Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

BẢN CHẤT THỰC TIỄN ÁP DỤNG THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.26 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.
Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu để động viên tài chính cho ngân sách nhà
nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước. Thuế giá trị gia
tăng ( GTGT) là sắc thuế gián thu cơ bản và đặc biệt quan trọng trong việc huy
động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đem lại nguồn thu chiếm tỉ trọng đáng kể
trong tổng số thu ngân sách nhà nước. Do vậy, trong hệ thống pháp luật thuế, pháp
luật thuế GTGT có vị trí rất quan trọng.
Việc áp dụng chế độ thuế GTGT ở Việt Nam thay thế cho chế độ thuế doanh
thu có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội. Trong nhiều năm triển
khai thực hiện, bên cạnh những thành công bước đầu và những giá trị kinh tế - xã
hội đáng ghi nhận của chế độ thuế GTGT đã chứng tỏ sự lựa chọn đúng đắn và sự
cần thiết của việc áp dụng chế độ thuế mới này ở Việt Nam. Mặc dù trong thời
1


gian này, các văn bản pháp luật về thuế GTGT đã được nhà nước sửa đổi, bổ sung
nhưng vẫn bộc lộ những bất cập cần được nghiên cứu, đánh giá để hoàn thiện.
Công cuộc cải cách thuế do vậy cần phải được tiếp tục thực hiện để phát huy
những kết quả đạt được và góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chiến
lược phát triển của đất nước.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh phát triển kinh tế trong thời kì mới, xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra sôi nổi tạo ra nhiều nhân tố ảnh hưởng
đến việc cải cách thuế trên thế giới, đòi hỏi các quốc gia đều phải có các chính
sách mới thích hợp về cải cách nhằm làm phù hợp với xu thế chung.
Thực tế đó đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu cho Luật học là phải nghiên cứu đánh
giá thực trạng pháp luật, phát hiện những bất cập của pháp luật hiện hành về thuế
GTGT và hướng hoàn thiện.
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG


1. THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG LÀ GÌ ?
Thuế là một khoản thu của Nhà nước với các tổ chức và mọi thành viên trong
xã hội. Khoản thu đó mang tính chất bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp mà được
dùng vào các mục tiêu công cộng. Còn thuế GTGT là gì?
Để hiểu được thế nào là Thuế GTGT trước hết cần tìm hiểu khái niệm giá trị gia
tăng: “ Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm đối với một sản phẩm hàng hóa hoặc
dịch vụ tác động vào nguyên vật liệu thô hay hàng hóa thu vào, làm cho giá trị của
chúng tăng thêm ”. Nói cách khác, đây là số chênh lệch giữa “ giá đầu ra ” và “ giá
đầu vào ” do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Theo cách hiểu trên về giá trị gia tăng như trên, Thuế GTGT được định nghĩa
như sau: “ Thuế GTGT là loại thuế gián thu được tính trên phần tăng thêm của
hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình trong quá trình luân chuyển từ sản
xuất, lưu thông đến tiêu dùng.”
2. BẢN CHẤT CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Như khái niệm vừa nêu, Thuế GTGT là yếu tố cấu thành nên giá bán sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ. Do đó mặc dù đối tượng nộp thuế là các nhà sản xuất
kinh doanh nhưng chính người tiêu dùng phải gánh chịu thông qua việc trả tiền
hàng hóa, dịch vụ. Đây là đặc điểm giống nhau giữa Thuế GTGT và Thuế doanh
thu.
Tuy nhiên, Thuế GTGT có điểm khác cơ bản với Thuế doanh thu là: trong quá
trình luân chuyển hàng hóa, dịch vụ, từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng, chỉ
người bán hàng hóa, dịch vụ đầu tiên phải nộp thuế trên toàn bộ doạnh thu thu
được, còn những người bán hàng hóa dịch vụ ở khâu tiếp theo chỉ phải nộp thuế
2


tính trên đầu giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh tại từng công đoạn
và đến cuối chu kì sản xuất kinh doanh của một hàng hóa, dịch vụ thì tổng số thuế
thu được qua các khâu bằng với số thuế thu được tính trên giá bán chưa thuế cho
nguời tiêu dùng cuối cùng. Đây là sắc thuế duy nhất thu theo phân đoạn chia nhỏ

trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, dịch vụ từ khâu đầu tiên cho đến
người tiêu dùng cuối cùng.
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Mặc dù còn nhiều ý kiến xung quanh các vấn đề chi tiết của Thuế GTGT,
xong có thể nói Thuế GTGT đến nay đã đi vào đời sống kinh tế xã hội. Đối chiếu
với các mục tiêu và yêu cầu đề ra qua các năm thì Thuế GTGT đã đạt được những
kết quả rất khả quan, góp phần đảm bảo nguồn thu ổn định và chủ yếu cho NSNN,
đáp ứng được yêu cầu điều tiết vĩ mô nền kinh tế, khuyến khích mở rộng phát triển
sản xuất kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trong và ngoài nước... và
quan trọng nhất là đã hình thành một hệ thống pháp luật thuế tương đối đầy đủ,
hợp lí, áp dụng thống nhất và bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình
doanh nghiệp.
* Điều đầu tiên phải kể đến đó là thuế GTGT đã góp phần đáng kể vào trong sự
phát triển của nền kinh tế. Thuế GTGT thu trên giá trị tăng thêm của hàng hoá,
dịch vụ ở các khâu sản xuất, lưu thông nên khắc phục được nhược điểm cơ bản của
Luật thuế doanh thu là thu trùng lặp qua các khâu sản xuất, kinh doanh, tạo sự
công bằng hơn về thuế, từ đó góp phần thực hiện hợp tác và chuyên môn hoá trong
sản xuất kinh doanh, khuyến khích phát triển và mở rộng sản xuất, lưu thông hàng
hoá. Điều này đã góp phần tích cực vào việc lấy lại đà tăng trưởng kinh tế với tốc
độ cao.
Khi áp dụng thuế GTGT vào Việt Nam không những không làm giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế mà còn thúc đẩy tăng trưởng, điều đó đã được chứng minh qua
sự phát triển của nền kinh tế nước ta các năm qua.
Ngoài ra, do không thu đối với máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật tư
xây dựng loại trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố định của doanh
nghiệp, thực hiện khấu trừ và hoàn thuế GTGT của tài sản cố định nên đã khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu.
Nếu như trước đây các nhà đầu tư còn e dè trong việc quyết định có nên đầu

tư vào Việt Nam hay không bởi các quy định về luật cũng như chính sách ưu đãi
còn chưa rõ ràng thì nay, với sự ra đời của thuế GTGT ở nước ta đã góp phần tạo
ra một hàng lang pháp lý thuận lợi cho việc thu hút đầu tư từ nước ngoài.
Nói tóm lại, việc áp dụng luật thuế GTGT đã góp phần không nhỏ vào việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.

3


* Kết quả thứ hai mà chúng ta phải nói đến đó là thuế GTGT thu được nhiều
hiệu quả đáng kể trong công tác thu ngân sách nhà nước. Mục tiêu khi áp dụng
thuế GTGT thay cho thuế doanh thu đó là không chỉ ổn định mà còn phải làm tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thuế GTGT hàng năm liên tục tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu
về thuế, phí. Tuy nhiên, một vấn đề được đặt ra ở đây là theo xu hướng hiện nay
thì chúng ta đang cố gắng giảm tỷ trọng thuế gián thu trong cơ cấu thuế, bởi vậy
việc tỷ trọng thuế GTGT tăng thì ít hay nhiều cũng ảnh hưởng đến mục tiêu chung.
Chính vì vậy cần phải có các biện pháp để vừa tăng được số thuế GTGT thu vào lại
vừa giảm được tỷ trọng thuế gián thu trong cơ cấu thuế nói chung.
Thuế GTGT thu được từ nội địa chiếm phần lớn trong tổng thu của thuế
GTGT. Cùng với quá trình tăng dần của kim ngạch nhập khẩu, thuế GTGT hàng
nhập khẩu cũng tăng. Đây là kết quả đáng mừng cho cả hoạt động nhập khẩu và
thu ngân sách của nước ta
* Thứ ba, về hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư. Như trên ta đã phân tích về lợi
ích của việc áp dụng luật Thuế GTGT, một trong những lợi ích đó là những mặt
hàng xuất khẩu được hưởng mức thuế suất thuế GTGT là 0%, do đó các doanh
nghiệp xuất khẩu được hoàn lại toàn bộ số tiền thuế đã nộp trước cho hàng hóa
xuất khẩu, như vậy mà đã bù đắp được phần nào các chi phí xuất khẩu, nâng cao
kả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế, kết hợp
với nhiều biện pháp khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước ta trong thời gian qua,

