Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.63 KB, 19 trang )

Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

MỤC LỤC
Mục lục................................................................................................................... 1
Lời mở đầu............................................................................................................. 2
Chương 1: Một số vấn đề chung về thanh tra và các nguyên tắc trong hoạt động
thanh tra................................................................................................................. 3
I. Thanh tra.............................................................................................................. 3
II. Nguyên tắc trong hoạt động thanh tra..................................................................4
Chương 2: Thực trạng thực hiện nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực,
công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra......................................7
I. Nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực......................................................7
II. Nguyên tắc công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra......................9
III. Những tồn tại, hạn chế trong các quy định và việc thực hiện nguyên tắc chính xác,
khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra........11
Chương 3: Một số kiến nghị thực hiện có hiệu quả nguyên tắc chính xác, khách
quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra........14
I. Một số giải pháp chung nhằm nâng cao hiệu quả các nguyên tắc trong hoạt động
thanh tra.................................................................................................................. 14
II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các nguyên tắc trong hoạt động
thanh tra.................................................................................................................. 16
Kết luận.................................................................................................................. 18
Tài liệu tham khảo................................................................................................. 19

1


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

LỜI MỞ ĐẦU
Thanh tra là một trong những chức năng quan trọng của quản lý Nhà nước.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh “Thanh tra là tai mắt của trên, là người
bạn của dưới”. Thông qua hoạt động thanh tra giúp phòng ngừa, phát kịp và xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách để
kiến nghị với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có các biện pháp khắc phục;
phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước;
bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Để hoạt động thanh tra đạt được các mục đích, yêu cầu đề ra, cần có một hệ
thống các nguyên tắc trong hoạt động này. Đó là những tư tưởng chỉ đạo, định
hướng cho quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, từ khi xây dựng kế hoạch thanh
tra, ra quyết định thanh tra, tiến hành thanh tra và kết thúc thanh tra. Trong hệ
thống các nguyên tắc thanh tra, nhóm nguyên tắc “chính xác, khách quan, trung
thực, công khai, dân chủ, kịp thời” là những nguyên tắc cơ bản, quan trọng đối với
hoạt động thanh tra. Việc nắm vững một cách đầy đủ, sâu sắc và triển khai thực
hiện nghiêm túc nhóm nguyên tắc này sẽ giúp cho hoạt động thanh tra đạt hiệu quả
cao, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
Với những kiến thức đã được học ở môn học “Giám sát kiểm tra thanh tra
hành chính Nhà nước” tại lớp Cao học Quản lý công theo chương trình đào tạo của
Học viện Hành chính, tôi xin được trao đổi thêm về vấn đề hoạt động thanh tra qua
nội dung của tiểu luận “Nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực, công khai,
dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra”. Tiểu luận chỉ nêu khái quát một số
vấn đề lý luận, tình hình thực hiện và các giải pháp, kiến nghị để thực hiện có hiệu
quả nguyên tắc trên.
Với thời gian có hạn, việc nghiên cứu chưa được nhiều, khả năng nhận thức
của bản thân còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế còn ít do vậy bài tiểu luận không
tránh khỏi thiếu sót. Rất mong các thầy cô giáo, giảng viên của Học viện quan tâm
chỉ bảo giúp đỡ để tôi có thể hoàn chỉnh bài tiểu luận được tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

