Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn kinh tế chính trị ở trường cao đẳng nghề du lịch thương mại nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.57 KB, 99 trang )

bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
==== ====

LU TH THY

KếT HợP PHƯƠNG PHáP THUYếT TRìNH
VớI PHƯƠNG PHáP NÊU VấN Đề TRONG GIảNG DạY
MÔN KINH Tế CHíNH TRị ở TRƯờNG CAO ĐẳNG NGHề
DU LịCH - THƯƠNG MạI NGHệ AN

luận văn thạc sĩ KHOA HọC GIáO DụC

NGHệ AN - 2015


bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
==== ====

LU TH THY

KếT HợP PHƯƠNG PHáP THUYếT TRìNH
VớI PHƯƠNG PHáP NÊU VấN Đề TRONG GIảNG DạY
MÔN KINH Tế CHíNH TRị ở TRƯờNG CAO ĐẳNG NGHề
DU LịCH - THƯƠNG MạI NGHệ AN
Chuyên ngành: ll&ppdh Bộ MÔN giáo dục chính trị

MÃ số: 60.14.01.11

luận văn thạc sĩ KHOA HọC GIáO DụC



Ngời hớng dẫn khoa học:

pGs.TS. NGUYễN LƯƠNG BằNG

NGHệ AN - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện đề tài, tơi đã nhận được sự quan tâm của nhiều
đơn vị, thầy cô và đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban Giám Hiệu trường Đại học Vinh, Phòng Sau Đại học, Ban Chủ nhiệm
Khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh cùng quý Thầy, Cô tham gia
giảng dạy lớp Cao học ngành Lý luận và Phương pháp dạy học bộ mơn Giáo
dục Chính trị khóa 21.
Ban Giám Hiệu và Thầy, Cô giáo Trường CĐN Du lịch - Thương mại
Nghệ An đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt q trình học tập và thực
hiện đề tài.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS - TS Nguyễn Lương
Bằng, người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt thời gian học tập,
nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Nghệ An, tháng 9 năm 2015
Tác giả

Lưu Thị Thủy

MỤC LỤC


LƯU THỊ THỦY........................................................................................................................1

NGHÖ AN - 2015...........................................................................................................1
LƯU THỊ THỦY........................................................................................................................2
NGHÖ AN - 2015...........................................................................................................2
Nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa “phấn đấu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước theo hướng hiện đại” [24,tr.31]S. Cho nên giáo dục và
đào tạo là một lĩnh vực được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: phát triển giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Nghị quyết Trung ương VIII khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tiếp tục khẳng định “giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội”. Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tiếp tục ra
Nghị quyết (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập quốc tế”..........................................................................................................................2
Do vậy, trong những năm gần đây, để theo kịp sự phát triển của xã hội, ngành giáo dục đào
tạo đã tiến hành đổi mới một cách toàn diện, từ nội dung chương trình sách giáo khoa,
phương tiện dạy học, phương pháp dạy học, cách thức kiểm tra đánh giá trong đó đổi mới
phương pháp giảng dạy được coi là trọng tâm nhằm mục đích phát huy tính tích cực, tự
giác, năng động, sáng tạo của người học. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và đào tạo chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế;
chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Nằm trong thực trạng chung đó,
việc giảng dạy mơn Kinh tế chính trị trong các trường đại học, cao đẳng còn nhiều hạn chế,
chất lượng giảng dạy còn thấp, đặc biệt là trong các trường dạy nghề. Cho nên một trong
những yêu cầu bức thiết đặt ra là cần phải nâng cao chất lượng dạy và học mơn Kinh tế
chính trị trong đó trọng tâm là phải đổi mới phương pháp giảng dạy....................................3
Chương IV. SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CỦA SẢN
XUẤT HÀNG HÓA.............................................................................................................42


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
KTCT
PP
PPDH

:
:
:

Kinh tế chính trị
Phương pháp
Phương pháp dạy học

PPGD
PPTT
PPNVĐ
GV
SV

:
:
:
:
:

Phương pháp giảng dạy
Phương pháp thuyết trình
Phương pháp nêu vấn đề
Giáo viên

Sinh viên



DANH MỤC CÁC BẢNG
LƯU THỊ THỦY........................................................................................................................1
NGHÖ AN - 2015...........................................................................................................1
LƯU THỊ THỦY........................................................................................................................2
NGHÖ AN - 2015...........................................................................................................2
Nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa “phấn đấu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước theo hướng hiện đại” [24,tr.31]S. Cho nên giáo dục và
đào tạo là một lĩnh vực được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: phát triển giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Nghị quyết Trung ương VIII khóa
XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo tiếp tục khẳng định “giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội”. Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tiếp tục ra
Nghị quyết (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập quốc tế”..........................................................................................................................2
Do vậy, trong những năm gần đây, để theo kịp sự phát triển của xã hội, ngành giáo dục đào
tạo đã tiến hành đổi mới một cách toàn diện, từ nội dung chương trình sách giáo khoa,
phương tiện dạy học, phương pháp dạy học, cách thức kiểm tra đánh giá trong đó đổi mới
phương pháp giảng dạy được coi là trọng tâm nhằm mục đích phát huy tính tích cực, tự
giác, năng động, sáng tạo của người học. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và đào tạo chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn cịn hạn chế;
chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Nằm trong thực trạng chung đó,

việc giảng dạy mơn Kinh tế chính trị trong các trường đại học, cao đẳng còn nhiều hạn chế,
chất lượng giảng dạy còn thấp, đặc biệt là trong các trường dạy nghề. Cho nên một trong
những yêu cầu bức thiết đặt ra là cần phải nâng cao chất lượng dạy và học mơn Kinh tế
chính trị trong đó trọng tâm là phải đổi mới phương pháp giảng dạy....................................3
Chương IV. SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CỦA SẢN
XUẤT HÀNG HÓA.............................................................................................................42


1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


2
Nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa “phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước theo hướng hiện đại”
[24,tr.31]S. Cho nên giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
khẳng định: phát triển giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản
và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế giáo dục, phát
triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Nghị quyết Trung
ương VIII khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tiếp tục
khẳng định “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng
Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên
đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội”. Hội nghị lần
thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tiếp tục ra Nghị quyết (Nghị quyết
số 29-NQ/TW) về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập quốc tế”.



3
Do vậy, trong những năm gần đây, để theo kịp sự phát triển của xã hội,
ngành giáo dục đào tạo đã tiến hành đổi mới một cách toàn diện, từ nội dung
chương trình sách giáo khoa, phương tiện dạy học, phương pháp dạy học, cách
thức kiểm tra đánh giá trong đó đổi mới phương pháp giảng dạy được coi là
trọng tâm nhằm mục đích phát huy tính tích cực, tự giác, năng động, sáng tạo
của người học. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa
chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Nằm trong thực trạng chung
đó, việc giảng dạy mơn Kinh tế chính trị trong các trường đại học, cao đẳng còn
nhiều hạn chế, chất lượng giảng dạy còn thấp, đặc biệt là trong các trường dạy
nghề. Cho nên một trong những yêu cầu bức thiết đặt ra là cần phải nâng cao
chất lượng dạy và học mơn Kinh tế chính trị trong đó trọng tâm là phải đổi mới
phương pháp giảng dạy.
Từ những năm cuối của thế kỷ XX, thế giới đã có rất nhiều nhà giáo dục
quan tâm nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học. Có thể kể ra một số tên
tuổi tiêu biểu như: L.V.Reebroa, P.M. Erdonier hay I.F. Khalarmov… Trong đó,
I.F. Khalarmov - nhà giáo dục Xơ Viết vĩ đại đã để lại cho chúng ta một cơng
trình khoa học có giá trị là “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào”
(gồm 2 tập). Trong tác phẩm này ông đã chỉ ra rằng “Tri thức trở thành kiến
thức thực sự khi HS chiếm lĩnh nó bằng sức lao động, sáng tạo của mình”
[27;tr.13].
Trong cuốn: Phương pháp giảng dạy Kinh tế chính trị ở các Trường Đại
học, Cao đẳng các tác giả Nguyễn Việt Dũng, Vũ Hồng Tiến, Nguyễn Văn
Phúc, có nhận định “ Phương pháp thuyết trình vẫn sẽ là một phương pháp phổ
biến trong giảng dạy mơn Kinh tế chính trị nói riêng cũng như bộ mơn Mác Lênin nói chung, vì xuất phát từ đặc thù môn dạy cũng như những ưu điểm của
nó. Nhưng hiệu quả của phương pháp thuyết trình sẽ được tăng lên nếu chúng ta



4
kết hợp nhuần nhuyễn với PPGD khác, đặc biệt là những phương pháp kích
thích tính chủ động, tích cực tư duy của sinh viên.
- Nhóm sách, tài liệu tham khảo viết về việc vận dụng các PPDH trong quá
trình giảng dạy Giáo dục công dân nhằm đạt hiệu quả cao trong quá trình dạy
học như: “Phương pháp giảng dạy giáo dục công dân” của Vương Tất Đạt
(Nxb Đại học sư phạm Hà Nội I, 1994), “Đổi mới phương pháp dạy học môn
đạo đức và giáo dục công dân” của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân (Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1998), “Góp phần dạy tốt, học tốt môn giáo dục công dân ở trường
trung học phổ thông” do tác giả Nguyễn Đăng Bằng làm chủ biên (Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2001).
Theo TS. Võ Thị Xuân, Khoa Sư phạm Kỹ thuật thuộc ĐH Sư phạm Kỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh đề cập về phương pháp giảng dạy, tác giả cho
rằng: Hiện nay sinh viên rất hưởng ứng việc giảm bớt thuyết trình trong giờ
giảng, tăng cường hoạt động tự làm việc, thảo luận nhóm với sự hướng dẫn của
giáo viên.
Trong Chuyên đề 2: Một số phương pháp dạy học tích cực, PGS.TS. Vũ
Hồng Tiến đã đề cập: Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa
hoạt động học tập của sinh viên khơng có nghĩa là giáo viên phải sử dụng những
phương pháp giảng dạy mới mà gạt bỏ, loại trừ hoàn toàn các phương pháp
giảng dạy truyền thống mà phải vận dụng một số phương pháp giảng dạy mới
một cách linh hoạt nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh
trong học tập, phù hợp với hoàn cảnh điều kiện dạy và học ở nước ta hiện nay.
Tác giả còn đưa ra hạn chế của phương pháp thuyết trình trong giảng dạy đó là
chỉ cho phép người học đạt đến trình độ tái hiện của sự lĩnh hội tri thức mà thơi,
do đó, muốn kích thích tính tích cực, tư duy sáng tạo của người học, cần phải
hạn chế phương pháp thuyết trình thơng báo - tái hiện, tăng cường phương pháp
thuyết trình giải quyết vấn đề, nghĩa là kết hợp phương pháp thuyết trình với các
phương pháp giảng dạy tích cực.



5
Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều luận văn Thạc sĩ đề cập đến việc đổi mới
phương pháp giảng dạy nói chung và kết hợp phương pháp thuyết trình và
phương pháp nêu vấn đề nói riêng như: Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Hồng
(2006); Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Minh.
Các tác phẩm, các bài viết, các công trình khoa học của các tác giả đã làm
rõ thêm cơ sở lý luận, từ đó các tác giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy cho đội ngũ cán bộ giáo viên. Nằm trong thực trạng chung
đó, việc giảng dạy mơn Kinh tế chính trị ở Trường Cao đẳng nghề Du lịch Thương mại Nghệ An vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều giáo viên chưa tích cực sáng
tạo trong việc tìm tịi,vận dụng các phương pháp dạy học, chủ yếu là sử dụng
phương pháp thuyết trình, chưa lơi kéo được sinh viên vào bài giảng, chưa phát
huy được tinh thần học tập tự giác nơi người học. Đồng thời, việc dạy học thiên
về một phương pháp nào đó thường kết quả đưa lại khơng cao vì mỗi phương
pháp đều có những ưu và nhược điểm riêng của nó, khơng có phương pháp nào
là tối ưu, hoàn mỹ. Bởi vậy, việc kết hợp các phương pháp trong dạy học nói
chung, kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề nói riêng
là một địi hỏi tất yếu trong quá trình dạy học.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình, đề tài nào nghiên cứu sự kết
hợp giữa phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy
Kinh tế chính trị ở trường Cao đẳng nghề Du lịch - Thương mại Nghệ An. Luận
văn tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu khoa học giáo
dục, vận dụng và phát triển để phù hợp với chủ trương đổi mới, nâng cao chất
lượng dạy học các môn lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay. Cho nên xuất
phát từ yêu cầu của của quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung,
cũng như từ thực trạng giảng dạy môn KTCT cho sinh viên Trường Cao đẳng
nghề Du lịch - Thương mại Nghệ An nói riêng. Tác giả đã chọn vấn đề “Kết
hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy



6
mơn Kinh tế chính trị ở trường Cao đẳng nghề Du lịch - Thương mại Nghệ
An” để làm luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm ra các giải pháp để kết hợp phương
pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề nhằm nâng cao chất lượng dạy mơn
Kinh tế chính trị ở trường cao đẳng nghề Du lịch –Thương mại Nghệ An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn việc kết hợp phương
pháp thuyết trình và phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy mơn Kinh tế chính
trị ở trường Cao đẳng nghề Du lịch - Thương mại Nghệ An.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm dạy học một số bài trong mơn Kinh tế
chính trị ở trường Cao đẳng nghề Du lịch - Thương mại Nghệ An.
- Xây dựng quy trình và giải pháp nhằm việc kết hợp phương pháp thuyết
trình và phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn Kinh tế chính trị ở trường
Cao đẳng nghề Du lịch - Thương mại Nghệ An hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong
giảng dạy mơn Kinh tế chính trị ở Trường Cao đẳng nghề Du lịch - Thương mại
Nghệ An ở hệ cao đẳng.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về việc sử dụng phương pháp thuyết trình
kết hợp với phương pháp nêu vấn đề trong mơn Kinh tế chính trị hệ cao đẳng
(Qua khảo sát, điều tra, thực nghiệm sư phạm tại trường trường Cao đẳng nghề
Du lịch - Thương mại Nghệ An hiện nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát,
điều tra, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, phương pháp thực nghiệm sư phạm và



7
các phương pháp nghiên cứu bổ trợ khác.
6 . Giả thuyết khoa học
Kết hợp phương pháp thuyết trình và phương pháp nêu vấn đề phù hợp
trong giảng dạy sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, học tập môn Kinh tế
chính trị ở trường cao đẳng nghề Du lịch- Thương mại Nghệ An.

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KẾT HỢP
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ
TRONG GIẢNG DẠY MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm phương pháp
Trong quá trình sống và lao động, để tồn tại và phát triển, con người ln
ln biết tìm tịi, sáng tạo nhiều cách thức, phương thức, hay gọi chung là PP, để
tác động vào đối tượng, mục đích là giảm bớt thời gian, công sức đồng thời nâng
cao được hiệu quả hoạt động. Cho nên, PP trước hết là một thuật ngữ và sau đó
là một khái niệm xuất hiện từ rất sớm biểu hiện cả trong ngôn ngữ, nhận thức và
tư duy của con người.
Theo tiếng Hy Lạp thuật ngữ PP bắt nguồn từ là “method” có nghĩa là con
đường, là cách thức để đạt đến mục đích. Theo nghĩa chung nhất PP là cách thức
đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định. PP theo


8
nghĩa khoa học được hiểu là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức

về các quy luật khách quan nhằm điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người nhằm thực hiện mục tiờu nht nh.
Theo V.I. Lênin: "Trong nhận thức đang tìm tòi, phơng pháp cũng là công
cụ, là một thủ đoạn ®øng vỊ phÝa chđ quan, qua thđ ®o¹n ®ã nã có quan hệ vi
khách thể"[38; tr.237].
Theo PGS.TS. Đoàn Minh Duệ phân tích theo nghĩa triết học thì, "phơng
pháp là cách thức, con đờng, phơng tiện, là tổ hợp các bớc mà trí tuệ phải đi theo
để tìm ra và chứng minh chân lý (trong triết học và các khoa học"[20; tr39]
Với quan niệm trên đây theo chúng tôi, phơng pháp là con đờng, cách thức
(hay là một thủ thuật, nghệ thuật) để đạt tới mục tiêu trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn.
PP theo quan im trit hc, là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri
thức về thế giới khách quan mục đích là để điều chỉnh hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
Con người là một thực thể có ý thức. Cho nên, PP là phạm trù gắn với hoạt
động có ý thức của con người, nó phản ánh q trình nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người trong các giai đoạn lịch sử nhất định, và là một trong
những yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động nhận thức và
cải tạo của mình.
- Khái niệm phương pháp dạy học
Dạy học hay giảng dạy là hoạt động của thầy và trò nhằm truyền thụ và
lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng để hình thành những năng lực, phẩm chất ở
người học. Dạy học hay giảng dạy là hoạt động của thầy giáo; nó bao gồm các
khâu: thu thập tài liệu, soạn đề cương bài giảng, soạn giáo án, lên lớp truyền thụ
kiến thức và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên.
Theo các nhà giáo dục học Kazansky và Nazarova cho rằng: "Phương pháp
dạy học là cách thức làm việc của giáo viên với học sinh để cho học sinh lĩnh
hội tri thức, kỹ năng và kỹ xảo"[8; tr.7]



9
Theo Nguyễn Sinh Huy: "Phương pháp dạy học là tổ hợp những thao tác tự
giác liên tiếp được sắp xếp theo một trình tự hợp lý, hợp quy luật khách quan mà
chủ thể tác động lên đối tượng, nhằm tìm hiểu và cải biến nó"[8; tr.7].
Như vậy, phương pháp dạy học trong trường hợp này là cách thức tiến
hành trong giảng dạy nhằm truyền thụ kiến thức cho đối tượng.
1.1.2. Phương pháp thuyết trình
* Quan niệm về phương pháp thuyết trình
Phương pháp thuyết trình, là một phương pháp dạy học ra đời sớm, được sử
dụng khá phổ biến và đem lại nhiều thuận lợi trong quá trình giảng dạy, nhất là
trong giảng dạy các môn xã hội. Mặc dù mỗi nhà giáo dục lại có một quan niệm
khác nhau về PPTT. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi xin đưa ra một số
quan niệm cơ bản sau:
“PP thuyết trình là một PP giảng dạy mà người dạy dùng lời nói sinh động,
gợi cảm, thuyết phục để truyền thụ kiến thức cho học sinh theo mục đích nhất
định, khiến cho HS tiếp thu một cách có ý thức, có hiệu quả” [8;tr.108].
“Phương pháp thuyết trình là phương pháp GV sử dụng ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ để cung cấp cho người học hệ thống thông tin về nội dung học tập.
Người học tiếp thu hệ thống thơng tin đó từ người dạy và xử lý chúng tùy theo
chủ thể người học và yêu cầu của họ” [ 23;tr.55].
“Thuyết trình là phương pháp GV dùng lời nói để trình bày, giải thích nội
dung bài học một cách có hệ thống lơgíc, theo chủ đích nhất định, nhờ vậy
người học sẽ tiếp thu bài giảng một cách có ý thức” [33;tr.58].
*Các hình thức thuyết trình
Thuyết trình là phương pháp bao gồm thuyết trình kể chuyện, thuyết trình
giảng giải và thuyết trình diễn giảng.
- Thuyết trình kể chuyện: Kể chuyện là một hình thức cơ bản của phương
pháp thuyết trình, trong đó giáo viên dùng lời nói biểu cảm và các thao tác dẫn
dắt SV tiếp cận và làm nổi bật nội dung của tri thức cần truyền thụ. Thông qua



10
câu chuyện, GV có thể nêu lên những sự kiện, những hiện tượng hay nguồn gốc
phát sinh, phát triển của những tri thức mà người học cần tiếp thu. Khi nội dung
của câu chuyện phù hợp với nội dung của bài giảng cùng với cách kể chuyện
sinh động của GV sẽ giúp cho người học tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng, thoải
mái, thấm sâu, thu hút được sự chú ý của người học trên lớp.
- Thuyết trình giảng giải: Giảng giải là một hình thức của PPTT, giảng giải
là cách mà giáo viên dùng lời nói để giải thích cho người học hiểu được những
đơn vị kiến thức trừu tượng như các khái niệm, phạm trù, quy luật và sự vận
dụng chúng. Giảng giải thường được sử dụng khi giảng tri thức mới.
- Thuyết trình diễn giảng: Diễn giảng là một hình thức của phương pháp
thuyết trình trong đó tri thức được truyền thụ theo một hệ thống logic chặt chẽ
bao gồm khối lượng tri thức lớn và thực hiện trong thời gian tương đối dài thông
qua lời giảng của giáo viên. Diễn giảng thường được áp dụng đối với những bài
có nội dung tri thức phức tạp, khó, trừu tượng và khái quát cao.
- Ưu nhược điểm của phương pháp thuyết trình trong giảng dạy mơn Kinh
tế chính trị ở trường cao đẳng nghề.
*Ưu đểm: Môn Kinh tế chính trị là một mơn học lý luận có hệ thống kiến
thức khó, trừu tượng và khái quát cao cho nên khi sử dụng phương pháp này
trong giảng dạy sẽ có những ưu điểm sau:
Phương pháp thuyết trình trong giảng dạy mơn Kinh tế chính trị giúp giáo
viên cung cấp một cách có hệ thống lượng kiến thức lớn mà khơng địi hỏi phải
có phương tiện, thiết bị hiện đại. Đồng thời, giáo viên có thể nhanh chóng đưa ra
những thành tựu khoa học mới nhất và những sự kiện kinh tế, chính trị đang
diễn ra để bổ sung cho bài giảng thêm phong phú, sâu sắc. Nhất là điều kiện
phát triển nhanh của kinh tế thị trường và khoa học kỹ thuật thì khơng chỉ cần bổ
sung vào bài giảng những thông tin thuật ngữ mới, mà ngay cả những khái niệm
cơ bản như: hàng hóa, thị trường, cơ cấu kinh tế… cũng không ngừng được mở
rộng cả về nội hàm và ngoại diên. Bài giảng như vậy sẽ đảm bảo yêu cầu gắn



11
nội dung tri thức với đời sống thực tiễn, sẽ khắc phục được sự khn sáo,bảo
thủ, đường mịn.
Đồng thời, khi sử dụng PPTT, thơng tin trong giáo trình mà người học đọc
thường lạc hậu không thể theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của đời sống
kinh tế - xã hội, nên trong một ý nghĩa nhất định sách giáo khoa thường phản
ánh tri thức “ngày hôm trước” của khoa học, cịn bài giảng phản ánh tri thức
ngày hơm nay, thậm chí cả tri thức ngày mai của khoa học kinh tế. Hơn nữa, bài
giảng KTCT luôn mang khuynh hướng trang bị những tri thức cần thiết, cơ bản
và có hệ thống của tồn bộ chương trình học tập mơn KTCT, nó gắn liền với
mục tiêu đào tạo của nhà trường. Do đó khi sử dụng PPTT tốt sẽ cung cấp cho
người học những thơng tin cập nhật, nóng hổi của hoạt động kinh tế xã hội mà
giáo trình chưa kịp cập nhật trong sách giáo trình cũng như từ các nguồn tài liệu
khác. Và nếu người học tự cập nhật thì người học cũng rất mất thời gian và cơng
sức. Chính vì vậy, PPTT đã và đang được sử dụng thường xun, rộng rãi trong
q trình giảng dạy mơn KTCT.
Phương pháp thuyết trình sử dụng trong giảng dạy mơn KTCT giúp người
dạy trình bày được những đơn vị kiến thức mang tính khái qt hóa, trừu tượng
hóa cao theo một hệ thống logic mà nếu như để cho người học tự nghiên cứu thì
khó có thể tự mình tìm hiểu được một cách nhanh chóng và sâu sắc. Chẳng hạn
khi nghiên cứu xã hội tư bản, Mác đã dùng sức mạnh của phương pháp trừu
tượng hóa khoa học, thơng qua phép quy nạp từ cái riêng đến cái chung, từ cụ
thể đến trừu tượng và ngược lại để luận chứng sự phát triển của xã hội loài
người như là một quá trình lịch sử tự nhiên. Nội dung của môn học KTCT là sự
khái quát những vấn đền cơ bản nhất của học thuyết kinh tế chủ nghĩa MácLênin, trong đó các khái niệm, các phạm trù và quy luật kinh tế chủ yếu của nền
sản xuất hàng hóa nói chung và của chủ nghĩa tư bản nói riêng được kết cấu chặt
chẽ, logic trong mối quan hệ biện chứng với nhau, chuyển hóa lẫn nhau cùng
vận động và phát triển. Vì vậy, để làm sáng tỏ những khái niệm, nội dung trừu



12
tượng của kinh tế, giáo viên phải kết hợp khéo léo các thủ thuật thích hợp với lý
luận dạy học. Thực hiện yêu cầu này cũng chính là thể hiện bản chất và ưu thế
của PPTT trong sự phù hợp với tính chất đặc thù bộ mơn KTCT.
Trên cơ sở nắm vững phương pháp nghiên cứu, phương pháp trình bày của
các nhà kinh điển Mác- Lênin và đặc điểm của mơn KTCT, PPTT cho phép giáo
viên trình bày một mơ hình mẫu của tư duy lơgic về cách đề cập và lý giải một
vấn đề khoa học, về cách dùng ngôn ngữ để diễn đạt những nội dung tri thức
phức tạp, trừu tượng một cách rõ ràng, chính xác và súc tích.
Mục đích và nhiệm vụ của giảng dạy KTCT không chỉ nhằm trang bị cho
sinh viên những kiến thức, tư duy kinh tế, thế giới quan, phương pháp luận khoa
học mà cịn giáo dục niềm tin và tình cảm sâu sắc trong quá trình lĩnh hội tri
thức. Với PPTT thì giữa GV và SV sẽ có sự giao lưu trực tiếp, truyền cho các
em những tư tưởng, tình cảm lành mạnh, cao đẹp của mình, thơng qua đó niềm
tin và hoài bảo được nâng lên, tác động mạnh mẽ đến tâm tư, tình cảm, đến suy
nghĩ và hành động đúng đắn của người học. Chẳng hạn, khi trình bày bản chất
của tiền tệ, chỉ cho các em thấy rằng ở nơi nào, người nào “khát vọng, say mê
giữ mình... con nhộng vàng” thì ở đó khơng có lịng thương xót và sự thơng cảm
với sự đau khổ của con người, sẽ xuất hiện những hành vi kinh doanh phi đạo
đức, lối sống ích kỷ và quan hệ bót lột tư sản cần phải khắc phục.
Tuy nhiên, phương pháp thuyết trình bên cạnh những ưu điểm nổi trội đó,
PPTT cũng có những hạn chế:
Đó là khi sử dụng PPTT trong giảng dạy KTCT người học ít có cơ hội phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên. Cho nên khi giảng dạy
môn KTCT người học thường chỉ có nhiệm vụ lắng nghe, ghi chép và tiếp thu
một cách thụ động các kiến thức mà người dạy truyền đạt, cho nên làm người
học cảm thấy mệt mỏi, chán nản, buồn ngủ. Đồng thời, sử dụng PPTT sẽ khơng
kích thích được khả năng tư duy độc lập của SV. Kiến thức KTCT được giáo

viên truyền thụ một chiều thường ít khi có sự giao lưu trực tiếp, do đó làm cho


13
SV dễ ỷ lại vào giáo viên như khơng tích cực suy nghĩ, đưa ra các quan điểm
của mình về những vấn đề trong bài học hạn chế sự phát triển kỹ năng giao tiếp
nơi các em.
Trong giảng dạy KTCT nếu quá lạm dụng PPTT, xem đó là phương pháp
tối ưu thì GV sẽ có ít điều kiện để thu được thơng tin phản hồi từ SV do thuyết
trình là PPDH chủ yếu truyền thụ một chiều. Bên cạnh đó thuyết trình độc thoại
(thầy giảng, trị nghe) dễ làm cho người học có thói quen thụ động, chờ đợi thích
nghe hơn là thích đọc, ngại tìm tịi, nghiên cứu và do vậy chất lượng học tập
không cao.
Cho nên để nâng cao chất lượng giảng dạy môn KTCT khi sử dụng phương
pháp thuyết trình cần phải phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế của
phương pháp này và tất yếu là phải kết hợp nó với một phương pháp giảng dạy
khác.
1.1.3.Phương pháp nêu vấn đề
Phương pháp dạy học nêu vấn đề hay còn gọi là phương pháp dạy học giải
quyết vấn đề , nó được nghiên cứu từ những năm 70 của thế kỷ XIX bởi các nhà
khoa học như A.Ja Ghecdo, B. E Raicop sau đó tiếp tục nghiên cứu và chính
thức ra đời vào những năm 50 của thế kỷ XX khi xã hội bắt đầu phát triển mạnh
mẽ. Ngày nay nhiều nhà khoa học vẫn tiếp tục nghiên cứu và đưa ra nhiều quan
niệm về phương pháp dạy học nêu vấn đề.
Tác giả Phùng Văn Bộ Trong cuốn “Một số vấn đề về phương pháp giảng
dạy và nghiên cứu triết học” cho rằng: “phương pháp nêu vấn đề là phương pháp
giảng dạy dùng lời nói hướng HS vào tình huống có vấn đề, nêu vấn đề và tạo
những điều kiện cần thiết để giải quyết vấn đề, cuối cùng kiểm tra lại những vấn
đề đã được giải quyết để đi đến kết luận” [8;tr.91].
PGS.TS Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng: “Dạy học nêu vấn đề là hình thức dạy

học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một
cách sáng tạo, bao gồm sự kết hợp những PP dạy và học có những nét cơ bản


14
của sự tìm tịi khoa học. Nhờ đó nó đảm bảo cho HS lĩnh hội vững chắc những
cơ sở khoa học, phát triển tính tích cực, tính tự lực, năng lực sáng tạo và hình
thành cơ sở thế giới quan cho họ” [4;tr.41].
PPDH nêu vấn đề là PPDH, trong đó giáo viên tạo ra được các tình huống
mâu thuẫn, từ đó địi hỏi SV phải tìm tịi, khám phá, với sự hướng dẫn, khích lệ
của người dạy. SV sẽ tìm cách giải quyết từ đó giúp người học nắm được kiến
thức, phát triển trí tuệ và có thái độ học tập đúng đắn. Đồng thời rèn luyện được
khả năng trình bày, diễn đạt thuyết trình của SV.
Nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, sự cạnh tranh
gay gắt cho nên việc phát hiện sớm và giải quyết hợp lí những vấn đề nảy sinh
trong thực tiễn là một trong những yếu tố dẫn đến thành cơng, đặc biệt trong
kinh doanh. Vì vậy, tập dượt cho SV biết phát hiện, đặt ra và tìm tịi và giải
quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia
đình và cộng đồng đang được đặt ra như một mục tiêu của giáo dục và đào tạo.
* Các hình thức của PPDH nêu vấn đề
Phương pháp nêu vấn đề ở những hình thức như sau: trình bày nêu vấn đề,
tìm tịi bộ phận (từng phần), nêu vấn đề tồn bộ (tồn phần).
- Trình bày nêu vấn đề
Đây là mức độ thấp nhất trong dạy học nêu vấn đề. GV sử dụng hình thức
này khi cần phải truyền thụ kiến thức mang tính trừu tượng và khái quát cao,
trong khi SV chưa có một chút hiểu biết nào về chúng như phạm trù giá trị, hàng
hóa...)
- Tìm tịi bộ phận
Trong mỗi bài giảng làm một hệ thống các mục có mục to và mục nhỏ. Các
đề mục và các mục nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo thành một bài giảng

trọn vẹn với kết cấu logic xác định.
- Nêu vấn đề toàn bộ


15
Đây là hình thức có mức độ cao nhất trong PPDH nêu vấn đề. Ở hình thức
này, dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt khéo léo của giáo viên, SV tự mình giải quyết
tồn bộ một vấn đề nêu ra trong bài giảng.
* Ưu điểm và hạn chế của phương pháp nêu vấn đề
- Ưu điểm
Khi sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy KTCT, giáo viên
đóng vai trị là người hướng dẫn, gợi mở còn sinh viên là người chủ động tìm tịi
và giải quyết vấn đề và thơng qua đó lĩnh hội được kiến thức do chính mình phát
hiện ra. Cho nên khi sử dụng phương pháp này sẽ trong giảng dạy KTCT đảm
bảo cho sinh viên nắm được hệ thống tri thức chính xác, sáng tạo, linh hoạt, rèn
luyện được cả phương pháp tự học và kh nng din t ni cỏc em. Cho nên
phơng pháp gi¸o dơc ph¸t huy tÝnh tÝch cùc, tù gi¸c , chủ động, t duy sáng tạo
của ngời học đợc chú trọng nhằm bồi dỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập
và ý chí vơn lên.V do vy kớch thích được sự nhiệt tình, hứng khởi cho sinh
viên trong quá trình học tập, tạo điều kiện để các em khác sâu kiến thức. Ví dụ
khi giảng nội dung nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đặt ra các vấn đề thường
xuyên phải giải quyết: sản xuất cái gì? Số lượng bao nhiêu? Sản xuất bằng cách
nào? Sản xuất cho ai và phân phối như thế nào ln địi hỏi người học phải suy
nghĩ, hành động tích cực đạt hiệu quả cao, lợi ích kinh tế cao nhất.
Khi sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề trong giảng dạy KTCT giáo
viên còn giúp cho sinh viên tiếp thu được một hệ thống kiến thức phong phú,
mang tính thời sự nóng hổi trong các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế trong
nước và quốc tế. Do đó tạo ra được sự chủ động, tinh thần tự giác cũng như
động cơ học tập đúng đắn và tinh thần trách nhiệm của người học ngày càng
được nâng cao.

Bên cạnh đó khi sử dụng PPNVĐ trong giảng dạy KTCT, GV cịn giúp cho
SV phát triển được tư duy, trình độ hiểu biết của mình ngày càng tốt đối với các
vấn đề kinh tế trong nước cũng như quốc tế, hiểu biết đúng đắn và đầy đủ hơn


16
những quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển
kinh tế xã hội ở Việt Nam. Hơn nữa, khi sử dụng PPNVĐ GV sẽ rèn luyện cho
sinh viên biết cách phân tích, khai thác những tri thức thực tiễn. Ví dụ giáo viên
khi giảng đến nội dung của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, giáo viên có thể đặt
ra vấn đề: vai trị của khoa học công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm mà phương pháp giảng dạy nêu vấn
đề mang lại khi vận dụng phương pháp này trong giảng dạy KTCT cũng gặp
phải những hạn chế, khó khăn nhất định.
* Hạn chế của phương pháp nêu vấn đề
Môn KTCT là một mơn học khơ khan có kiến thức khát qt và trừu tượng
cao, nên để xây dựng được những tình huống có vấn đề là rất khó, điều đó địi
hỏi GV phải có kinh nghiệm chun mơn, phải có trình độ sâu rộng và phải am
hiểu kiến thức thực tế liên quan đến môn học.
Đồng thời khi sử dụng phương pháp này trong dạy trong giảng dạy KTCT
nếu giáo viên tổ chức lớp học khơng tốt thì mất rất nhiều thời gian, lãng phí thời
gian học tập của SV.
Mặt khác khi sử dụng PPNVĐ trong giảng dạy nếu GV không có sự định
hướng tốt, SV dễ bị lạc hướng trong quá trình giải quyết tình huống, đặc biệt là
khi SV gặp tình huống khó hoặc khơng nhiệt tình khi gặp tình huống thiếu đi
tính hấp dẫn.
1.2. Sự cần thiết phải kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề trong giảng dạy mơn Kinh tế chính trị ở trường cao đẳng nghề
1.2.1 Cơ sở lý luận chung về việc kết hợp các phương pháp dạy học

Mỗi PPDH đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, do đó để đem lại
hiệu quả mơn học cao thì u cầu giáo viên phải lựa chọn các phương pháp sao
cho phù hợp với nội dung của từng phần, từng bài; đồng thời các phương pháp
đó phải được kết hợp với nhau một cách linh hoạt và mềm dẻo. Nhưng để làm


17
được điều đó, giáo viên cần hiểu rõ mối quan hệ giữa mục đích dạy học và
PPDH; giữa nội dung và PPDH cũng như mối quan hệ giữa các PPDH với nhau.
1.2.1.1. Mối quan hệ giữa mục đích dạy học và phương pháp dạy học
Để đáp ứng được nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì nhiệm vụ đặt ra cho ngành giáo dục đào
tạo nước ta hiện nay là rất nặng nề. Do đó, mục đích của dạy học ngày nay là
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được
mục đích đó, tất yếu trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải tiến hành đổi mới
PPDH.
Xuất phát từ yêu cầu về lí luận cũng như thực tiễn, Đảng và nhà nước ta
xác định đổi mới PPDH một trong những nhiệm vụ cấp bách của giáo dục đào
tạo, nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục thế hệ trẻ. Nhiệm vụ này đã được thể hiện rõ trong nhiều văn bản quan
trọng đặc biệt là trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Thực
hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học … nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện” [24;tr.216].
Gần đây, trong Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
tiếp tục ra Nghị quyết (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về “đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị

trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”.Quan điểm này nhấn mạnh đến
mục tiêu là đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó lấy hoạt động học làm
trung tâm thay vì hoạt động dạy: người học - đối tượng của hoạt động dạy, đồng
thời là chủ thể của hoạt động học - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do
giảng viên tổ chức, hướng dẫn, thông qua đó tự khám phá những tri thức mới,


18
những điều chưa rõ một cách chủ động chứ không phải thụ động tiếp thu những
tri thức đã được giảng viên sắp đặ. Do đó, vấn đề đặt ra là phải tìm những
phương pháp, kết hợp các phương pháp sao cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu
của từng bộ mơn để đạt được mục đích đó. Đây chính là trách nhiệm của những
người làm công tác giáo dục mà trực tiếp là giáo viên trực tiếp dạy học ở các bộ
môn cụ thể.
1.2.1.2. Mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp
Mục tiêu của quá trình giảng dạy hướng tới là làm thế nào để truyền đạt
kiến thức cho SV một cách có hiệu quả. Do vậy, việc giáo viên xác định phương
pháp sao cho phù hợp với nội dung giữ vai trị quyết định vì giữa nội dung và
phương pháp có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mối quan hệ giữa nội dung
và phương pháp có hai hướng tiếp cận cơ bản.
Hướng tiếp cận thứ nhất là: Phương pháp là hình thức vận động của nội
dung sự vật. Theo quan điểm này, mỗi sự vật đều có bản chất của nó và được thể
hiện qua hình thức nhất định. Do đó, mỗi sự vật đều có phương pháp vận động
riêng. Cho nên, trong quá trình dạy học cho thấy mỗi nội dung dạy học có một
phương pháp dạy học đặc thù, mang lại hiệu quả nhất định mà các phương pháp
khác khó có khả năng thay thế. Do vậy, khơng thể phủ nhận vai trị của từng
phương pháp giảng dạy, mà điều quan trọng là làm sao giáo viên phải xác định
được phương pháp phù hợp với nội dung bài học. Để xác định được phương
pháp giảng dạy phù hợp với nội dung thì người dạy phải trả lời câu hỏi dạy cái
gì sau đó mới đến câu hỏi dạy như thế nào.

Hướng tiếp cận thứ hai là: Phương pháp là cách thức, là con đường, là
phương tiện để đạt tới mục đích nhất định. Với quan điểm này, chúng ta thấy
rằng phương pháp có tính độc lập tương đối với nội dung sự vật. Từ cách tiếp
cận này chúng ta thấy rằng mỗi một nội dung dạy học có nhiều phương pháp
triển khai khác nhau trong đó có một phương pháp giữ vai trị cơ bản. Vì thế,
muốn đạt kết quả cao trong giảng dạy thì người dạy phải trả lời được câu hỏi:


19
với phương pháp, phương tiện này thì dạy cho nội dung nào. Dùng phương pháp
phương tiện nào là tối ưu để chuyển tải được nội dung kiến thức đến với người
học.
Như vậy: Phương pháp dạy học khơng phải là hình thức bên ngồi của nội
dung. Nó phải xuất phát từ nội dung, từ những đặc trưng của tri thức môn học
mà có một phương pháp truyền đạt phù hợp.
Tuy rằng việc lựa chọn phương pháp giảng dạy phải xuất phát từ nội dung,
nhưng chúng ta cũng phải linh động trong việc lựa chọn và kết hợp các phương
pháp làm sao cho giờ giảng đạt được hiệu quả tốt nhất. Cho nên, trong q trình
giảng dạy, người dạy khơng thể khơng chú ý đến mối quan hệ giữa nội dung và
phương pháp vì quan hệ giữa nội dung và phương pháp là quan hệ cơ bản nhất.
Nếu nội dung bài học trừu tượng thì phương pháp giảng phải chậm lại kết hợp
với nhiều câu hỏi nhỏ. Còn nếu nội dung bài giảng đơn giãn thì giáo viên sử
dụng nhiều dạng hoạt động khác nhau hoặc tổ chức thảo luận....
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa các phương pháp
Để nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như nâng cao năng lực tự học, tích
cực, chủ động của sinh viên thì người GV phải truyền được cảm hứng, kích
thích sự tìm tịi, sáng tạo của sinh viên. Để làm được điều đó, GV nhất thiết phải
phải đổi mới PPDH, phải kết hợp phương pháp dạy học truyền thống với
phương pháp dạy học hiện đại. Phải dạy cho sinh viên cách học, cách thu thập
và vì xử lý thơng tin thay vì dạy kiến thức cho sinh viên; tích cực hóa hoạt động

nhận thức của người học, làm cho người học trở thành chủ thể nhận thức trong
quá trình dạy học.
Với sự phát triển như xu thế hiện nay, chúng ta có thể khẳng định rằng, hệ
thống phương pháp dạy học truyền thống không thể đáp ứng được những yêu
cầu mới của sự nghiệp giáo dục hiện đại. Cho nên trong quá trình giảng dạy phải
kết hợp nhiều PPDH khác nhau, cả phương pháp truyền thống và phương pháp
hiện đại.


×