khiến tình hình xuất khẩu không ngững tăng cao.
Còn đối với hoạt động nhập khẩu. Việc đánh thuế GTGT hàng nhập khẩu
làm tăng giá bán hàng nhập khẩu trong nước, do vậy góp phần hạn chế và điều tiết
nhập khẩu, đồng thời Nhà nước cũng cho một số mặt hàng nhập khẩu không thuộc
diện chịu thuế GTGT, đó đều là những mặt hàng công nghiệp nặng, trong nước
chưa sản xuất được hoặc có chăng là sản xuất với số lượng ít, không đủ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người dân, những mặt hàng đó rất cần thiết cho quá trình
CNH, HĐH đất nước. Do vậy, mà mục đích điều tiết nhập khẩu thông quan thuế lại
được thể hiện rõ ràng trong thuế GTGT.
* Bên cạnh đó thực tế áp dụng thuế GTGT cũng góp phần hoàn thiện hệ
thống chính sách thuế ở Việt Nam:
Như chúng ta đã biết, thuế GTGT là một sắc thuế tiến bộ và việc nghiên cứu,
xây dựng và triển khai luật thuế này đã góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách
thuế của Việt Nam. Để đạt được hiệu quả cao nhất từ luật thuế này thì Chính phủ,
Quốc hội đồng thời phải xây dựng đồng bộ các luật thuế có liên quan, điều này
đánh dấu bước tiến mới trong hệ thống chính sách thuế ở Việt nam, sự đổi mới đó
phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng phù hợp
với thông lệ quốc tế. Khi các nước trong khu vực và trên thế giới hầu hết đều đã
hoặc đang nghiên cứu áp dụng thuế GTGT thì chúng ta cũng không thể giữ mãi
4


luật thuế doanh thu chồng chéo, nhiều mức thuế suất. Bởi vậy, thay đổi cũng là
một yếu tố tất nhiên.
Việt Nam áp dụng thuế GTGT trong những điều kiện thuận lợi cũng có mà
khó khăn cũng có, và điều kiện để sắc thuế này thành công khi đi vào thực tế nước
ta đó là nó đã được nghiên cứu xem xét rất kỹ với bối cảnh trong nước để từ đó có
được Luật thuế hoàn thiện nhất. Trước hết, về nền kinh tế Việt Nam: Luật thuế
GTGT ra đời khi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã được thay thế bởi kinh tế
thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế dù thuộc sở

hữu Nhà nước hay tư nhân đều được tạo điều kiện phát triển. Đây là yếu tố rất
quan trọng tạo nên thành công trong việc thực thi sắc thuế mới này. Ngoài ra, khi
sắc thuế GTGT đi vào cuộc sống đã luôn được các cơ quan chức năng quan tâm
theo dõi, điều chỉnh những thiếu sót, bất hợp lý một cách kịp thời.
Thuế GTGT là một sắc thuế hiện đại, khi áp dụng nó đòi hỏi phải có cơ chế
quản lý thuế hiện đại, do đó sẽ thúc đẩy quá trình cải cách hệ thống thuế ở nước ta
theo hướng đồng bộ có hiệu quả.
* Về cơ chế quản lý thuế: Từ năm 2003, nước ta cũng đã bắt đầu áp dụng cơ chế
quản lý tự khai, tự nộp thuế. Tuy nhiên do chưa đủ các điều kiện cần thiết nên chưa
thể thực hiện một cách đồng bộ, mà phải thực hiện từng bước một.
Ngày 23/9/2003, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 127/2003/QĐ TT về thực hiện thí điểm cơ chế mới đối với một số doanh nghiệp ở Cục thuế TP.
Hồ Chí Minh và Cục thuế tỉnh Quảng Ninh bắt đầu từ năm 2004 và mở rộng đối
với Cục thuế Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu trong năm 2005.
Qua nhiều năm thực hiện, đã thu được nhiều kết quả tốt, phát huy tính tự
giác chấp hành và tự chịu trách nhiệm của đối tượng nộp thuế. Việc thực hiện cơ
chế mới đã giúp cho năng lực hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế được nâng cao.
Bộ máy quản lý thuế được tổ chức chuyên sâu theo chức năng, các nghiệp vụ quy
trình quản lý thuế mới được xây dựng và vận hành. Các cục thuế đã thực hiện được
việc nhận và xử lý nhanh chóng, chính xác các tờ khai thuế, theo dõi được các lỗi
kê khai của đối tượng nộp thuế: trong tháng đầu thực hiện cơ chế mới, số tờ khai
lỗi rất lớn chiếm tỉ lệ khoảng 61%. Đến kỳ kê khai tháng 12/2005 số tờ khai lỗi đã
giảm xuống chỉ còn khoảng dưới 10%...
Cho đến nay, cơ chế quản lý tự khai, tự nộp thuế đã được triển khai trên
phạm vi toàn quốc.
* Các thành quả khác: Việc áp dụng thuế GTGT còn thúc đẩy tăng cường quản
lý, hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp; nâng cao nhận thức và ý thức tự
giác chấp hành luật thuế của các đối tượng nộp thuế; hiện đại hóa công tác quản lý
thuế, cải cách hành chính thuế, nâng cao năng lực quản lý thuế.
Thứ nhất, thực hiện thuế GTGT với 3 mức thuế suất 0%; 5%; 10%; ít hơn so
với 11 mức thuế suất thuế doanh thu trước đây (từ 0,5% đến 30%) đòi hỏi các

doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh
5


doanh, tính toán giá thành, giá bán phù hợp với thị trường và nộp được thuế, nâng
cao hiệu quả kinh doanh. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc các ngành như: cơ khí,
xây dựng, vận tải, dệt may, da giày trước khi áp dụng luật thuế GTGT còn gặp
nhiều khó khăn, kinh doanh không hiệu quả; sau khi áp dụng thuế thì đa số các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn trước và nộp đủ thuế theo quy
định.
Thứ hai, thực hiện luật thuế mới ngành thuế đã thực hiện một bước củng cố tổ
chức, hoàn thiện và đổi mới quy trình. Trong thời gian qua, ngành thuế đã xây
dựng và ngày một hoàn thiện hệ thống nghiệp vụ quản lý thuế tương đối đơn giản,
dễ hiểu, dễ thực hiện, tăng dần tính công khai minh bạch. Kiện toàn bộ máy tổ
chức ngành thuế dọc từ trung ương đến tỉnh, huyện, thực hiện song trùng lãnh đạo
giữa ngành và địa phương. Tổ chức bộ máy theo mô hình kết hợp giữa quản lý
theo chức năng, theo đối tượng và theo sắc thuế. Đào tạo được đội ngũ gần bốn
vạn cán bộ thuế có trình độ nghiệp vụ khá, có phẩm chất đạo đức tốt. Ngoài ra, từ
phương pháp hành thu thủ công nay đã xây dựng được mạng máy tính từ tổng cục
đến 64 cục thuế và 625 chi cục thuế. Hệ thống máy tính đã phục vụ đắc lực cho
công cuộc cải cách thuế.
2. BẤT CẬP VÀ HẠN CHẾ CÒN MẮC PHẢI.
Như đã phân tích ở phần trên, quả thật không thể phủ nhận những kết quả to lớn
trong việc áp dụng luật thuế GTGT trong thực tiễn cuộc sống. Kể từ khi ban hành,
những thành tựu cũng như kết quả đó được đông đảo người dân cũng như các cơ
quan, doanh nghiệp... thừa nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó cũng
không thể tránh khỏi những bất cập và hạn chế đang tồn tại xung quanh. Việc tìm
ra những bất cập và hạn chế đó không phải để lên án hay chỉ trích việc ban hành và
áp dụng luật Thuế GTGT mà mục đích là để tìm ra phương hướng cũng như giải
pháp để hoàn thiện, từ đó định ra con đường đúng đắn nhằm phát triển hơn những

thành quả đã đạt được.
Những bất cập và hạn chế còn mắc phải:
1. Đối tượng chịu thuế
Điều 5 Luật thuế GTGT quy định có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện
không chịu thuế. Số lượng như vậy là quá nhiều, trong khi mục tiêu của chính sách
thuế GTGT là mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng
đưa vào diện này còn chưa hợp lý, chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu gây gián
đoạn trong công tác thu nộp thuế và khó khăn cho doanh nghiệp. Lấy một ví dụ đó
là thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa
sản xuất được, nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp,… từ trước đến
nay thuộc diện không chịu thuế GTGT, thiết nghĩ, khi mới áp dụng luật thuế này,
trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp hầu
hết đều ít vốn nên quy định này sẽ giúp doanh nghiệp không phải bỏ ra một lượng
vốn ứng trước. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các hình
6


thức huy động vốn cho doanh nghiệp cũng nhiều hơn, thuận tiện hơn, thì việc
không đánh thuế đối với mặt hàng này không những làm cho luật thuế không được
thông thóang mà còn gây gián đoạn đối với các khâu sau, phức tạp hóa trong tính
toán thuế của doanh nghiệp.
Chính sách hiện hành cũng quy định hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến
không chịu thuế GTGT, do đó nếu các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người
sản xuất không có hóa đơn thì được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản
nhưng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy
chế biến thủy sản, doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT 5% vào ngân sách
nhà nước. Từ đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã mua bán hóa đơn GTGT
khống để làm chứng từ đầu vào khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5% tiền thuế.
Điều 5 và Điều 8 của luật GTGT đã quy định rõ ràng những đối tượng nào
không phải chịu thuế, đối tượng chịu thuế suất 0%, 5%, 10%. Trong bối cảnh nền

