho CBQL nữ
trường THPT,
+ Phải thường xuyên bồi dưỡng CBQL nữ trường THPT nhằm không
ngừng nâng cao kiến thức và kỹ năng sư phạm, kỹ năng quản lý cho đội ngũ
này,
+ Đảm bảo thực hiện chế độ chính sách về quyền lao động và quyền lợi

hợp pháp, chính đáng của đội ngũ CBQL nữ trường THPT,
+ Thực hiện tốt việc kiểm tra giám sát và thanh tra đánh giá, xếp loại
CBQL nữ trường THPT theo chuẩn mà Bộ GD&ĐT đề ra,
+ Đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng và luân chuyển CBQL
nữ trường THPT trong địa bàn tỉnh,
+ Đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng các CBQL nữ trường
THPT xuất sắc, tiên tiến, điển hình.
1.3. Một số vấn đề về đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường THPT trong bối
cảnh hiện nay
1.3.1. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường THPT
Đội ngũ CBQL trường THPT nói chung, đội ngũ CBQL nữ trường
THPT nói riêng có vị trí quyết định sự thành bại của quá trình GD&ĐT giáo
dục. Những quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định
vai trò quyết định của nhà giáo và CBQL trong việc nâng cao chất lượng giáo
dục và tầm quan trọng của đội ngũ CBQL nữ trong việc điều hành một hệ
thống giáo dục đang ngày càng mở rộng và phát triển.
Đội ngũ CBQL này đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước tới cán bộ, giáo viên và học
sinh trong nhà trường. Đồng thời, có trách nhiệm phản hồi toàn bộ tình hình
GD&ĐT của nhà trường về những mặt tích cực cũng như những việc chưa
làm được và kết quả GD&ĐT tới cơ quan QLGD cấp trên.Vì vậy, vấn đề xây
dựng và phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT có ý nghĩa chiến lược rất


21
lớn. Phải xây dựng và phát triển đội ngũ này ngày càng có chất lượng cao, đủ
sức mạnh để đảm nhận những trọng trách lớn mà Đảng và nhân dân giao phó,
đây cũng là nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên của ngành GD&ĐT.
1.3.2. Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nữ
trường trung học phổ thông

Phẩm chất và năng lực là hai mặt chủ yếu tạo nên chất lượng của một
CBQL nói chung và CBQL nữ trường THPT nói riêng. Phát triển đội ngũ
CBQL nữ trường THPT thể hiện trên hai phương diện “đức” và “tài”, là sự
kết hợp những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam và những
yêu cầu của người CBQL nữ trường THPT trong giai đoạn hiện nay.
Để đáp ứng được vị trí, vai trò và thực hiện tốt nhiệm vụ, đội ngũ
CBQL nữ trường THPT phải có đủ những phẩm chất, năng lực cần thiết theo
tiêu chuẩn về chất lượng cán bộ quản lý trường THPT, chấp nhận sự thay đổi
và mạnh dạn đổi mới theo điều kiện thực tiễn của từng địa phương. Và vai trò,
vị trí của cán bộ, giáo viên, nhân viên nữ, đặc biệt là CBQL nữ trường THPT
ngày càng được nâng cao trong gia đình và trong xã hội.
Qua nghiên cứu và khảo sát tại các trường THPT trên địa bàn thành
phố Thanh Hóa, chúng tôi nhận thấy:
Hầu hết CBQL đều có phẩm chất chính trị đạo đức, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ vững vàng, đội ngũ này – trong đó có nữ CBQL giáo dục
trường THPT đã có những đóng góp to lớn, góp phần tích cực vào phát triển
sự nghiệp GD&ĐT tỉnh. Tuy nhiên, một bộ phận CBQL nữ còn có tư tưởng
tự ty, an phận, ngại khó, thiếu ý chí vươn lên….
Về năng lực, CBQL nữ đã đáp ứng được những công việc hiện tại. Tuy
nhiên, xét góc độ trình độ quản lý lâu dài và tính chuyên nghiệp thì đội ngũ
CBQL nữ trường THPT thành phố Thanh Hóa còn nhiều hạn chế như: năng
lực của đội ngũ CBQL nữ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ luôn đổi mới; tính
chuyên nghiệp chưa cao, đặc biệt trong việc thực thi công vụ, khả năng tham