2



Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THANH TRA
VÀ CÁC NGUYÊN TẮC TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA
I. Thanh tra.
1. Khái niệm thanh tra.
Thanh tra, theo tiếng Latinh có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự
kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối tượng nhất định.
Theo Từ điển tiếng Việt, thanh tra là “kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa
phương, cơ quan, xí nghiệp”. Theo từ điển pháp luật Anh-Việt, thanh tra là “sự
kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra”. Với những nghĩa trên đây, thanh
tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì trái
với quy định. Ngoài ra, thanh tra còn được hiểu là sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra
thường xuyên, định kỳ nhằm rút ra những nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị
cới các cơ quan Nhà nước khắc phục những nhược điểm, phát hiện ưu điểm góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước. Thanh tra thường đi kèm với một chủ
thể nhất định: “Người làm nhiệm vụ thanh tra” “Đoàn thanh tra” và “đặt trong
phạm vi quyền hành của một chủ thể nhất định”.
Luật Thanh tra năm 2004 định nghĩa: “Thanh tra nhà nước là việc xem xét,
đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm
quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác của
pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành”. Luật Thanh tra năm 2010 thay thế cho Luật Thanh tra năm 2004 cũng đưa
ra định nghĩa tương tự“Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ

quan, tổ chức, cá nhân”.
2. Đặc điểm của thanh tra.
a) Thanh tra gắn liền với quản lý Nhà nước.
Thanh tra là một chức năng của quản lý Nhà nước. Thanh tra là một giai đoạn,
một phương tiện, công cụ để quản lý Nhà nước. Trong mối quan hệ giữa quản lý và
thanh tra thì quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra
(đề ra đường lối, chủ trương, quy định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra, sử
dụng các kết quả, các thông tin từ phía các cơ quan thanh tra).
b) Thanh tra luôn mang tính quyền lực nhà nước.
Tính quyền lực Nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở những mặt sau:
Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan Nhà nước. Chủ thể thanh tra ra các
3


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

quyết định bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng bị thanh tra về những vấn đề đã
bị thanh tra phát hiện và xử lý; yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của
thanh tra, yêu cầu trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật;
trong những trường hợp cần thiết, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà
nước.
c) Thanh tra có tính độc lập tương đối.
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Tính độc lập
tương đối trong quá trình thanh tra được thể hiện trên các điểm sau: tuân theo pháp
luật; tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội theo
thẩm quyền đã được pháp luật quy định; trên cơ sở kết quả thanh tra, ra các kết
luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các quy định của pháp luật về thanh tra, chịu
trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình. Tuy nhiên, tính độc lập của thanh tra
chỉ là tương đối bởi vì hoạt động thanh tra ngoài việc căn cứ vào pháp luật, chính
sách hiện hành còn xuất phát từ thực tế cuộc sống, phải đặt sự vật, hiện tượng trong

sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa học, khách quan, lịch sử, cụ thể.
3. Mục đích của thanh tra.
Điều 2 Luật thanh tra năm 2012 quy định mục đích của hoạt động thanh tra
như sau: “Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản
lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện
pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp
cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố
tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân”.
II. Nguyên tắc trong hoạt động thanh tra.
1. Khái niệm nguyên tắc trong hoạt động thanh tra.
Có thể hiểu, nguyên tắc trong hoạt động thanh tra là những tư tưởng, định
hướng chủ đạo, đúng đắn, khách quan và khoa học, được quy định trong pháp luật
thanh tra mà các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức thanh tra, cán bộ, thanh tra
viên phải tuân theo trong quá trình hoạt động thanh tra.
Điều 7 của Luật Thanh tra năm 2010 quy định các nguyên tắc hoạt động thanh
tra:
“1. Tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công
khai, dân chủ, kịp thời.
2. Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa
các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình
thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.”
4


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

2. Cơ sở của việc hình thành các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra
Thứ nhất, các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra được xây dựng trên cơ sở