kinh tế mở cửa và hội nhập như hiện nay thì không những chỉ có những đối tượng
như vậy mà còn xuất hiện nhiều đối tượng mới, vậy những trường hợp này thì sẽ
xử lý như thế nào? Điều này tạo ra sự thiếu công bằng trong việc áp thuế và không
bao quát hết các hàng hóa, dịch vụ.
2. Về thuế suất
Trong thời gian qua, việc xây dựng hệ thống chính sách thuế thường chú trọng
nhiều đến mục tiêu tài chính (do áp lực của việc thoã mãn nhu cầu chi ngân sách
nhà nước) và mục tiêu kinh tế (do yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và xu thế
hội nhập với nền kinh tế khu vực cũng như thế giới). Mục tiêu xã hội lại được thực
hiện bằng cách lồng ghép trong chính sách thuế làm mất đi tính trung lập. Tính
công bằng thực hiện tương đối ổn định giữa các thành phần kinh tế trong nước
nhưng lại thường không ổn định khi thực hiện giữa các doanh nghiệp trong nước
và nước ngoài (do hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm). Vì vậy chính
sách thuế thường xuyên thay đổi về thuế suất, hệ thống thuế suất khá phức tạp.
Từ khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, số lượng mức thuế suất giảm đi rất
nhiều so với 11 mức thuế suất trước kia của thuế doanh thu, mặt khác lại còn
thường xuyên được xem xét sửa đổi (giảm từ 4 mức thuế suất xuống còn 3 mức
thuế suất như hiện nay), bởi vậy đã thu được nhiều thành công đáng kể. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện cũng xuất hiện nhiều hạn chế cần phải xem xét của hệ
thống nhiều mức thuế suất này.
Trước hết, việc có nhiều mức thuế suất làm cho công tác xây dựng chính sách
của các cơ quan có chức năng gặp nhiều khó khăn. Lúc này, muốn tạo ra một sắc
thuế thật công bằng thì cơ quan hoạch định chính sách phải xây dựng các tiêu
chuẩn phân loại hàng hóa, dịch vụ để từ đó mà áp vào các nhóm thuế suất khác
nhau. Điều này không phải lúc nào cũng được thực hiện thuận lợi vì sự khác nhau
giữa các loại hàng hóa là rất khó phân định, sẽ có nhiều ý kiến phản hồi từ các đối

7



tượng chuyển đến, đặt ra một vấn đề là lại phải tốn một khoản chi phí nhất định để
tổ chức trả lời giải thích cụ thể…
Tiếp theo là đối với các doanh nghiệp, không phải doanh nghiệp nào cũng chỉ
sản xuất kinh doanh một loai hàng hóa nhất định và cũng không phải tất cả nguyên
liệu đầu vào của các doanh nghiệp đều chịu một mức thuế suất như nhau, bởi vậy
nên công tác tính toán thuế của họ sẽ trở nên rất phức tạp với nhiều mức thuế suất.
Giữa các khâu của quá trình sản xuất thuế phải thu khác nhau làm cho đối tượng
nộp thuế bị phân biệt đối xử. Chính vì lý do như vậy mà khi doanh nghiệp xác định
hướng sản xuất kinh doanh của mình phải hao tốn thêm một lượng chi phí để xây
dựng chiến lược mặt hàng, tính toán thuế cho từng sản phẩm, từng giai đoạn.
3. Phương pháp tính thuế
Phương pháp tính thuế là yếu tố quyết định đến việc thuế tính có bị trùng lắp,
chồng chéo hay không. Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện hai phương pháp tính
thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp.
Khi áp dụng nhiều phương pháp như quy định hiện hành thì sẽ có những hạn
chế và bất hợp lý, gây ra sự không thống nhất về giá tính thuế, đối với phương
pháp khấu trừ thì giá là giá chưa có thuế GTGT, còn phương pháp trực tiếp là giá
đã có thuế GTGT, điều này làm cho tính liên hoàn của thuế GTGT bị đứt đoạn,
không công bằng giữa các địa bàn tỉnh. Do quy định Cục thuế tỉnh xác định tỷ lệ %
GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ tính thuế, dẫn đến mỗi tỉnh ban hành một
biểu tỷ lệ thuế suất riêng không thống nhất trong cả nước. Điều này làm mất đi ý
nghĩa của thuế GTGT vì đối tượng nộp thuế trong trường hợp này không quan tâm
đến tỷ lệ GTGT trên doanh thu mà họ chỉ quan tâm đến doanh thu và số thuế phải
nộp.
Ngoài ra, tính thuế theo phương pháp trực tiếp không khắc phục được hiện
tượng trùng thuế vốn là ưu điểm nổi bật của thuế GTGT. Theo công thức của
phương pháp trực tiếp thì giá bán và giá vốn của hàng hóa đều đã là giá có thuế
GTGT, trong trường hợp nếu doanh số bán ra lớn hơn giá vốn (thường phổ biến)
thì phần chênh lệch đã bị đánh trùng thuế.
Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị

gia tăng bên cạnh phương pháp khấu trừ là để phù hợp với điều kiện kinh tế của
Việt Nam: Hiện nay có trên hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh với quy mô nhỏ, trình độ
quản lý kinh doanh và hạch toán thấp, chưa có đủ điều kiện thực hiện chế độ kế
toán, hóa đơn, chứng từ, số thuế GTGT nộp của đối tượng này chỉ chiếm gần 20%
tổng số thu về thuế GTGT. Và đây cũng là biện pháp khuyến khích các doanh
nghiệp thực hiện đầy đủ hóa đơn chứng từ. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn không
tránh khỏi những hạn chế vốn có của nó.
4. Chế độ hóa đơn chứng từ
Một trong những khó khăn vướng mắc lớn nhất trong quá trình thực hiện luật
thuế GTGT ở nước ta là vấn đề về hóa đơn chứng từ. Do đặc điểm của luật thuế
8


GTGT là tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện chặt chẽ nguyên tắc dựa vào
hóa đơn mua hàng để khấu trừ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tuy nhiên nền
kinh tế của nước ta hiện nay việc mua bán được thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt,
một số lượng lớn các giao dịch không cần tới hóa đơn nên những khó khăn khi áp
dụng thuế GTGT là điều khó tránh khỏi.
Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT lại quy định quá nhiều loại hóa đơn, bên
cạnh hóa đơn dành cho các cơ sở áp dụng theo phương pháp trực tiếp và phương
pháp khấu trừ còn có các loại hóa đơn đặc thù kể cả bảng kê mua hàng hóa của
người không có hóa đơn,… Các hóa đơn đều có tính pháp lý như nhau do Luật
thuế quy định. Nhưng điểm đáng chú ý ở đây là việc khấu trừ thuế lại khác nhau,
chỉ có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn đặc thù tại các đơn vị nộp thuế theo phương
pháp khấu trừ mới được khấu trừ thuế theo quy định.
Chính phủ đã ban hành rất nhiều quy định về hóa đơn chứng từ như Nghị định
số 89/2002/NĐ-CP quy định về việc in, phát hành, quản lý hóa đơn,… nhưng vẫn
nảy sinh hiện tượng lợi dụng trong mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để khai
man thuế GTGT đầu vào để khấu trừ hoặc gian lận trong hoàn thuế.
5. Cơ chế quản lý và thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế

Đã nhiều năm kể từ khi cải cách thuế Việt Nam được tiến hành, bên cạnh
những thành tựu đạt được thì các hạn chế vẫn tồn tại khá nhiều. Đối với hệ thống
thuế nói chung và riêng với sắc thuế GTGT, một điều đáng chú ý là hệ thống cơ
quan hành thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra
thuế lại không đáng kể,… Các khâu hành thu phức tạp, một số trường hợp còn xảy
ra hiện tượng chồng chéo..
Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều kiện cần thiết chưa
xuất hiện một cách đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu thất thoát thuế.
Công tác quản lý mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong thời kỳ mới nhưng
vẫn còn nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức quản lý.
Quản lý thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý.
Bộ máy tổ chức ngành thuế cũng chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý
thuế của nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ
thống này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán
bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế
do đó không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển
sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải
tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của một số cán bộ còn thấp
do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc.
Sau một thời gian khi Luật thuế GTGT đã đi vào thực tiễn thì vẫn còn tồn tại
một số điểm trong quản lý và tổ chức như chức năng, nhiệm vụ điều tra khởi tố,
cưỡng chế thu nợ thuế chưa đủ cơ sở pháp lý... trình độ của một số cán bộ thuế còn
non kém. Đội ngũ cán bộ nói chung, xét về cả số lượng lẫn chất lượng có nhiều
9


mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, công tác tổ chức cán bộ còn nhiều
khiếm khuyết, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Công tác quy hoạch, luân chuyển
cán bộ còn nhiều hạn chế. Công chức thuế nói chung còn thiếu kiến thức chuyên
sâu, kỹ năng quản lý thuế quốc tế, cán bộ lãnh đạo một số còn yếu về kiến thức

quản lý kinh tế, quản lý vĩ mô và quản lý hành chính nhà nước.
Do truyền thống thanh toán trong các giao dịch chủ yếu là bằng tiền mặt nên
đã hạn chế rất nhiều đối với cơ quan thuê trong việc kiểm soát các hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số
còn chưa nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp
nhằm đưa ra những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế.
III. GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
* Định hướng hoàn thiện
• Pháp luật thuế Giá trị gia tăng (GTGT) phải được hoàn thiện trên cơ sở ghi nhận
đầy đủ các nội dung chủ yếu của việc điều chỉnh pháp luật thuế, đồng thời phản
ánh đúng, chuẩn xác và khoa học bản chất của Thuế GTGT với tính liên hoàn và
tính trung lập kinh tế cao, đánh vào hoạt động chuyển giao hàng hóa và cung cấp
dịch vụ được tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ trong quá trình sản
xuất liên thông đến tiêu dùng theo phương pháp khấu trừ.
• Luật hóa những quy định đang được ghi nhận tại các văn bản hướng dẫn để đảm
bảo giá trị pháp lý, đảm bảo tính công bằng của luật.
• Hoàn thiện pháp luật thuế GTGT phải gắn liền với sự hoàn thiện của cả một hệ
thống pháp luật thuế đặc biệt là Thuế tiêu thụ đặc biệt và Thuế xuất nhập khẩu.
• Tiếp tục duy trì những tiêu chí đánh giá, xây dựng pháp luật thuế GTGT. Hoàn
thiện pháp luật thuế theo xu hướng đơn giản, ổn định, công bằng, hiệu quả và đáp
ứng xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, đồng thời phải phát huy vai trò đảm
bảo nguồn thu cho NSNN của thuế GTGT trong điều kiện nhiều loại thuế sẽ phải
cắt giảm để đáp ứng yêu cầu của hội nhập.
*

Giải pháp hoàn thiện

• Về phạm vi, đối tượng chịu thuế
Thu hẹp đối tượng không chịu thuế trên nguyên tắc đảm bảo phù hợp với thông

lệ quốc tế, điều kiện kinh tế - xã hội đất nước, các chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của Đảng và Nhà nước và tình trạng công tác quản lý thuế qua từng thời kỳ.
Về nguyên tắc, các nhóm mặt hàng không thuộc diện chịu thuế chỉ nên bao gồm
những mặt hàng thực sự thiết yếu, khó đánh thuế hoặc không thuộc diện chịu thuế
theo thông lệ quốc tế. Theo đó, đối tượng không thuộc diện chịu thuế chỉ nên bao
10


gồm các nhóm mặt hàng sau: Nhóm các mặt hàng sản phẩm nông nghiệp của các tổ
chức hộ gia đình, cá nhân tự sản xuất và bán ra; nhóm các dịch vụ xã hội cần thiết
phục vụ chính sách phát triển con người (y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể thao,
phát thanh, truyền hình công cộng); nhóm các dịch vụ phúc lợi xã hội, bao gồm:vệ
sinh thoát nước, đường phố, công viên, cây xanh, chiếu sáng công cộng; nhóm các
mặt hàng chuyên dụng phục vụ an ninh – quốc phòng được tài trợ từ NSNN, nhóm
các mặt hàng không chịu thuế theo thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên để đảm bảo tính công bằng và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tự
nguyện tuân thủ pháp luật về Thuế GTGT, đối với các nhóm mặt hàng không thuộc
diện chịu thuế nêu trên, cần cho phép đối tượng nộp thuế có quy mô lớn, chấp hành
tốt chế độ hóa đơn, chứng từ, duy trì chế độ sổ sách kế toán tốt được lựa chọn giữa
không nộp thuế GTGT hoặc nộp thuế GTGT để được khấu trừ miễn thuế đầu vào. Cụ
thể cần:
+ Xây dựng mức ngưỡng miễn thuế trên doanh thu thay cho ngưỡng miễn thuế
tính theo thu nhập tối thiểu hiện hành đối với các hộ, cá nhân kinh doanh nhỏ.
+ Đối với hoat động kinh doanh nhà ở, hoạt động kinh doanh bảo hiểm: đây là
những loại hình hoạt động kinh doanh đặc thù cần có những quy định đặc biệt về
thuế nói chung và Thuế GTGT nói riêng đối với các hoạt động này.
• Về thuế suất
Theo quy định hiện hành, thuế GTGT hiện nay có ba mức thuế suất: 0%, 5%,
10%. Việc quy định các mức thuế suất khác nhau ảnh hưởng lớn đến tính công bằng
và hiệu quả của Thuế GTGT. Với các mức thuế suất khác nhau, tỉ lệ chi phí sản xuất

và giá thành các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thuộc các ngành, lĩnh vực khác
nhau sẽ khác nhau một cách tương đối. Chính sách thuế GTGT cần được cải cách
theo hướng giảm bớt số mức thuế suất để nâng cao hiệu quả, tính trung lập và tránh
những tác động bóp méo của thuế. Theo đó, đối với nước ta, thuế suất thuế GTGT
cần được nghiên cứu, xem xét và sửa đổi như sau:
+ Quy định thống nhất một mức thuế suất chuẩn đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu
dùng trong nước.
+ Duy trì và mở rộng diện áp dụng thuế suất 0% đối với hàng xuất khẩu và hàng
hóa dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế.
+ cần xóa bỏ phân biệt đối xử về thuế suất GTGT đối với hàng hóa, nguyên
nhiên, vật liệu sản xuất trong nước và nguyên liệu nhập khẩu.
• Về phương pháp tính thuế
Hiện nay Việt Nam áp dụng hai phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp
khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Phương pháp khấu trừ thường được áp dụng cho
11


các doanh nghiệp lớn, thực hiện chế độ hạch toán kế toán và hóa đơn chứng từ đúng
theo chế độ quy định. Phương pháp tính thuế trực tiếp áp dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ theo tỉ lệ trên GTGT được tạo ra bởi doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với các
doanh nghiệp này, việc xác định thuế GTGT tạo ra bởi doanh nghiệp thường gặp
nhiều khó khăn do họ không thực hiện chế độ kế toán và hóa đơn chứng từ. Do đó
dẫn đến thực tế quy định tỷ lệ GTGT trên doanh thu trong một phạm vi ý nghĩa nhất
định, Thuế GTGT trở thành thuế doanh thu. Vì vậy định hướng cải cách phương pháp
tính thuế trong thời gian tới như sau:
+ Cải tiến và đi đến thống nhất sử dụng một phương pháp tính thuế khấu trừ đối
với các doanh nghiệp có quy mô phù hợp (doanh nghiệp lớn và vừa).
+ Nghiên cứu áp dụng chế độ thuế phù hợp đối với các pháp nhân nhỏ. Cần
nghiên cứu cơ chế xem xét việc quy định thống nhất một loại thuế đói với các doanh
nghiệp nhỏ (chẳng hạn thuế doanh nghiệp nhỏ tính trên doanh thu) để dễ đảm bảo

tính đơn giản, dễ triển khai thực hiện và nâng cao tính công bằng, hiệu quả của hệ
thống chính sách thuế.
• Về hoàn thuế
+ Xây dựng tiêu chí rõ ràng về điều kiện, thời hạn, mức hoàn thuế, đối tượng
hoàn thuế, đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế để đảm bảo hoàn thuế đúng đối tượng, đầy
đủ và kịp thời.
+ Hoàn thiện quy trình quản lý hóa đơn, chứng từ Thuế GTGT, trong đó chú
trọng tăng cường trách nhiệm quản lý của cơ quan thuế trong việc cấp và kiểm tra,
giám sát quy trình sử dụng hóa đơn, chứng từ Thuế GTGT tại các doanh nghiệp, từng
bước góp phần giảm bớt tình trạng vi phạm pháp luật về thuế, đặc biệt là gian lận
trong sử dụng hóa đơn Thuế GTGT để chiếm dụng tiền hoàn thuế của Nhà nước.
• Về quản lý thu thuế
+ Cần quy định thống nhất và cụ thể vai trò, chức năng của các cơ quan trong
việc quản lý thu thuế nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và rõ ràng trong trách
nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý thu thuế.
+ Tăng cường và hợp lý hóa quy trình quản lý hóa đơn, sổ sách, chứng từ kế
toán cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp và đối tượng nộp thuế nhằm đảm
bảo tính rõ ràng, minh bạch trong tính toán, xác đinh nghĩa vụ thuế và hoàn thuế để
tránh những hiện tượng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trốn thuế hoặc chiếm dụng
tiền hoàn thuế GTGT của Nhà nước.
+ Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối tượng nộp thuế kết hợp
với tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng khác trong
công tác quản lý thuế.

12


+ Khuyến khích phát triển hệ thống dịch vụ tư vấn thuế dưới cả hình thức nhà
nước và tư nhân.
+ Tăng cường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội

ngũ cán bộ thuế tạo cơ sở vững chắc về tổ chức bộ máy và con người để nâng cao
hiệu quả công tác quản lý thu thuế.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Từ khi đất nước ta thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế theo cơ chế
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước định hướng XHCN, đã và đang gianh được
nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, tạo cơ sở nền móng cho việc thực
hiện CNH - HĐH đất nước, nhất là trong thời kì kinh tế thị trường và hội nhập kinh
tế quốc tế như hiện nay. Hệ thống thuế có sự đóng góp không nhỏ vào thực hiện việc
cải cách, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế để sử dụng công cụ điều tiết
này một cách có hiệu quả.
Cho đến nay, Luật thuế GTGT đã từng bước khẳng định chỗ đứng và vai trò của
một sắc thuế tiến bộ, công bằng, là công cụ điều tiết vĩ mô. Tuy còn một số bất cập
không thể tránh khỏi trong việc đưa ra áp dụng một chính sách thuế mới có tác động
rộng rãi đến tất cả các thành phần kinh tế từ các doanh nghiệp lớn đến các hộ sản
xuất cá thể.
Chúng ta có thể tin rằng trong những năm tới, với những nghiên cứu và sửa đổi
Luật thuế GTGT của Chính phủ, Luật thuế GTGT sẽ ngày càng hoàn thiện và thể
hiện rõ vai trò của một sắc thuế tiến bộ trong nền kinh tế của nước ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb Công an, Hà
Nội, 2008.
2. Trần Minh Hiền, Pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện,
Luận văn thạc sĩ, 2006.
3. Phạm Thị Giang Thu, “ Một số ý kiến trao đổi về Dự thảo Luật thuế GTGT và
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ”, Tạp chí luật học ,số 4/2008.
4. Luật thuế GTGT năm 2008.

13



14



×