Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường cao đẳng giao thông vận tải khu vực miền trung đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.21 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________________________________

NGUYỄN MẠNH HÙNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI
KHU VỰC MIỀN TRUNG ĐÁP ỨNG U CẦU
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2

NGHỆ AN, 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________________________________

NGUYỄN MẠNH HÙNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI
KHU VỰC MIỀN TRUNG ĐÁP ỨNG U CẦU
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA

Chun ngành:
Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60 14 01 11



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THÁI SƠN


3

NGHỆ AN, 2015


1
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tơi xin trân trọng tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ
giảng viên Phịng đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại
học Vinh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tơi trong q trình học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà khoa học đã tận tình
giảng dạy, giúp đỡ, hướng dẫn chúng tơi trong suốt q trình học tập và nghiên
cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thái Sơn đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn tơi trong q trình làm luận văn.
Chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể cán bộ giảng viên, sinh viên
Trường Cao đẳng GTVT miền Trung - Tỉnh Nghệ An và Trường Cao đẳng
GTVT II - Đà Nẵng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, tham gia đóng góp
nhiều ý kiến q báu cho tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Bản thân tơi đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng
do điều kiện nghiên cứu và khả năng còn hạn chế, luận văn chắc chắn khơng
tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong được sự đóng góp ý kiến quý báu của
quý thầy, cô giáo cùng các bạn đồng nghiệp.

Xin trân trọng cảm ơn!


2
MỤC LỤC
Trang
Hiện nay trên thế giới sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ tri
thức đồng diễn ra với tốc độ chóng mặt, cuộc cách mạng đó đã đem đến
thành tựu to lớn cho nhiều nước biết vận dụng vào hàng sản xuất, đưa họ
trở thành nhiều cường quốc phát triển trên thế giới hiện nay. Việt Nam
đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế vẫn ở trong trình độ
thấp, chịu ảnh hưởng của nền kinh tế phong kiến kéo dài, nông nghiệp vẫn
chủ yếu là trồng lúa. Nền công nghiệp lạc hậu chưa có thành tựu nào quan
trọng đóng góp cho nền kinh tế quốc dân. Muốn đưa nền kinh tế đi lên để
có thể sánh ngang với các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
và để trở thành cường quốc kinh tế thì CNH, HĐH phải được coi trọng,
đánh giá đúng mức sự cần thiết của nó trong giai đoạn hiện nay................30


3
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa




:

Cao đẳng

BGD&ĐT

:

Bộ giáo dục và đào tạo

ĐĐNN

:

Đạo đức nghề nghiệp

GD ĐĐNN

:

Giáo dục đạo đức nghề nghiệp

GD - ĐT

:

Giáo dục đào tạo

GTVT


:

Giao thông vận tải

HS,SV

:

Học sinh, sinh viên

KH & CN

:

Khoa học và Công nghệ

KT - XH

:

Kinh tế - xã hội

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


4

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Hiện nay trên thế giới sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ tri
thức đồng diễn ra với tốc độ chóng mặt, cuộc cách mạng đó đã đem đến
thành tựu to lớn cho nhiều nước biết vận dụng vào hàng sản xuất, đưa họ
trở thành nhiều cường quốc phát triển trên thế giới hiện nay. Việt Nam
đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế vẫn ở trong trình độ
thấp, chịu ảnh hưởng của nền kinh tế phong kiến kéo dài, nông nghiệp vẫn
chủ yếu là trồng lúa. Nền công nghiệp lạc hậu chưa có thành tựu nào quan
trọng đóng góp cho nền kinh tế quốc dân. Muốn đưa nền kinh tế đi lên để
có thể sánh ngang với các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
và để trở thành cường quốc kinh tế thì CNH, HĐH phải được coi trọng,
đánh giá đúng mức sự cần thiết của nó trong giai đoạn hiện nay................30


5
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó chi phối mạnh mẽ mọi mặt
của đời sống con người, trong các quan hệ xã hội đạo đức là gốc của mọi sự
tốt đẹp, đặt nền tảng cho mọi công việc như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định: "Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được
nhân dân” [28, tr.252-253].
Trong bối cảnh hiện nay đang tồn tại những giá trị đạo đức tốt đẹp tạo nền
tảng tinh thần của xã hội đồng thời đan xen cả những vấn đề phi đạo đức trái với
thuần phong mỹ tục. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho các thế hệ sinh viên nói riêng
và con người Việt Nam nói chung là một trong những biện pháp then chốt của
các trường Cao đẳng, Đại học nhằm đào tạo ra những lao động tương lai có năng