các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về vị trí, vai trò và mục đích của
công tác thanh tra trong lãnh đạo và quản lý.
Thứ hai, các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra được xây dựng trên cơ sở
các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là của cơ
quan quản lý hành chính nhà nước.
Thứ ba, các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra được hình thành, phát triển
trên cơ sở tổng kết thực tiễn và có sự điều chỉnh phù hợp với yêu cầu đặc điểm và
yêu cầu quản lý trong từng thời kỳ.
3. Vai trò, đặc điểm của các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra
Thứ nhất, các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra chi phối toàn bộ quá
trình ra quyết định thanh tra, thực hiện cuộc thanh tra, kết thúc thanh tra
Các nguyên tắc hoạt động thanh tra là những định hướng cơ bản, xuyên suốt
quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, từ khi ra quyết định thanh tra, thực hiện
thanh tra và kết thúc hoạt động thanh tra. Các nguyên tắc được phản ánh vào các
quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra, về thẩm quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động thanh tra như trưởng đoàn, thanh tra viên,
đối tượng thanh tra,… Vai trò của từng nguyên tắc trong các giai đoạn thực hiện
hoạt động thanh tra là khác nhau. Có nguyên tắc xuyên suốt quá trình thực hiện
hoạt động thanh tra, có nguyên tắc chỉ chi phối một giai đoạn nào đó của hoạt động
thanh tra. Tuy nhiên, chúng đều tác động vào kết quả chung của hoạt động thanh
tra.
Thứ hai, các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra có tính ổn định cao
Tính ổn định của các nguyên tắc hoạt động thanh tra phản ánh tính ổn định
của định hướng chỉ đạo, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoạt động
thanh tra. Bên cạnh đó nó còn phản ánh tính khoa học của việc đưa ra các nguyên
tắc, dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc.
Có thể nhận thấy, từ Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đến Luật Thanh tra năm
2010 luôn có sự kế thừa và phát triển của các nguyên tắc. Phần lớn không có sự
loại bỏ mà chỉ là sự điều chỉnh cho phù hợp và thêm các nguyên tắc dựa định
hướng lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và sự đòi hỏi của thực tiễn hoạt động quản

lý, hoạt động thanh tra.
4. Sự hình thành và phát triển các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra
Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 64/SL. Mặc
dù các quy định của pháp luật về thanh tra còn hết sức sơ khai, các nguyên tắc hoạt
động thanh tra chưa được ghi nhận trong các văn bản, nhưng các bài nói, bài viết,
5


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

lời huấn thị của Hồ Chủ tịch và các đồng chí lãnh đạo được coi là phương châm
công tác, là “kim chỉ nam” trong hoạt động thực tiễn của từng cán bộ làm công tác
thanh. Đó chính là cơ sở để từng bước hình thành các nguyên tắc hoạt động thanh
tra. Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 là văn bản pháp lý cao nhất về thanh tra và đã
lần đầu tiên ghi nhận các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra. Kể từ đó đến nay,
qua mỗi lần thay đổi bằng các văn bản mới thì các nguyên tắc của hoạt động thanh
tra cũng được điều chỉnh cho phù hợp.
Nếu như Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đưa ra nguyên tắc “Hoạt động thanh
tra chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, dân chủ,
kịp thời. Không một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp trái pháp
luật vào hoạt động thanh tra”. Thì đến Luật Thanh tra năm 2004, nguyên tắc chỉ
tuân theo pháp luật được sửa đổi lại thành phải tuân theo pháp luật để phù hợp hơn
với yêu cầu của hoạt động quản lý và tính chất của hoạt động thanh tra. Nguyên
tắc Không một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật
vào hoạt động thanh tra về cơ bản nội dung đã được thể hiện trong nguyên tắc hoạt
động thanh tra phải tuân theo pháp luật nên đã không được giữ lại ở Luật thanh tra
năm 2004, thay vào đó là nguyên tắc mới được bổ sung cho phù hợp với yêu cầu,
đòi hỏi của công tác quản lý nhà nước về thanh tra cũng như thực tiễn hoạt động
thanh tra, đó là nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan,
tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Đến Luật Thanh tra năm 2010, các nguyên

tắc được giữ nguyên, có điều chỉnh và bổ sung thêm một nguyên tắc mới, đó là
nguyên tắc Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra
giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra.

6


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC CHÍNH XÁC,
KHÁCH QUAN, TRUNG THỰC, CