Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số nội dung cơ bản của thuế TNDN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.12 KB, 22 trang )

Một số nội dung cơ bản của thuế TNDN:
1. Đối tượng nộp thuế:
Về nguyên lý chung thì tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế đều thuộc đối tượng nộp thuế
TNDN.
Tuy nhiên, để thu thuế thu nhập, các nước chú trọng đến việc phân loại
công ty hoạt động dưới hình thức nào. Các nước do các hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh nên đã quy định cụ thể một hoạt động kinh doanh trước khi tiến
hành phải thực hiện việc đăng ký và hoạt động theo luật kinh doanh tương
ứng. Trên cơ sở các quy định về pháp lý, tên gọi, chủ sở hữu hoặc đồng chủ
sở hữu, các sáng lập viên… mà đã định ra 2 hình thức thu thuế thu nhập
thích hợp. Nhìn chung các nước đều quy định thu nhập của một pháp nhân
kinh doanh phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Thu nhập của thể nhân
kinh doanh hoặc cá nhân không kinh doanh phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
2. Cơ sở tính thuế hay căn cứ tính thuế:
Bao gồm thu nhập chịu thuế và thuế suất.
2.1 Thu nhập chịu thuế:
2.1.1 Xác định thu nhập chịu thuế:
- Thu nhập chịu thuế là phần thu nhập làm cơ sở đánh thuế thu nhập.
Nó được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được sau khi đã trừ
một số khoản thu nhập và chi phí để tạo ra thu nhập đó.
- Muốn xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp cần xem xét
các vấn đề sau:
+ Nguồn gốc của thu nhập.
+ Địa điểm phát sinh thu nhập và thời hạn cư trú hoặc không cư trú của
chủ sở hữu thu nhập.
Hiện nay trên thế giới có hai hệ thống cơ bản để xác định nghĩa vụ nộp
thuế thu nhập của một doanh nghiệp hay cá nhân tại một nước nào đó theo
luật pháp của nước đó. Hai hệ thống này là hệ thống xác định nghĩa vụ thuế



của một đối tượng dựa trên nơi thường trú và hệ thống dựa trên nguồn gốc
thu nhập.
Đánh thuế trên cơ sở thường trú tức là phải xác định rõ thế nào là cơ sở
thường trú và thuế thu nhập sẽ được điều chỉnh trên toàn bộ thu nhập của
doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau không phân biệt lĩnh vực, thời gian
phát sinh. Nói cách khác cơ sở xác định khả năng chịu thuế của một công ty
là dựa trên khái niệm một công ty cư trú hay không cư trú ở một nước. Một
công ty cư trú ở một nước có nghĩa vụ kê khai toàn bộ thu nhập chịu thuế
phát sinh ở trong nước và ngoài nước. Còn công ty không cư trú, nhưng có
cơ sở thường trú ở một nước chỉ có nghĩa vụ kê khai thu nhập phát sinh tại
nước đó.
Phương pháp đánh thuế dựa trên nguồn thu nhập (Đánh thuế trên cơ sở
xuất xứ) tức là chỉ có những thu nhập phát sinh trong lãnh thổ của cơ sơ sản
xuất kinh doanh đó bị đánh thuế.
Như vậy, việc đánh thuế dựa trên nguồn thu nhập sẽ có cơ sở tính thuế
eo hẹp hơn cách đánh thuế dựa trên tiêu chuẩn thường trú khi trên lãnh thổ 1
quốc gia nào đó có nhiều công ty hoạt động kinh doanh của nước ngoài
+ Tính thường xuyên hay không thường xuyên của việc phát sinh thu
nhập.
- Khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN cần phải quán triệt các
nguyên tắc cơ bản sau đây:
+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập bằng tiền, tức là chỉ những thu nhập
được tính ra bằng tiền mới đưa vào thu nhập chịu thuế, theo đó thì những thu
nhập dưới dạng hiện vật phải được tính thành tiền và những thu nhập nhận
được từ các lợi ích công cộng không được tính vào thu nhập chịu thuế.
+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập ròng, tức là thu nhập nhận được sau
khi đã trừ đi các chi phí hợp lý và cần thiết để tạo ra thu nhập đó;
+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập thực tế. Tức là chỉ những thu nhập mà
doanh nghiệp thực sự nhận được trong kỳ tính thuế mới được tính còn những



thu nhập đang ở dạng tiềm ẩn thì không được tính vào thu nhập chịu thuế. Ví
dụ những khoản trừ chiết khấu giảm giá cho khách hàng, trị giá hàng bị trả
lại sẽ được khấu trừ không được tính vào thu nhập chịu thuế, ngược lại
những khoản trợ giá, phụ thu mà doanh nghiệp được hưởng lại được tính
vào thu nhập chịu thuế.
2.1.2 Xác định thời gian tính thuế thu nhập doanh nghiệp:
Xác định đúng đắn thời gian tính thuế thu nhập doanh nghiệp là vấn đề
vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng và thực thi luật thuế vì việc xác
định đúng thời gian tính thuế sẽ đảm bảo giá trị đồng tiền nộp thuế trước
tình trạng lạm phát, tránh sự lợi dụng chiếm dụng tiền thuế và thực hiện chi
tiêu theo kế hoạch của Nhà nước.
2.1.3 Tuỳ theo chính sách thuế thu nhập của mỗi nước mà nội dung,
phương pháp xác định các khoản chi phí có sự khác nhau. Các khoản chi phí
được khấu trừ về nguyên tắc phải có các đặc trưng sau:
+ Chi phí phải liên quan tới doanh nghiệp hay có thể nói rõ hơn đó là
các chi phí phải được chi ra cho các mục đích tạo ra thu nhập chịu thuế.
+ Chi phí phải thật được chi ra.
+ Mức trả cho chi phí phải hợp lý.
+ Chi phí phải có tính “thu nhập” hơn là tính vốn. Chi phí mang tính
chất vốn là những khoản chi liên quan đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Chi
phí mang tính chất thu nhập là những khoản chi phí liên quan trực tiếp đến
tạo ra thu nhập.
Mặc dù có những nguyên tắc chung để xác định các khoản chi phí được
khấu trừ nhưng nhiều khoản chi phí không nằm trong phạm vi các nguyên
tắc trên. Các chi phí đó là:
a. Vốn thu hoạch lại: là số tiền thanh lý tài sản, nhượng bán tài sản. Có
3 quan điểm về việc đánh thuế đối với vốn thu hoạch lại:



- Quan điểm 1: Đánh 1 phần vào 1 số loại vốn thu hồi được, chủ yếu
đánh vào đất, cổ phần.
- Quan điểm 2: Không đánh thuế thu nhập vì nói không mang tính chất
thu nhập mà mang tính chất vốn.
- Quan điểm 3: Đánh thuế thu nhập trên toàn bộ khoản vốn thu hồi lại
vì người ta coi đó là khoản thu nhập.
Để đánh thuế chính xác, ở các nước có hệ thống thuế hiện đại, người ta
cho laọi trừ các nhân tố ảnh hưởng (ví dụ như lạm phát). Ở các nước hệ
thống thuế chưa phát triển, đánh thuế trên toàn bộ khoản vốn thu hồi lại.
b. Lợi tức cổ phần: là một khoản thu nhập của doanh nghiệp do doanh
nghiệp đóng góp cổ phần vào công ty khác. Có 2 quan điểm:
- Quan điểm 1: Không nên đánh thuế vì trước khi nhận được lợi tức cỏ
phần, khoản này đã bị đánh thuế ở doanh nghiệp mà mình góp cổ phần.
- Quan điểm 2: Nếu coi đây là khoản thu nhập thì vấn đánh thuế.
Người ta đưa ra cách xử lý:
- Khấu trừ tiền thuế đã nộp ở khâu trước khi nhận được thu nhập.
- Đánh vào một phần thu nhập từ lợi tức cổ phần.
c. Lãi tiền gửi: Đây là khoản thu nhập của doanh nghiệp nên nên đánh
thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu khuyến khích hoạt động cho vay
vốn thì không đánh vào lãi tiền gửi.
d. Thu nhập từ nước ngoài: nếu căn cứ vào tiêu thức thường trú thì nên
đánh. Tuy nhiên đây là khoản thu nhập từ nước ngoài đã bị đánh thuế thu
nhập doanh nghiệp của nước ngoài nên nếu đánh thuế thu nhập doanh
nghiệp sẽ dẫn đến đánh trùng thuế, hạn chế đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh.
e. Khấu hao tài sản cố định: là một yếu tố của hci phí nhưng được phân
bổ như thế nào trong từng năm khi tính thu nhập chịu thuế. Về nguyên tắc,


tỷ lệ khấu hao tài sản cố định nhằm mục đích tích luỹ và tính thuế phải

tương ứng với vòng đời kinh tế hữu dụng của tài sản, nhưng thực tế ở nhiều
quốc gia, khấu hao đưa vào chi phí để tính thuế thường không tương ứng với
vòng đời hữu dụng của tài sản.
g. Các khoản thuế được khấu trừ:
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp thì không được coi là khoản chi
phí khấu trừ.
Đối với thuế đánh trên hàng hoá (thuế gián thu) thì được coi là chi phí
và được phép khấu trừ vì thực chất đây là một khoản chi phí mà Công ty
phải trả khi mua hàng hoá và nó được coi như là một chi phí tạo ra lợi
nhuận.
h. Chi phí quảng cáo, chi phí hội nghị, tiếp tân, tiếp khách…: Việc xác
định định mức bao nhiều là hợp lý chỉ mang tính chất ước lệ.
2.2 Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế suất là mức động viên của Nhà nước trên một đơn vị của đối
tượng tính thuế. Thuế suất là linh hồn của một sắc thuế. Nó phản ánh mức
độ điều tiết của nhà nước đối với một đối tượng tính thuế; thể hiện quan
điểm của Nhà nước về yêu cầu động viên nhằm khuyến khích hay không
khuyến khích sự phát triển của một ngành nghề, một loại sản phẩm cụ thể
nào đó. Thuế suất được xác định bằng đại lượng tuyệt đối hay bằng tỷ suất.
Cơ cấu thuế suất thuế thu nhập công ty được thiết kế khác nhau tuỳ
thuộc điều kiện và chính sách kinh tế của từng nước. Một chính sách thuế
thu nhập thông minh không phải là đặt ra mức động viên thuế cao (thuế suất
cao), điều quan trọng là thuế suất cần quy định ở mức vừa phải trên cơ sở
xem xét, cân nhắc đến cả lợi ích: Nhà nước và doanh nghiệp, đồng thời cần
phải mở rộng diện thu thuế, đa dạng hoá đối tượng thu và không bỏ sót
nguồn thu, gánh nặng thuế được san sẻ cho nhiều người cùng chịu.


3. Ưu đãi miễn, giảm thuế
3.1 Khái niệm:

Ưu đãi về thuế là việc một quốc gia, một tổ chức Quốc tế dành những
điều kiện, những quyền lợi đặc biệt về thuế cho một tổ chức quốc tế, một
quốc gia, một doanh nghiệp hay một cá nhân nào đó hơn so với những quốc
gia khác, tổ chức khác hay đối tượng khác.
Nói cách khác, ưu đãi thuế là hình thức cho người nộp thuế được
hưởng những điều kiện thuận lợi khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
3.2 Đặc điểm của các ưu đãi thuế
Ưu đãi thuế là một trong những bộ phận của chính sách ưu đãi nên nó
mang đầy đủ đặc điểm của chính sách ưu đãi. Ngoài ra nó còn có một số đặc
điểm chủ yếu sau:
- Chỉ có tổ chức quốc tế và các quốc gia mới có quyền đặt ra ưu đãi
thuế vì tổ chức quốc tế và quốc gia có quyền quản lý. Ưu đãi chỉ tồn tại khi
nó thực hiện được. Muốn vậy, đối tượng ban hành ra nó phải có quyền lực
nhất định. Tổ chức quốc tế có quyền lực quản lý trong phạm vi các quốc gia
theo các cam kết mà các quốc gia này đã ký kết; Nhà nước có quyền quản lý
quốc gia trên mọi phương diện hay nói cách khác có Nhà nước thì mới có
thuế, mới có ưu đãi thuế. Vì vậy, chỉ có tổ chức quốc tế và Nhà nước ở các
quốc gia có quyền đặt ra ưu đãi thuế.
- Ưu đãi thuế nhằm vào mục đích phát triển. Vì vậy, các tổ chức quốc
tế, các khu vực, Nhà nước ở các quốc gia đều đưa ra hệ thống ưu đãi thuế
khác nhau tuỳ hoàn cảnh của mỗi nước, tuỳ mục tiêu phát triển nền kinh tế
trong từng thời kỳ.
- Giới hạn về chủ thể và thời hạn ưu đãi thuế: Cũng như chính sách ưu
đãi, chính sách ưu đãi thuế nhằm mục đích nhất định thì phải có chủ thể nhất


định. Thời gian ưu đãi thuế cũng phải được tính đến để cho phù hợp với sự
phát triển của doanh nghiệp. Nếu thời gian quá ngắn thì các nhà đầu tư chưa
có khả năng khắc phục khó khăn nhưng nếu thời gian quá dài thì có khi
không những không có tác dụng lắm đối với kích thích đầu tư mà còn tạo ra

nhiều mặt tiêu cực vì chính sách ưu đãi nói chung và chính sách ưu đãi thuế
nói riêng bên cạnh những mặt tích cực thì còn có rất nhiều những hạn chế
như: tạo ra sự mất công bằng, gây méo mó nền kinh tế...
- Chính sách ưu đãi thuế làm giảm cơ sở thuế bao gồm có thể là giảm
thuế suất hoặc giảm số thu.
- Mặc dù việc ban hành các ưu đãi thuế để khuyến khích đầu tư rất
phổ biến tại các nước trên thế giới, hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận về tác
dụng của các biện pháp ưu đãi thuế này đối với việc thu hút đầu tư. Đối với
các nhà đầu tư, việc quyết định đầu tư vào một nước thường phụ thuộc vào
toàn bộ các yếu tố của nước sở tại, trong đó ưu đãi thuế chỉ là một trong lý
do để cân nhắc và không phải là yếu tố quan trọng nhất. Nguồn tài nguyên,
sự ổn định về chính trị và kinh tế, minh bạch trong hệ thống pháp luật, việc
có đầy đủ các hệ thống hỗ trợ (ví dụ: các hệ thống ngân hàng, vận tải, viễn
thông và các tiện ích hạ tầng), khả năng dễ chuyển lợi tức ra nước ngoài và
lực lượng lao động chuyên nghiệp và giá rẻ thường là những yếu tố quyết
định hơn vấn đề về thuế khi xem xét các vị trí đầu tư thích hợp. Nếu các yếu
tố này là thuận lợi và hệ thống thuế quốc gia phù hợp với các chuẩn mực
quốc tế thì ưu đãi thuế sẽ không còn vai trò quyết định ảnh hưởng đến quyết
định của nhà đầu tư.
Một đặc điểm nữa của ưu đãi thuế là rất khó có thể định lượng phần
đầu tư tăng lên do áp dụng các ưu đãi thuế so với phần số thu đã mất, do đó


các đánh giá về tác dụng của từng loại ưu đãi thường mang tính chất định
tính, không mang tính chất định lượng.
3.3 Cơ chế áp dụng ưu đãi
- Cơ chế tự động: cơ chế này cho phép doanh nghiệp/ dự án đầu tư
nhận được các ưu đãi một cách tự động ngay khi đáp ứng đủ mục tiêu cụ thể
theo tiêu thức như số tiền đầu tư tối thiểu của dự án vào các khu vực nhất
định của nền kinh tế. Các tiêu thức này thường được quy định hoặc trong

những luật có liên quan hoặc trong các quy định thực hiện luật.
- Cơ chế xét duyệt: cơ chế này gắn liền với việc chấp thuận hay từ
chối đơn xin áp dụng ưu đãi trên cơ sở đánh giá mức thực tế đạt được so với
các điều kiện ưu đãi đã đưa ra ban đầu.
Đối với cả hai loại cơ chế lập ngưỡng đều có những hạn chế nhất
định. Cơ chế lập ngưỡng xét duyệt tốt hơn cơ chế tự động vì cơ chế xét
duyệt có thể tạo cho cơ quan cấp ưu đãi nhiều linh hoạt trong việc xác định
ưu điểm của từng đơn xin hưởng ưu đãi. Tuy nhiên, trên thực tế việc xét
duyệt có thể thiếu minh bạch và tạo điều kiện cho nạn tham nhũng.
3.4 Phạm vi ưu đãi:
Ưu đãi thuế có thể chia thành 2 cấp độ:
+ Ưu đãi trên phạm vi Quốc tế: Là việc một tổ chức Quốc tế, một
quốc gia nào đó dành những điều kiện, những quyền lợi đặc biệt hơn về thuế
cho một hay một số quốc gia khác trong phạm vi một công ước Quốc tế, một
hiệp định song phương, đa phương… so với các quốc gia khác khi tham gia
vào thương mại Quốc tế.
+ Ưu đãi trên phạm vi quốc gia: Là việc một quốc gia dành những
điều kiện, những quyền lợi đặc biệt hơn về thuế cho một tổ chức, một doanh


nghiệp… nhằm khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của một lĩnh vực,
một ngành nghề hay một mặt hàng nào đó… theo mục tiêu hoặc đường lối
mà Chính phủ đă đặt ra. Việc ưu đãi trên phạm vi quốc gia được Chính phủ
các nước sử dụng dưới hình thức luật, các văn bản dưới luật hay đơn giản
chỉ là quy định của một địa phương nào đó. Tuy nhiên, các quyết định mà
Chính phủ các nước đưa ra phải phù hợp với các nguyên tắc, các cam kết
của các tổ chức Quốc tế mà Chính phủ đã ký kết trong tiến trình tham gia
vào thương mại Quốc tế.
3.5 Hình thức ưu đãi chủ yếu
Các nước có thể sử dụng nhiều hình thức ưu đãi thuế khác nhau với

mức độ ưu đãi khác nhau tuỳ theo mục tiêu cần thu hút đầu tư của mình, tuy
nhiên các dạng ưu đãi thuế cơ bản thường gồm:
3.5.1 Miễn giảm thuế có thời hạn
Ưu đãi thuế có các hình thức cụ thể, đó là: miễn, giảm tín dụng thuế
đầu tư, mức miễn trừ (mức tối thiểu không phải chịu thuế)..v..v. Chế độ ưu
đãi về thuế được thể hiện rõ nhất thông qua các quy định miễn giảm thuế.
Miễn giảm thuế là số tiền thuế mà người nộp thuế phải nộp cho Nhà nước,
song vì những lý do kinh tế, xã hội mà Nhà nước quy định cho phép không
phải nộp toàn bộ (miễn thuế ) hay chỉ phải nộp một phần (giảm thuế) trong
số thuế phải nộp.
Miễn giảm thuế có thời hạn là không đánh thuế hoặc giảm thuế thu
nhập đối với các dự án đầu tư đủ tiêu chuẩn trong một thời gian nhất định.
Các thời kỳ doanh nghiệp được miễn giảm thuế thường được gọi là các kỳ
nghỉ về thuế.
Đây là hình thức ưu đãi đầu tư phổ biến tại các nước đang phát triển.
Ở những quốc gia khác nhau, chính sách miễn giảm thuế rất khác nhau cả về
thời hạn được miễn giảm và hình thức miễn giảm. Thời hạn miễn giảm ngắn
có thể là một năm, dài hơn có thể kéo dai tới 20 năm dưới hình thức cho


miễn toàn bộ thuế lợi tức ( thậm chí tất cả các loại thuế phải nộp) hoặc dưới
hình thức giảm mức thuế suất…
Thời điểm miễn giảm thuế có thể là: Ngày đăng ký thành lập công ty,
ngày bắt đầu sản xuất kinh doanh, ngày công ty bắt đầu có thu nhập, năm
đầu tiên công ty có lãi… Ở nhiều nước thời điểm miễn giảm ít nhất là một
năm hay lâu hơn trước khi một dự án đầu tư nước ngoài thực sự bắt đầu kinh
doanh và thường là khoảng 5 năm hay dài hơn trước khi công ty có lợi tức.
Miễn giảm thuế có mối liên quan chặt chẽ với các quy định về khấu hao và
giảm lỗ. Trong một số trường hợp, việc miễn giảm có thời hạn có thể không
đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư.

Phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy, miễn giảm thuế với thời hạn
ngắn có ít tác dụng trong việc thu hút đầu tư. Thời hạn miễn giảm dài hơn có
tác dụng và sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, song đối với nước nhận
đầu tư nó làm tăng chi phí hay giảm số thu thuế do giảm thuế. Hơn nữa,
miễn giảm thuế tạo ra nhiều khe hở cho việc luồn lách, trốn thuế và lạm
dụng như tạo cơ hội cho tránh thuế vì các doanh nghiệp bị đánh thuế có thể
sử dụng quan hệ kinh tế với doanh nghiệp được miễn thuế để chuyển lợi
nhuận của mình sang cho doanh nghiệp miễn thuế thông qua chuyển giá hay
bị các nhà đầu tư lơi dụng thông qua việc tái tạo đầu tư mới từ đầu tư cũ..
3.5.2 Thuế suất giảm: áp dụng mức thuế suất thấp hơn thuế suất chuẩn
đối với các dự án đầu tư đạt đủ điều kiện.
3.5.3 Trừ chi phí đầu tư hoặc khấu trừ thuế; trợ cấp đầu tư và khấu
hao nhanh
Qui định tỷ lệ phần trăm của chi phí đầu tư ban đầu (ví dụ: chi phí nhà
xưởng, thiết bị) sẽ được trừ ngay trong chi phí của thời kỳ hiện hành, ngoài


mức khấu hao thông thường (biện pháp trừ chi phí) hoặc qui định tỷ lệ phần
trăm chi phí đầu tư sẽ được trừ vào nghĩa vụ thuế thu nhập công ty (biện
pháp khấu trừ thuế). Mục tiêu của loại ưu đãi này là nhằm khuyến khích việc
đầu tư đối với các nhà xưởng và thiết bị trong những ngành cần tập trung.
- Khấu hao nhanh: Là hình thức chi phí mua tài sản được khấu hao
với tốc độ nhanh hơn so với mức khấu hao được cho phép theo lịch trình
khấu hao thông thường. Nói cách khác nó cho phép trừ chi phí đầu tư trong
những năm đầu tiên nhanh hơn so với năm sau.
- Trợ cấp đầu tư: nhà nước chi từ ngân sách các khoản trợ cấp cho đầu
tư, kể cả những khoản đầu tư không mang lại lợi nhuận.
Xét về mặt hiệu quả, các quy định về khấu trừ đầu tư hay trợ cấp đầu
tư có thể tốt hơn so với miễn giảm thuế có thời hạn. Chi phí của các quy
định này có thể tính toán được và chi phí đó tương quan với số vốn đầu tư.

Sự ưu đãi có thể áp dụng đối với tất cả các hình thức đầu tư vốn hoặc chỉ có
thể giới hạn đối với một số loại hình nhất định như máy móc, thiết bị công
nghệ thông tiên tiến, hoặc đầu tư nghiên cứu – phát triển. Còn đối với việc
miễn giảm thuế có thời hạn thì lợi ích dành cho nhà đầu tư một phần phụ
thuộc vào mối quan hệ giữa quy định về ưu đãi với các nguyên tắc thông
thường về khấu hao và giảm lỗ. Trong trường hợp khi phần lớn các khoản
đầu tư ban đầu có thể không mang lại lợi tức trong những năm đầu, cộng với
việc khấu hao nhanh sẽ không mang lại lợi ích cho những nhà đầu tư mà
ngược lại có thể làm tăng thêm gánh nặng về thuế. Trong những trường hợp
đó, việc thực hiện khấu trừ đầu tư trong những năm đó sẽ thực sự trở nên
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
3.5.4 Trợ cấp tái đầu tư


Trợ cấp tái đầu tư thực chất là được miễn thuế lợi tức thông qua việc
cho phép số lợi tức dùng để tái đầu tư, hay một phần của nó được trừ khỏi
lợi tức chịu thuế khi tính thuế, hoặc bằng cách cho các cổ đông được hoàn
thuế đã thanh toán với một tỷ lệ nhất định của tổng số lợi tức tái đầu tư. Vốn
đầu tư có thể được đầu tư vào chính công ty đã tạo nên lợi tức đó hay đầu tư
vào một số ngành nhất định nào đó.
3.5.5 Giảm thuế khấu trừ tại nguồn
Việc giảm thuế khấu trừ tại nguồn là việc sử dụng mức thuế suất bằng
không hay cắt giảm mức thuế khấu trừ tại nguồn nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài hay khuyến khích một số dự án về chuyển giao công nghệ. Chẳng hạn
như một khoản lợi tức tiền vay được hưởng từ mức thuế suất ưu đãi, miễn
thuế lợi tức cho các khoản cổ tức trả cho cổ đông người nước ngoài. Hình
thức này đã được sử dụng ở nhiều nước.
3.5.6 Các khoản giảm trừ đặc biệt:
Khoản giảm trừ đặc biệt là khấu trừ gấp đôi cho một số loại chi phí
nhất định. Đây là hình thức ưu đãi phổ biến ở Singapo và Malaysia. Hai

quốc gia này cho phép khấu trừ gấp đôi số chi phí được phép khấu trừ đối
với một loạt các chi phí được coi là thúc đẩy xuất khẩu hay đẩy mạnh việc
cung cấp dịch vụ cho khách hàng nước ngoài. Malaysia còn cho khấu trừ
gấp đôi các chi phí liên quan đến du lịch và đào tạo nhân công.
3.5.7 Giảm thuế thu nhập cá nhân và bảo hiểm xã hội
Nhiều nước sử dụng biện pháp này như một hình thức ưu đãi đặc biệt
cho những người điều hành hay công nhân nước ngoài nhằm đảm bảo sự
công bằng trong điều tiết thuế. Việc giảm thuế đối với tiền lương và đóng
góp bảo hiểm xã hội thường được sử dụng để thu hút đầu tư vào những vùng


có tỷ lệ thất nghiệp cao hay để khai thác một số lực lượng lao động nhất
định.
3.5.8 Miễn giảm thuế tài sản
Miễn giảm thuế tài sản là một hình thức phổ biến và có tác dụng lớn
đối với việc ưu đãi đầu tư. Theo quan điểm của Nhà nước thì việc miễn giảm
thuế tài sản có lợi thế là chi phí của việc miễn giảm có thể tính toán được.
Còn về phía các nhà đầu tư thì cho rằng hình thức này sẽ tạo ta lợi tức ngay
lập tức và có tính khả thi ngay cả khi không có lợi tức để đánh thuế. Hình
thức ưu đãi này nói chung thường được thực hiện trong một thời gian nhất
định. Nó giống như việc cấp tiền trong vòng một số năm và đặc biệt thích
hợp với việc thức đẩy các khoản đầu tư mới. Các ưu đãi kiểu này thường
được áp dụng như một bộ phận của chính sách phát triển vùng nói chung và
nó thường do chính quyền địa phương, chính quyền vùng quy định hơn là
chính quyền trung ương.
3.5.9 Giảm thuế nhập khẩu và nghĩa vụ hải quan
Giảm thuế nhập khẩu và nghĩa vụ hải quan là một trong những hình
thức có sự khuyến khích cao nhất trong các hình thức ưu đãi đầu tư, đặc biệt
là đối với hàng hoá và tài sản thực hiện quá trình đầu tư. Hình thức ưu đãi
này có chung đặc điểm với miễn giảm thuế tài sản là không phụ thuộc vào

khả năng có lợi tức. Nó là một khoản tiền lớn có trước và tạo ra sự tiết kiệm
ngay từ đầu cho các nhà đầu tư. Miễn thuế quan thường được áp dụng đối
với thiết bị nhập khẩu, đôi khi đối với toàn bộ thiết bị vốn, trong một vài
trường hợp nó được áp dụng đối với một số nhất định các loại máy móc,
thiết bị công nghệ tiến bộ kỹ thuật.Ở một số nước, một nhà đầu tư khi góp
vốn điều lệ vào một công ty mới thành lập, được miễn thuế nhập khẩu và
thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, sự miễn thuế trong những trường hợp như


vậy chỉ được thực hiện cho một số nhà đầu tư nhất định, nên có thể gây nên
sự bóp méo trong cạnh tranh và trái với những nguyên tắc thương mại quốc
tế. Việc miễn giảm thuế như trên không chỉ là thuế nhập khẩu mà còn bao
gồm các loại thuế khác thu ở khâu nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng.
3.5.10 Quy định khởi điểm thu thuế và mức miễn thu: thể hiện sự
chiếu cố những người có thu nhập thấp, có gia cảnh khó khăn…
3.5.11 Các đặc khu kinh tế
Các đặc khu kinh tế bao gồm nhiều hình thức và quy mô khác nhau,
phục vụ cho những mục đích nhất định: Khu miễn thuế xuất nhập khẩu, khu
kinh tế tự do, khu thương mại tự do, khu thương mại quốc tế và đặc khu
kinh tế. Hiện nay, có khoảng hơn 800 đặc khu kinh tế đang tồn tại ở trên 100
nước khác nhau trên thế giới, cung cấp việc làm cho hơn 5 triệu lao động và
đóng góp một phần quan trọng trong tổng kim ngạch thương mại thế giới.
Một đặc điểm nổi bật của các đặc khu kinh tế là các quy định xử lý đặc biệt
về miễn thuế và nghĩa vụ hải quan mà không được áp dụng ở các khu vực
bên ngoài. Đặc điểm cơ bản của đặc khu kinh tế là được hưởng miễn hay
giảm các loại thuế khác mà sự miễn giảm đó nhìn chung không được thực
hiện ở các khu vực ngoài vùng. Các đặc khu kinh tế rất khác nhau về diện
tích và mục đích thành lập. Về bản chất các khu này là các khu công nghiệp
mà các nhà đầu tư được hưởng các đặc lợi; trong đó có đặc lợi rất lớn về
thuế.

3.5.12 Các vùng miễn thuế hải quan
Đặc điểm cơ bản của các hình thức khác nhau của vùng miễn thuế hải
quan là chúng được hưởng sự miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Mặc dù
một vùng miễn thuế hải quan được tạo nên từ một phần của lãnh thổ địa lý


và vật chất của một quốc gia nhưng nó lại không tạo nên một phần lãnh thổ
của quốc gia đó với mục đích hải quan. Trong thực tế vùng đó được đối xử
như lãnh thổ của một quốc gia khác. Hàng hoá được đưa vào vùng từ nước
ngoài không bị coi là nhập khẩu vào quốc gia của vùng đó và hàng hoá đưa
từ vùng vào quốc gia đó lại coi như nhập khẩu. Trái lại, hàng hoá được coi là
xuất khẩu khi đưa từ nước chủ nhà vào vùng và không được xem là xuất
khẩu từ vùng đó vì nó nằm ngoài phạm vi hải quan. Một số vùng miễn thuế
hải quan bị hạn chế trong hoạt động thương mại, trong khi các vùng khác
được thành lập như một vùng sản xuất hay gia công hàng hoá.
3.6 Công cụ ưu đãi
Có thể có rất nhiều các hình thức ưu đãi thuế song xét về công cụ để
sử dụng thì có thể kể đến 3 loại công cụ ưu đãi:


- Thuế suất thấp
Thuế suất thấp là mức thuế suất được đưa ra thấp hơn mức thuế suất
thông thường (thuế suất phổ thông). Thuế suất cao hay thấp ngoài việc giải
quyết vấn đề tỷ lệ phân phối giữa Nhà nước và người nộp thuế, nó chủ yếu
còn phân biệt giữa Nhà nước và người nộp thuế, nó chủ yếu còn phân biệt
rất tõ ràng giữa những đối tượng nộp thuế khác nhau, qua đó, tạo ra sự có lợi
hay bất lợi, lợi lớn hay lợi nhỏ… nhằm khuyến khích hay hạn chế đối tượng
nộp thuế nào đó. Hay nói cách khác, thuế suất thấp là cong cụ giúp cho các
nhà đầu tư dễ nhận biết đầu tư vào khu vực nào thì được Nhà nước ưu đãi
hơn. Về phía cơ quan thuế thì việc tính toán số thuế phải nộp nhanh chóng

hơn.
Tuy nhiên việc ban hành mức thuế suất thấp đối với các đối tượng
được ưu đãi thường thể hiện quá rõ ràng ưu ái của Chính phủ đối với các đối
tượng được ưu đãi, số tiền miễn giảm cũng lớn và vì vậy dễ gây nên tâm lý
có sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; Bên cạnh đó, việc tính toán số
tiền thuế mà Nhà nước cho các doanh nghiệp cũng khá phức tạp. Đối với các
nhà đầu tư, ngay sau thời gian áp dụng thuế suất giảm thì áp dụng ngay mức
thuế suất thông thường có chênh lệch khá lớn so với mức thuế suất giảm nên
có thể dẫn đến tâm lý đột ngột mất khoản lợi nhuận của các nhà đầu tư. Vì
vậy, các nhà đầu tư thường tính đầu tư trong thời gian được hưởng thuế suất
thấp. Nếu thời gian chưa đủ để họ thực hiện dự án thì họ sẽ không đầu tư.
Thuế suất thấp thường được sử dụng khi các nhà đầu tư đầu tư vào
các vùng khó khăn.
- Giảm tỷ lệ thuế:


Giảm tỷ lệ thuế là giảm tỷ lệ % nhất định trên mức thuế phải nộp.
Điều này thể hiện chính sách khuyến khích giúp đỡ hay chiếu cố. Ngược lại
áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần, luỹ tiến toàn phần lại thể hiện chính
sách hạn chế hay trừng phạt.
Về cơ bản, giảm tỷ lệ thuế cũng giống như thuế suất thấp nhưng nó
thường gắn với thời gian hưởng ngắn hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể
tính toán được số tiền mà Nhà nước cho miễn giảm một cách nhanh chóng.
Nó thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp mới thành lập còn non
trẻ để kích thích đầu tư vào nền kinh tế và tạo điều kiện cho những doanh
nghiệp vừa thành lập còn rất nhiều khó khăn.
- Thời gian ưu đãi: Là khoảng thời gian nhất định doanh nghiệp được
áp dụng những ưu đãi về thuế. Thời gian bắt đầu ưu đãi thuế có thể do doanh
nghiệp hoặc cơ quan thuế lựa chọn. Ưu đãi khi đã đạt mục đích thì không
cần phải sử dụng nữa vì chính sách ưu đãi bên cạnh những mặt tích cực cũng

có rất nhiều những hạn chế như: làm giảm số thu Ngân sách Nhà nước, gây
phức tạp cho thủ tục hành chính, tạo ra sự không công bằng giữa các nhà
đầu tư,...
Các hình thức ưu đãi thuế đều sử dụng một, hai hoặc cả 3 công cụ ưu đãi
thuế kể trên kết hợp lại. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, người ta
thường sử dụng kết hợp 2 công cụ ưu đãi kết hợp lại
4. Tránh đánh thuế trùng:
4.1 Khái niệm và nguyên nhân của hiện tượng đánh thuế trùng:
Việc thu thuế của mỗi quốc gia dựa trên hai đặc quyền cơ bản: quyền
đối với đối tượng cư trú và quyền đối với thu nhập phát sinh từ quốc gia đó.
Chính việc thực hiện đồng thời hai đặc quyền này trong hệ thống thuế của


mỗi nước đã dẫn đến việc thu thuế trùng lắp giữa các quốc gia trong trường
hợp khi một đối tượng sống ở một nước nhưng có thu nhập từ nước khác.
Đánh thuế trùng là việc hai hay nhiều Nhà nước áp dụng một loại thuế
trên cùng một khoản thu nhập hay tài sản chịu thuế của cùng một đối tượng
chịu thuế trong cùng một kỳ tính thuế.
Nguyên nhân của việc đánh thuế trùng:
Thứ nhất: Do xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội ngày càng
mở rộng. Với sự tồn tại và phát triển của các công ty đa quốc gia trong xu
thế toàn cầu hoá nền kinh tế nên một số cá nhân có thể có nhiều quốc tịch,
cư trú ở một nước nhưng lại làm việc ở nước khác, hoặc công ty có trụ sở
điều hành tại một nước nhưng công ty con lại đặt ở nước khác. Các công ty
hoặc cá nhân có thể có thu nhập nhận được từ các hoạt động trong và ngoài
nước. Các quốc gia thường áp dụng loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của
từng đối tượng nộp thuế không phân biệt khoản thu nhập đó có nguồn gốc từ
đâu.
Thứ hai: Do xung đột về quyền đánh thuế giữa các quốc gia. Một trong
các quyền của Nhà nước là quyền ban hành các sắc thuế. Để chính sách thuế

được thực hiện hiệu quả, Nhà nước phải ban hành các sắc thuế dựa trên một
số nguyên tắc nhất định. Trên thực tế, việc đánh thuế thường được căn cứ
trên nguyên tắc nguồn thu nhập hoặc nơi cư trú, do tồn tại hai nguyên tắc
trên cộng với sự khác nhau về mức độ phát triển kinh tế và chính sách áp
dụng của từng nước đã dẫn tới sự xung đột. Các trường hợp xung đột thường
là:


- Xung đột hai quốc gia về nguồn: Xảy ra khi hai hoặc nhiều quốc gia
cùng khẳng định quyền đánh thuế của mình trên cùng một đối tượng chịu
thuế vì cho rằng thu nhập đó có nguồn gốc từ nước họ.
- Xung đột giữa quốc gia là nguồn hình thành nên thu nhập và quốc gia
nơi cư trú: Xảy ra khi một quốc gia khẳng định quyền đánh thuế đối với
nguòn thu nhập phát sinh tại nước này, còn nước kia lại khẳng định quyền
của mình đối với đối tượng nộp thuế vì đối tượng nộp thuế đó cư trú tại
nước mình.
- Xung đột giữa hai quốc gia cư trú: Xảy ra khi hai quốc gia cùng
khẳng định quyền đánh thuế đối với đối tượng nộp thuế, vì đối tượng nộp
thuế cùng cư trú tại hai quốc gia.
Ngoài ba trường hợp đã nêu trên, đánh thuế trùng còn có thể xảy ra do
kết quả của việc các quốc gia định nghĩa về “thu nhập” không giống nhau và
áp dụng những nguyên tắc tính thuế cũng như tính thời gian khác nhau.
4.2 Ảnh hưởng của việc đánh thuế trùng:
Đánh thuế trùng tạo ra một lực cản đối với sự phát triển không chỉ một
quốc gia mà cho cả quá trình phát triển kinh tế quốc tế.
a. Đối với nước đầu tư trực tiếp:
Nước đầu tư được hiểu là nơi xuất phát các khoản đầu tư trực tiếp. Đây
là những nước phát triển, có tích luỹ vốn lớn với công nghệ cao lại đi liền
với các mặt hạn chế về đất đai, tài nguyên và đây cũng chính là nơi các công
ty đa quốc gia đóng trụ sở. Những nước này muốn đầu tư ra nước ngoài

nhằm thu lợi nhuận cao nhưng hiện tượng đánh thuế trùng của các nước phát
triển đã làm giảm lợi nhuận thu được và cản trở việc đầu tư ra nước ngoài
của các nhà đầu tư.


b. Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
Các nước tiếp nhận đầu tư gồm cả những nước phát triển và đang phát
triển. Việc đánh thuế trùng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế
của các nước này, bởi đã ngăn cản các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào các
nước này. Điều đó dẫn đến làm hạn chế việc bổ sung một phần quan trọng
các nguồn vốn ĐTNN vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, cản trở khả năng
mở rộng sản xuất và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Khác với đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp có đặc trưng sau đây:
- Đầu tư trực tiếp không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà bên
cạnh đó còn có cả kỹ thuật, công nghệ, bí quyết công nghệ, kinh nghiệm
quản lý…
- Đầu tư trực tiếp không làm gia tăng gánh nặng nợ cho nước tiếp nhận
đầu tư, phát huy tiềm năng của nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố tác động mạnh đến việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế…
Vì vậy, nếu không có đối sách hợp lý của nước tiếp nhận đầu tư thì các
ưu điểm của đầu tư trực tiếp sẽ không được phát huy.
Ngoài ra, xét trên bình diện tổng thể, đánh thuế trùng làm cản trở tiến
trình toàn cầu hoá đang là xu hướng chi phối sự phát triển kinh tế thế giới.
Những nhân tố thúc đẩy toàn cầu hoáa được kể đến là : Thị trường toàn cầu,
sản xuất hàng hoá lớn, chính sách kinh tế hướng ngoại.
4.3 Các giải pháp đối phó với việc đánh thuế trùng giữa các nước:
a. Biện pháp đơn phương
Với biện pháp này, Nhà nước đơn phương đưa ra các biện pháp để cắt
giảm số thuế mà các nhà đầu tư nước ngoài phải nộp tại nước mình. Tuy



nhiên, biện pháp này rất ít được áp dụng vì việc đơn phương cắt giảm thuế
đồng nghĩa với việc Nhà nước từ bỏ quyền đánh thuế và như thế đã phàn nào
từ bỏ chủ quyền quốc gia của mình đối với một khoản thu nhập nhất định.
b. Biện pháp cam kết quốc tế
Biện pháp cam kết quốc tế được hình thành nhằm thoả mãn yêu cầu của
các bên trong vấn đề đánh thuế trùng, trong đó, các bên tham gia cam kết
đồng nghĩa với việc từ bỏ hoặc giới hạn một phần quyền đánh thuế của mình
đối với khoản thu nhập phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài, chuyển
giao công nghệ và phân công lao động quốc tế. Hình thức biểu hiện các cam
kết quốc tế có thể ở những mức độ và phạm vi khác nhau, nhưng nhìn chung
được biểu hiện bằng các hiệp định mang tính quốc tế, mà cụ thể là các Hiệp
định thuế.
Trong các Hiệp định thuế hiện hành có một số phương pháp chủ yếu
được thực hiện nhằm xoá bỏ việc đánh thuế trùng của nước, nơi mà đối
tượng nộp thuế là đối tượng cư trú. Đó là:
b.1 Phương pháp miễn thuế:
Theo phương pháp này, đối tượng nộp thuế là người cư trú ở một nước
thì không bị thu thuế thu nhập đối với những khoản thu nhập mà đối tượng
đó đã nộp thuế ở nước khác. Phương pháp này có 2 hình thức áp dụng là:
- Phương pháp miễn thuế toàn phần: có nghĩa là nước có đối tượng nộp
thuế cư trú không đánh thuế thêm đối với thu nhập phát sinh mà đã bị đánh
thuế ở nước ngoài.
- Phương pháp miễn thuế luỹ tiến: có nghĩa là nước có đối tượng nộp
thuế cư trú tuy không bị đánh thuế thêm đối với thu nhập phát sinh mà đã bị
đánh thuế ở nước ngoài nhưng vẫn cộng thu nhập đó với thu nhập phát sinh


ở trong nước để xác định mức thuế suất và dùng thuế suất đó tính thuế đối

với người có thu nhập phát sinh trong nước.
b.2 Phương pháp trừ thuế: Nội dung của phương pháp này là nước mà
đối tượng nộp thuế là người cư trú khi tính thuế trên tổng thu nhập của đối
tượng nộp thuế thì cho trừ vào số thuế phải nộp ở nước cư trú số thuế đã nộp
ở nước ngoài. Phương pháp này cũng có 2 hình thức áp dụng là:
+ Phương pháp trừ thuế toàn phần: Có nghĩa là nước có đối tượng nộp
thuế cư trú cho trừ toàn bộ số thuế đã nộp ở nước ngoài.
+ Phương pháp trừ thuế thông thường: Có nghĩa là nước có đối tượng
nộp thuế cư trú cũng cho trừ vào số thuế phải nộp số thuế đã nộp ở nước
ngoài nhưng số thuế được trừ không vượt quá số thuế tính theo biểu thuế của
nước cư trú tính trên số thu nhập ở nước ngoài.
b.3 Phương pháp trừ thuế gián tiếp: Nội dung của phương pháp này là
khi công ty mẹ nhận được lợi tức cổ phần từ công ty con của mình ở nước
ngoài thì nước có công ty mẹ là đối tượng cư trú ngoài việc cho trừ vào số
thuế phải nộp số thuế lợi tức cổ phần đã nộp ở nước ngoài mà còn cho trừ cả
số thuế lợi tức công ty con đã nộp ở nước ngoài trước khi hình thành lợi tức
cổ phần.
b.4 Phương pháp trừ khoán thuế: Nội dung của phương pháp này là nếu
nước cư trú áp dụng các phương pháp trừ thuế nói trên thì cho trừ vào số
thuế phải nộp ở nước cư trú các khoản thuế đáng nhẽ ra phải nộp do được
hưởng miễn giảm thuế ở nước đó, tức là các khoản thuế được miễn, giảm
này cũng coi như các khoản thuế đã nộp.



×