lực sáng tạo và phẩm chất đạo đức tốt góp phần thực hiện thành công sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Trong công cuộc đổi mới đất nước, đại đa số sinh viên có
ý chí vươn lên trong học tập, có hồi bão và khát vọng đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu. Tuy vậy, trong những năm gần đây do tác động của cơ chế
thị trường và nhiều nguyên nhân khác, đã ảnh hưởng đến tâm lý, lối sống của
nhiều sinh viên. Sinh viên hiện nay đang đối mặt với nhiều khó khăn như: việc
lựa chọn những hành vi ứng xử vừa phù hợp với giá trị đạo đức truyền thống
vừa phải theo kịp sự phát triển của xã hội hiện đại. Mặt trái của sự hội nhập là sự
xáo trộn, mất ổn định trong tâm lý, đạo đức của rất nhiều người trong xã hội.
Sinh viên là lứa tuổi nhạy cảm với cái mới, hay bắt chước nên dễ làm cho họ có
những hành vi bột phát, hành vi lệch chuẩn ứng xử trong các mối quan hệ.
Những hành vi lệch chuẩn đều gây ra những hậu quả xấu cho cá nhân và xã hội.


6
Thế hệ sinh viên Việt Nam hiện nay là nguồn nhân lực chất lượng cao của
đất nước trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Cùng với coi trọng giáo dục
chuyên môn, nghiệp vụ, việc quan tâm giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên là nhiệm vụ trọng tâm. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã
khẳng định: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược… Tập trung nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng
tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp” [10, tr.13-14]. Với nội dung cơ
bản của giáo dục đạo đức mới trong các trường đại học, cao đẳng: Coi trọng
cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng; Coi trọng hoạt động giáo dục đạo đức nói
chung và đạo đức nghề nghiệp nói riêng; coi trọng sự tu dưỡng của bản thân... sẽ
đào tạo ra thế hệ sinh viên có chun mơn nghề nghiệp vững vàng, năng động,
sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức và ý chí vươn lên đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xác định được tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp đối với sinh viên

trong quá trình CNH, HĐH những năm qua các trường Cao đẳng GTVT khu
vực miền Trung đã làm tốt công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên.
Với mục tiêu giáo dục của các Trường là đào tạo người lao động Việt Nam phát
triển toàn diện, có trình độ tay nghề cao, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và đạo đức
nghề nghiệp. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đó, trong những năm qua các
Trường Cao đẳng GTVT khu vực miền Trung đã tăng cường cơng tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống cho sinh viên, góp phần đào tạo tồn
diện người trí thức để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên, trong thời kì hội
nhập và phát triển, công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên của các
trường cần được đặc biệt quan tâm hơn nữa nhằm góp phần giáo dục tồn diện,
hồn thiện nhân cách và bản lĩnh cho sinh viên đồng thời giúp cho sinh viên có
những kĩ năng mềm dễ dàng thích nghi với những mơi trường của xã hội, từ đó


7
hình thành nên những lao động tương lai của đất nước vừa có trình độ, vừa có
đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH.
Trong những thập kỷ gần đây có rất nhiều cơng trình khoa học của nhiều
nhà nghiên cứu bàn về vấn đề giáo dục đạo đức nói chung, giáo dục đạo đức
nghề nghiệp nói riêng trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh quá trình CNH,
HĐH hiện nay. Nhìn chung các tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh
khác nhau, theo những cách tiếp cận khác nhau:
Một số tác giả đề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh
viên, chỉ ra thực trạng đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên hiện nay và từ
đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh,
sinh viên trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước: Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu
(2002), “Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên”,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. TS. Lê Hữu Ái (chủ biên) (2007):“Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục thanh niên hiện nay”, Nxb Đà Nẵng.
Nguyễn Thị Minh Chiến (2009), "Giáo dục đạo đức cho HSSV", Nhà xuất bản

Đại học Sư phạm, Hà Nội. Huỳnh Công Ba (2011), “Giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức và lối sống cho sinh viên Trường Đại học sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập và phát triển”, Tạp chí khoa học Đại học sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 31. ThS Nguyễn Thị Thủy (2015) “Vấn đề
giáo dục đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận Chính
trị và Truyền thơng số tháng 3. PGS.TS. Bùi Minh Hiền (2001), "Một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Đại học Quốc gia
Hà Nội", Trường Đại học Quốc gia, Hà Nội; PGS.TS. Nguyễn Xuân Uẩn Trường Đại học quốc gia Hà Nội đã có cơng trình: “Xây dựng lối sống và đạo
đức mới cho học sinh, sinh viên Đại học sư phạm phục vụ cho sự nghiệp CNH,
HĐH"; Đồng tác giả Lê Hữu Ái và Lê Thị Tuyết Ba - Đại học Kinh tế (Đại học
Đà Nẵng) đã có bài viết “Các nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cho Sinh
viên Đại học Đà Nẵng hiện nay”; TS. Nguyễn Lương Bằng, Giáo dục ý thức


8
chính trị cho sinh viên trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế”, Tạp chí lý
luận chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, số 12, tr 50-54, 2008.
Trên các Tạp chí Triết học, Xã hội học, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí giáo
dục, Tạp chí lí luận và một số tạp chí khác cũng có rất nhiều bài viết đi sâu bàn
về vấn đề đạo đức nghề nghiệp: Đặc biệt, trong Tạp chí Triết học số 125 (2001),
có bài viết của TS Nguyễn Văn Phúc: “Vấn đề xây dựng đạo đức nghề nghiệp
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, tác giả chủ yếu đi sâu phân tích
tác động của cơ chế thị trường đến các hoạt động nghề nghiệp từ đó xây dựng
đạo đức kinh doanh; trong Tạp chí Giáo dục số 104 (2004) có bài viết của TS,
Lê Thanh Thập: “Giáo dục ý thức đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên”. Trong
bài viết này tác giả đã nêu lên một số thực trạng của ý thức đạo đức nghề
nghiệp, từ đó đề cập đến việc giáo dục ý thức đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
và chỉ ra quá trình hình thành ý thức đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên.
Ngoài ra một số luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục có nghiên cứu đến
vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp như:

- Nguyễn Trung Dũng - 2009, Luận văn Thạc sỹ khoa học giáo dục Những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên trường Cao đẳng Y tế Nghệ An.
- Nguyễn Thị Mai Anh - 2012, Luận văn Thạc sỹ khoa học giáo dục Giáo dục đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế cho HSSV
trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh
Nghệ An
Từ những cơng trình nghiên cứu trên các tác giả đã đề cập tới nhiều khía
cạnh của vấn đề đạo đức, những giải pháp thiết thực nhằm định hướng cho công
tác giáo dục đạo đức đối với thế hệ trẻ nói chung và HS,SV nói riêng. Đồng
thời, các cơng trình trên cũng chính là tài liệu hết sức bổ ích khi nghiên cứu


9
những vấn đề này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu một cách trực tiếp, có hệ thống về đến việc giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên các trường cao đẳng ngành GTVT khu vực miền Trung
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên các trường cao đẳng GTVT khu vực miền Trung đáp ứng
yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc
sĩ chính trị học, với mong muốn đóng góp một phần vào sự nghiệp đào tạo của
trường trong cơng cuộc đổi mới đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát, phân tích thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp ở
các trường cao đẳng GTVT khu vực miền Trung, luận văn đề xuất các giải pháp
có tính khả thi cao nhằm góp phần trong công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên các trường cao đẳng GTVT khu vực miền Trung đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên.

- Khảo sát thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên các trường cao đẳng GTVT khu vực miền Trung, tuy nhiên do hạn chế về
mặt thời gian và một số điều kiện nghiên cứu khác, tác giả chỉ tập trung khảo sát
ở 02 trường; Trường cao đẳng GTVT miền Trung - Tỉnh Nghệ An và Trường
cao đẳng GTVT II - Đà Nẵng.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức nghề
nghiệp đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH cho sinh viên các trường cao đẳng GTVT
khu vực miền Trung.


10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH cho sinh viên các trường cao đẳng GTVT khu vực
miền Trung.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu q trình giáo dục nói chung mà chỉ tập trung
công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho đối tượng là sinh viên các trường
cao đẳng GTVT khu vực miền Trung. Tuy nhiên do hạn chế về mặt thời gian và
các điều kiện khác nên tác giả chỉ khảo sát, đánh giá công tác giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên ở 02 trường: Trường cao đẳng GTVT miền Trung Tỉnh Nghệ An và Trường cao đẳng GTVT II - Đà Nẵng.
Trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu để đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các
trường cao đẳng GTVT khu vực miền Trung đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
và Nhà nước về giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước.

- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết gồm: Phân tích, tổng hợp tài
liệu, phân loại và hệ thống hoá lý thuyết.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm: Điều tra, khảo sát, phỏng
vấn thu thập thông tin để phân tích, đánh giá cơ sở phương pháp luận cho đề tài
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu, phát vấn, đàm thoại...
6. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được hệ thống các giải pháp có tính khoa học, đồng bộ, phù
hợp, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp


11
cho sinh viên các trường cao đẳng GTVT khu vực miền Trung đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH.
7. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống cơ sở lý luận của công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH trong các trường Đại học, Cao đẳng.
- Đề xuất một số giải pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH sinh viên các trường cao đẳng GTVT khu vực
miền Trung.
- Đề xuất một số kiến nghị cho các cơ quan ban ngành có liên quan trong
việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh quá trình CNH,
HĐH cho sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng nói chung và sinh viên
các trường cao đẳng GTVT khu vực miền Trung nói riêng.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
gồm: 2 chương, 6 tiết.


12
B. NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1 Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội bao
gồm những nguyên lý, quy tắc chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong
quan hệ với người khác và với cộng đồng. Đạo đức không phải là một phạm trù
trừu tượng do Thượng đế sinh ra, mà là một phạm trù lịch sử. Đạo đức ra đời,
phát triển do nhu cầu của xã hội, nhằm duy trì, phát triển quan hệ xã hội đã được
xác lập.
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy
Lạp cổ đại.
Theo từ nguyên “Đạo đức” trong tiếng Anh là Ethics, tiếng Anh thời
Trung cổ là Ethik vốn xuất phát từ Latinh là Ethice, từ Hy Lạp là Ethos nghĩa là
nhân cách, tính cách, tư cách hay là phong cách. Do đó khi nói đến đạo đức là
người ta thường liên tưởng đến tính cách tốt xấu của một người nào đó hay nói
cách khác đó là cách ứng xử được biểu hiện qua hành vi và lời nói theo quan
niệm đạo đức hay phong tục, tập quán của xã hội đặt ra. Sau này người ta
thường phân biệt hai khái niệm, moral là đạo đức, còn Ethicos là đạo đức học.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù
quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường,


13
đường đi, về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường

của tự nhiên. Đạo cịn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo,
là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung
Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà
mỗi người phải tuân theo. Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn
đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều.
Trong quá trình hình thành và phát triển của đạo đức thì các nhà nghiên
cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về đạo đức, dưới đây là một trong hai định
nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận đó là:
Theo Giáo trình Đạo đức học do PGS.TS Trần Đăng Sinh và TS. Nguyễn
Thị Thọ biên soạn: Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ
hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con người [42, tr816]. Đạo đức
là tập hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một
tập hợp người nhất định về thế giới, về cách sống, nhờ đó con người điều chỉnh
hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội.
Trong Từ điển Triết học định nghĩa: “Đạo đức là một trong những hình
thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi
của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ”[50, tr.301].
Từ những định nghĩa trên thì tựu trung lại đạo đức được hiểu theo hai
nghĩa như sau:
Hiểu theo nghĩa hẹp: đạo đức là luân lí, những quy định, những chuẩn
mực ứng xử trong quan hệ của con người với con người. Nhưng trong điều kiện
hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm
những quy định, những chuẩn mực, ứng xử của con người, với công việc và với
bản thân, kể cả với thiên nhiên và môi trường sống. Như việc phá hoại môi
trường đang dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng đe doạ sự tồn vong của nhân
loại thì nội dung của đạo đức khơng chỉ là lịng u tổ quốc, u đồng bào, yêu


14

con người, lịng nhân ái nói chung mà nội dung của đạo đức còn bao gồm những
vấn đề như: giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó là
lịng u nước, nhân ái, tự lực, tự cường, cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư,
hiếu học, thuỷ chung, tình nghĩa, tơn trọng người già…; bảo vệ môi trường sinh
thái; vấn đề dân số và kế hoạch hố gia đình; chống bạo lực và tệ nạn xã hội;
đấu tranh cho một thế giới hồ bình, ổn định và bình đẳng, dân chủ và phát triển
bền vững.
Theo nghĩa rộng: định nghĩa đạo đức liên quan chặt chẽ đến phạm trù
chính trị, pháp luật, lối sống thì đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách nó
phản ánh bộ mặt của nhân cách, của một cá nhân đã được xã hội hoá. Đạo đức
được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng ở hành động góp
phần giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi thừa nhận đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi
tầng lớp, giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối với các
vấn đề đang tồn tại.
Ngày nay, đạo đức được hiểu là một hình thái ý thức xã hội luôn được
mọi giai cấp, trong mọi thời đại quan tâm. Đạo đức là phép ứng xử có nhân
phẩm giữa người này với người khác. Đạo đức luôn luôn là mối quan hệ hai
chiều, là một thể chế đặc thù của xã hội nhằm điều chỉnh các hành vi của con
người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đạo đức là phương thức xác lập
mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân.
Các Mác cho rằng: Đạo đức chính là lực lượng bản chất của con người
trong sự phát triển của nó theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực của
cái thiện.
Theo ơng, bất luận trong mối quan hệ xã hội nào thì đạo đức cũng là quan
hệ thực sự người, là sự phản ánh tồn tại xã hội cho nên mỗi hình thái kinh tế - xã
hội hay mỗi giai đoạn lịch sử đều định hình những nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức tương ứng. Trong đó, ngồi những giá trị chung, nó cịn hàm chứa các nét



15
đặc thù. Đó là cơ sở hình thành các thang bậc đạo đức của mỗi giai đoạn lịch sử
hoặc mỗi hình thái KT-XH nhất định. Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lí, là
những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Theo nghĩa rộng, khái
niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống.
Tóm lại, đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên
tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan
hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương
lai, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội.
1.1.2 Khái niệm giáo dục đạo đức
Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết một cách sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục
“Tiên học lễ, hậu học văn”, “Lễ” ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và
phát triển tốt các tri thức và kỹ năng. Ngày nay, phương châm “Dạy người,
dạy chữ, dạy nghề” cũng thể hiện rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục
đạo đức, như Bác Hồ đã dạy: “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức.
Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con
người sẽ khơng phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không
phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói: “Thanh niên bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác, tự
nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của
mình. Tức là thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà khơng có đức ví như
một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những
khơng làm được gì ích lợi cho xã hội, mà cịn có hại cho xã hội nữa. nếu có
đức mà khơng có tài ví như ơng bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng khơng lợi gì
cho lồi người” [33, tr.197].
Đảng ta đã chủ trương: Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng,
đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa việc giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh vào nhà trường phù hợp với từng lứa tuổi và bậc học... Bởi vậy, tu



16
dưỡng và rèn luyện bản thân để trở thành người có nhân cách, vừa có đức vừa
có tài là hết sức quan trọng đối với mỗi con người, là nhiệm vụ hàng đầu của
thanh niên, học sinh, sinh viên.
Ngày nay, việc tiến vào nền văn minh tri thức sẽ đặt ra những thách thức
mới, câu hỏi mới về người đại diện của nền văn minh mới đó là ai, phải chăng
là con người có giáo dục? Một thuật ngữ của Peter F. Drucker, tác giả của
những cơng trình nghiên cứu nổi tiếng thế giới về kinh tế và xã hội mà chúng
ta có thể tham khảo. Theo Peter Ferdinand Drucker: Sự thay đổi vĩ đại nhất sẽ
là sự thay đổi về tri thức, về hình thức và nội dung, về ý nghĩa của tri thức, về
những trách nhiệm của tri thức và về những đặc điểm của con người có giáo
dục. Con người đó là một “nguyên mẫu xã hội”, theo cách nói của các nhà xã
hội học, “Con người có giáo dục sẽ quyết định khả năng hoạt động của xã hội.
Con người này cũng là hiện thân của các giá trị, niềm tin và trách nhiệm của xã
hội”[43, tr.240-250].
Ở thời đại nào, dưới chế độ nào, việc giáo dục đạo đức cho thế hệ đang
lớn cũng là trung tâm chú ý của mọi thành viên trong xã hội. Trước đây nhiều
người vẫn cho rằng khi kinh tế phát triển, con người giàu có thì đạo đức, quan
hệ giữa người và người sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng có lẽ thật thiếu sót khi cho rằng
như vậy, bởi một khi con người chưa tự ý thức bản thân mình, chưa có trách
nhiệm với bản thân mình, gia đình, cộng đồng và xã hội thì vấn đề giáo dục đạo
đức vẫn là quan trọng và rất cần thiết ở bất kỳ thời đại nào.
Giáo dục đạo đức là một nội dung quan trọng trong giáo dục nhân cách
con người phát triển tồn diện. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhắc nhở
mọi người phải có đức, có tài mới đóng góp được nhiều lợi ích cho xã hội. Mỗi
giai đoạn lịch sử phát triển xã hội có mục tiêu, nội dung, chương trình, phương
pháp, hình thức giáo dục cụ thể nhằm xây dựng nhân cách toàn diện cho thế hệ
trẻ, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi phát triển của xã hội.
Ngày nay, xã hội đã giàu lên rất nhiều, nhưng đâu đâu cũng báo hiệu về



17
sự suy thối đạo đức thể hiện dưới những hình thức khác nhau, đang làm vẩn
đục cuộc sống yên lành của xã hội loài người. Ở nước ta, từ ngày chuyển sang
nền kinh tế thị trường, đời sống nhân dân tăng lên, nhiều người đã trở thành giàu
có, nhân cách con người đã có những biến đổi, nhưng bên cạnh mặt tích cực, đã
xuất hiện những biểu hiện tiêu cực. Vì vậy, nghiên cứu giáo dục đạo đức đang
đựơc đặt ra trong những điều kiện mới. Để có được những nghiên cứu cụ thể
chúng ta phải xác định được những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức, nội
dung của giáo dục đạo đức và phương pháp giải quyết vấn đề giáo dục đạo đức
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác quan trọng này:
- Những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức: Gia đình được xác định
là trường học đầu tiên về đạo đức, tính cách đối với mỗi con người trong đó cha
mẹ chính là người thầy đầu tiên của con cái; Giáo dục nhà trường có vai trị rất
quan trọng trong giáo dục đạo đức học sinh; Cộng đồng có ảnh hưởng quan
trọng và vai trị hỗ trợ tích cực đối với chương tình giáo dục đạo đức.
- Nội dung giáo dục đạo đức gồm 6 nhóm giá trị: 1/ Nhóm giá trị trong
quan hệ với bản thân; 2/ Nhóm các giá trị trong quan hệ với người khác; 3/
Nhóm giá trị trong quan hệ với cơng việc; 4/ Nhóm các giá trị trong quan hệ
với Tổ quốc, với cộng đồng; 5/ Nhóm giá trị trong quan hệ với nhân dân và các
dân tộc trong khu vực, trên thế giới; 6/ Nhóm giá trị trong quan hệ với môi
trường tự nhiên.
- Phương pháp giáo dục đạo đức: 1/ Giáo dục nhà trường qua con đường
dạy học các môn học và qua con đường tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp; 2/ Giáo dục gia đình; 3/ Giáo dục xã hội.
Như vậy, giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên là giáo dục lòng trung
thành đối với Đảng, hiếu với Dân, u q hương đất nước, có lịng vị tha, nhân
ái, cần cù liêm khiết và chính trực. Đó là đạo đức Xã hội chủ nghĩa là đạo đức
của cá nhân, tập thể và chủ nghĩa nhân đạo mang tính chân thực tích cực, khác

với đạo đức vị kỷ, cá nhân. Giáo dục đạo đức học sinh, sinh viên gắn chặt với


18
giáo dục tư tưởng - chính trị, giáo dục truyền thống và giáo dục bản sắc văn hóa
dân tộc, giáo dục pháp luật nhà nước XHCN, cung cấp cho học sinh, sinh viên
những phương thức ứng xử đúng trước vấn đề của xã hội... giúp cho các em có
khả năng tự kiểm soát được hành vi của bản thân một cách tự giác, có khả năng
chống lại những biểu hiện lệch lạc về lối sống.
Tóm lại, giáo dục đạo đức: là một mặt của hoạt động giáo dục nhằm xây
dựng cho thế hệ trẻ những tính cách nhất định và bồi dưỡng cho họ những quy
tắc hành vi thể hiện trong giao tiếp với mọi người với công việc, với Tổ quốc.
Giáo dục đạo đức cần phải được coi trọng đặc biệt, nhất là trong sự nghiệp cách
mạng hiện nay của dân tộc khi mà nước ta gia nhập WTO. Giáo dục đạo đức cho
thế hệ trẻ là làm cho nhân cách của họ phát triển đúng về mặt đạo đức, tạo cơ sở
để họ ứng xử đúng đắn trong các mối quan hệ của cá nhân với bản thân, với
người khác (gia đình, bạn bè, thầy cơ giáo…) với xã hội, với tổ quốc, với môi
trường tự nhiên, với cộng đồng quốc tế.
1.1.3. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp
1.1.3.1. Quan điểm về đạo đức nghề nghiệp
Khi bàn về đạo đức nghề nghiệp có nhiều quan niệm khác nhau, theo
quan niệm của quốc tế về đạo đức nghề nghiệp không giống với quan niệm của
Việt Nam. Từ trước tới nay ở Việt Nam, nói đến đạo đức nghề nghiệp, chúng ta
thường liên tưởng tới việc một người có dối trá, lừa gạt, vi phạm pháp luật, v.v...
hay không? Trong khi đó theo quan niệm của quốc tế, nói đến đạo đức nghề
nghiệp là nói đến các tiêu chuẩn nghề nghiệp như trình độ, năng lực chun
mơn, kinh nghiệm thực tế, v.v... hoặc các quan hệ về kinh tế tài chính như góp
vốn, đầu tư, vay nợ, v.v... Tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp là đảm bảo
được sự độc lập, khách quan và không lệ thuộc vào các quan hệ kinh tế tài chính
trong q trình hành nghề. Nhưng tổng hợp những quan niệm đạo đức nghề

nghiệp lại có hai khuynh hướng sau:
Với tư cách là phương thức kiếm sống, hoạt động nghề nghiệp là hoạt


19
động cơ bản của con người. Trong hoạt động nghề nghiệp, những lợi ích trực
tiếp và thiết yếu nhất của con người được thực hiện. Nhưng khi thực hiện lợi ích
của mình, con người khơng thể khơng có quan hệ về mặt lợi ích đối với người
khác, với xã hội. Vì thế, hoạt động nghề nghiệp cũng là hoạt động mà ở đó,
những quan hệ đạo đức cơ bản giữa con người và con người, giữa con người và
xã hội được thể hiện. Do tính đặc thù của hoạt động nghề nghiệp mà xã hội có
những u cầu, những địi hỏi cụ thể về nghề nghiệp cũng như về đạo đức đối
với từng dạng hoạt động nghề nghiệp nhất định. Vì thế, từ lâu đạo đức nghề
nghiệp, dưới những hình thức và mức độ nhất định, đã hình thành như một lĩnh
vực đặc thù của đạo đức xã hội.
Có thể nhận thấy những biểu hiện đầu tiên của đạo đức nghề nghiệp trong
hoạt động của các phường hội thủ công hay trong việc hành nghề của các thầy
thuốc. Trong các phường hội thủ công (ở phương Tây cũng như phương Đơng),
những u cầu về chữ tín, về chất lượng sản phẩm ln được đề cao. Ban đầu,
những u cầu đó bị quy định bởi chính u cầu và q trình của sản xuất và
trao đổi hàng hoá, nhưng cùng với thời gian, việc tuân thủ chúng đã trở thành
danh dự và nghĩa vụ đạo đức của các thành viên trong phường hội nghề nghiệp.
Tương tự như vậy, y tế cũng là một trong những lĩnh vực mà từ lâu đã xuất phát
những yêu cầu của đạo đức nghề nghiệp. Do có liên quan trực tiếp đến sinh
mệnh của bệnh nhân, lĩnh vực này đòi hỏi một trách nhiệm cao, một sự tận tâm,
một tình thương “lương y như từ mẫu”. Chính vì thế, ngay từ thời Cổ đại
Hipơrát, người được coi là ông tổ của ngành y, đã đề xuất những yêu cầu y đức
mà về sau, những yêu cầu đó đã trở thành nội dung lời tuyên thề nghề nghiệp
mang tên ơng đó là lời thề Hipơcrát:
Tơi sẽ chỉ dẫn mọi chi tiết có lợi cho người bệnh tuỳ theo khả năng và sự

phán đốn của tơi, tơi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công. Tôi sẽ không trao chất
độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ u cầu và khơng tự mình gợi ý cho họ. Tôi
suốt đời hành nghề cho sự vô tư và thân thiết. Dù vào bất cứ nhà nào, tôi cũng


20
chỉ vì lợi ích của người bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa, cố ý, nhất là tránh cám
dỗ phụ nữ thiếu niên, tự do hay nô lệ. Dù tôi có nhìn hoặc nghe thấy gì trong
xã hội trong và cả ngồi lúc hành nghề của tơi, tơi sẽ xin im lặng trước những
điều không bao giờ cần để lộ ra và coi sự kín đáo trong trường hợp đó như một
nghĩa vụ.
Ở nước ta danh y Lê Hữu Trác cũng địi hỏi người thầy thuốc chân chính
phải là người nêu cao tám đức tính: Nhân, Minh, Trí, Đức, Thành, Lượng,
Khiêm, Cần; và tránh xa tám điều tội lỗi: Lười, Tham, Keo, Lừa dối, Bất nhân,
Hẹp hòi, Thất đức, Dốt. Với một ý nghĩa nhất định, có thể coi: Tu, Tề, Trị, Bình,
nêu gương như là một chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp mà Nho giáo đòi hỏi ở
những nhà quản lý xã hội.
Vấn đề đạo đức nghề nghiệp đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong
nhiều tác phẩm của Người. Năm 1927, tác phẩm “Đường Kách mệnh” của
Nguyễn Ái Quốc được xuất bản là một trong những văn kiện lý luận quan trọng
đầu tiên dùng để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cách mạng
Việt Nam. Ngay từ đầu tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người đã chỉ ra những
đức tính cần có của một người cách mạng như sau:
“Tự mình phải:
Cần kiệm
Hồ mà khơng tư
Cả quyết sửa lỗi mình
Cẩn thận mà khơng nhút nhát
Hay hỏi
Nhẫn nại (chịu khó)

Hay nghiên cứu, xem xét
Vị cơng, vong tư
Khơng hiếu danh, khơng kiêu ngạo
Nói thì phải làm


21
Giữ chủ nghĩa cho vững
Hy sinh
Ít lịng tham muốn về vật chất
Bí mật
Đối với người phải:
Với từng người thì khoan thứ
Với đồn thể thì nghiêm
Có lịng bày vẽ cho người
Trực mà không táo bạo
Hay xem xét người
Làm việc phải:
Xem xét hồn cảnh kỹ càng
Quyết đốn
Dũng cảm
Phục tùng đồn thể” [31, tr.378-379].
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo nhân dân ta giành
thắng lợi trong cách mạng tháng Tám năm 1945 và tiến hành cuộc “kháng chiến,
kiến quốc” thì giáo dục cán bộ, đảng viên, xây dựng và củng cố Đảng ta thành
một Đảng Mác - Lênin chân chính, điều này đã trở thành vấn đề cốt tử.
Ngay từ những năm đầu xây dựng đất nước, trên cương vị người lãnh đạo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới lối sống, tư tưởng, đạo đức của các
cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và người lao động mà đặc biệt là việc
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho tầng lớp thế hệ trẻ, sinh viên - những người

chủ tương lai của đất nước. Quan điểm đạo đức nghề nghiệp của Người bắt
nguồn từ tư tưởng nhân văn cao cả và đạo đức cách mạng. Bác cho rằng việc tu
dưỡng đạo đức, đặc biệt là đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ phải được đặt
lên hàng đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác. Qua tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức của người cán bộ, cơng chức thì ta thấy được phạm trù


22
trung tâm là “đức” và “tài”. Đức và Tài trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất
nước hiện nay, được Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng và đặt ra những yêu cầu
nhất định đối với cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý các
ngành, các cấp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái gốc, là nền tảng của người cán
bộ cách mạng, là “nguồn cội” làm cho tinh thần cách mạng khơng bao giờ
cạn: Cũng như sơng phải có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn;
cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây khơ héo. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng, khơng có đạo đức thì dù có tài giỏi đến mấy cũng khơng thể
lãnh đạo nhân dân được. Người chỉ rõ: “Đạo đức là cái gốc của người cán bộ,
trăm sự thành bại đều do cán bộ tốt hay xấu”.
Khi nói, người cán bộ, cơng chức có đức, có tài là muốn đề cập đến
những khía cạnh hết sức cụ thể chẳng hạn: Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo
đức, trình độ học vấn, chun mơn, năng lực quản lý, điều hành… Ta có thể
hiểu phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức thuộc về phạm trù đạo đức; cịn
trình độ và năng lực… thuộc về phạm trù tài. Song việc tạm tách như vậy chỉ
mang tính chất tương đối, bởi ngay trong từng việc cụ thể đức và tài bao chứa ở
trong nhau. Trong một chừng mực nào đó giữa hai phạm trù đức và tài trong đạo
đức của người cán bộ luôn cần sự thể hiện thống nhất như một chỉnh thể. Địi
hỏi cán bộ, cơng chức phải có đức, có tài trong thực thi công vụ là muốn đề cập
tới những tiêu chuẩn chung nhất của người cán bộ, công chức. Đối với cán bộ
công chức, cán bộ quản lý nhà nước nhất thiết phải có kiến thức về khoa học

quản lý nhà nước; có năng lực điều hành và tổng kết thực tiễn; có khả năng thể
chế hóa các Chỉ thị và Nghị quyết của Đảng, tinh thơng về chính sách và pháp
luật; nghiệp vụ hành chính; tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hồ Chí Minh viết: Nước ta là một nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do dân làm
chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận
công dân giữ đúng đạo đức công dân.


×