22
mưu, đề xuất, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các lĩnh vực còn hạn chế; kiến
thức về pháp luật, về tổ chức bộ máy, về quản lý nhân sự và tài chính còn hạn
chế, do đó còn lúng túng trong thực thi trách nhiệm và thẩm quyền…
Một số CBQL nữ trường THPT thiếu chủ động sáng tạo, ỷ lại trông chờ

vào hướng dẫn của cấp trên, chậm trễ trong việc giải quyết các vấn đề của cơ
sở. Sự linh hoạt, mạnh dạn trong công tác quản lý, khả năng thuyết phục quần
chúng còn hạn chế, phương pháp làm việc chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của
nhiệm vụ.
1.4. Một số vấn đề về phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường THPT
1.4.1. Tầm quan trọng của việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ
trường trung học phổ thông
Thời đại của công nghệ thông tin với nền kinh tế tri thức, xu hướng
toàn cầu hóa đòi hỏi phải thay đổi trên nhiều lĩnh vực. Đối với giáo dục và
đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL, tập trung xây dựng
và phát triển đội ngũ CBQL giáo dục có chất lượng cao cả về số lượng, chất
lượng, cơ cấu, phẩm chất, trình độ, năng lực là khâu then chốt.
Với tầm quan trọng của vị trí, vai trò, và những đóng góp to lớn của
phụ nữ trong giai đoạn mới, Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục đã ban hành
nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm phát triển công tác CBQL nữ và phát huy vai
trò của họ trong xã hội: Nghị quyết số 153-NQ/TW về công tác cán bộ nữ
(1967), Chỉ thị số 44-CT/TW về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán
bộ nữ (1984), Nghị quyết số 04-NQ/TW về Đổi mới và tăng cường công tác
vận động phụ nữ trong tình hình mới (1993), Chỉ thị số 37-CT/TW ngày
16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ
nữ trong tình hình mới, Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước (2007)...
Phụ nữ ngày nay tham gia hầu hết vào các lĩnh vực của sự phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước. Trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước,


23
phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy và khẳng định vai trò, vị trí của mình đối
với sự phát triển của xã hội. Khi nền kinh tế của chúng ta càng phát triển, phụ
nữ càng có nhiều cơ hội hơn, tạo cho họ nhiều việc làm phù hợp, nâng cao vị

thế của họ, cho phép phụ nữ tham gia vào nền kinh tế thị trường... Tuy nhiên,
hiện nay chúng ta cần quan tâm hơn nữa trong vấn đề bình đẳng giới, nhất là
về mặt tư tưởng, quan điểm của con người trong xã hội, kể cả nam giới và nữ
giới. Nhiều hội nghị trên thế giới đã xác định: Thực hiện bình đẳng giới
không chỉ đảm bảo tính pháp lý về quyền con người, quyền bình đẳng mà còn
mang lại tính hiệu quả rất cao cho phụ nữ và cho xã hội, vì bình đẳng giới sẽ
nâng cao năng suất, chất lượng lao động góp phần tăng trưởng kinh tế, phát
triển con người, nguồn nhân lực cho tương lai.
Ngành GD&ĐT là một trong những ngành nghề có nhiều sự đóng góp
của phụ nữ như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự nghiệp
phát triển giáo dục hiện nay, trước cuộc cải cách giáo dục triệt để, đội ngũ nhà
giáo và CBQL giáo dục nói chung, CBQL nữ trường THPT còn bộc lộ những
hạn chế, bất cập. Số lượng CBQL nữ còn thiếu so với nhu cầu, số lượng
CBQL nữ có trình độ chuyên môn trên chuẩn, được bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ quản lý, bồi dưỡng về lý luận chính trị còn ít. Tính chuyên nghiệp
của đội ngũ CBQL nữ chưa cao, trình độ và năng lực điều hành quản lý còn
bất cập, đặc biệt trong tham mưu, chỉ đạo và tổ chức thực hiện v.v.
Vì lẽ đó, việc xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT
một cách toàn diện, chuẩn hoá: đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chất lượng
chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống tốt để thực
hiện trọng trách lớn mà đảng và nhân dân giao phó, đào tạo bồi dưỡng đội
ngũ những người lao động có trình độ cao, có năng lực và phẩm chất tốt để có
thể thực hiện việc “đi tắt”, “đón đầu” trong công cuộc CNH, HĐH đất nước
nhằm rút ngắn thời gian và khoảng cách để đưa đất nước phát triển hoà nhập


24
với sự phát triển chung của các nước trên thế giới là công việc có ý nghĩa, tầm
quan trọng và tính cấp bách đặc biệt.
Dưới góc độ đổi mới QLGD thì phát triển đội ngũ CBQL nữ trường

THPT là các chính sách, chương trình và biện pháp của các cấp quản lý giáo
dục và cá nhân CBQL nhằm tăng cường về số lượng, chất lượng và cơ cấu để
đáp ứng tốt hơn các yêu cầu quản lý giáo dục hiện nay.
Ngành giáo dục cả nước đã và đang tích cực thực hiện Chỉ thị số 40CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng
và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, Nghị
quyết số 37/2004/QH11 của Quốc hội về giáo dục, toàn ngành đang nỗ lực
thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung trọng tâm: “nói
không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích, nói không với vi phạm đạo
đức nhà giáo và việc cho học sinh không đạt chuẩn lên lớp”, cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Mỗi thầy cô giáo là
một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo”, xây dựng “trường học thân
thiện, học sinh tích cực”.
Tất cả những việc làm đó thể hiện quyết tâm cao của ngành giáo dục
đào tạo trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, CBQL
giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu mới của
cách mạng.
1.4.2. Nội dung phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường THPT
Phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT thực chất là nâng cao hiệu
quả công tác cán bộ đối với đội ngũ này phù hợp với những quan điểm của
Đảng, Nhà nước về công tác phát triển CBQL nữ.
Và để nâng cao hiệu quả công tác cán bộ đối với đội ngũ CBQL nữ
trường THPT theo tác giả cần phải tập trung đi sâu nghiên cứu một số công
tác trọng tâm như: Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ; xây dựng kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng; việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, luân chuyển;


25
việc đánh giá xếp loại và thực hiện chế độ chính sách đối với CBQL nữ
trường THPT. Bởi đây là những yếu tố quan trọng phản ánh bản chất của
công tác quản lý cán bộ, đặc biệt là công tác quản lý CBQL nữ trường THPT.

1.4.2.1. Công tác quy hoạch đội ngũ CBQL nữ nhà trường
Quy hoạch là một bản luận chứng khoa học, trong đó thể hiện sự bố trí,
sắp xếp toàn bộ cả nhân lực, vật lực, tài lực và tin lực theo một quy trình hợp
lý cho từng thời gian, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn
hạn.
Quy hoạch đội ngũ là một trong những nội dung quan trọng của công
tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ có nền nếp, chủ động, có tầm nhìn
xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Là một trong những hoạt động
quản lý của người quản lý và cơ quan quản lý, dựa trên cơ sở đánh giá, phân
tích thực trạng CBQL hiện tại (về ưu điểm, hạn chế, những thuận lợi, khó
khăn,…) dự báo, nắm bắt thời cơ, tiên đoán xu thế phát triển của đội ngũ
CBQL để xác định phương hướng phát triển đội ngũ CBQL cho tương lai.
Công tác quy hoạch cán bộ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát
triển đội ngũ cán bộ nói chung và phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT
nói riêng. Nó giúp cơ quan quản lý hoặc người quản lý nắm rõ về số lượng,
chất lượng, cơ cấu độ tuổi, trình độ chuyên môn, giới tính,…của từng cán bộ
và đội ngũ CBQL. Đồng thời xây dựng được kế hoạch phát triển đội ngũ cán
bộ nhằm tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng cán bộ nói chung và đội
ngũ CBQL nữ trường THPT nói riêng. Mặt khác, kết quả quy hoạch cán bộ là
cơ sở mang tính định hướng cho việc vận dụng và thực hiện các chức năng cơ
bản của quản lý vào hoạt động quản lý bộ máy tổ chức và đội ngũ nhân sự
giáo dục trong các trường THPT.
Để hoàn thiện công tác quy hoạch đội ngũ CBQL nữ trường THPT thì
các cấp quản lý phải lập kế hoạch cho sự cân đối trong tương lai, bằng cách so
sánh số lượng CBQL cần thiết với số lượng hiện có, phân tích độ tuổi, trình độ


×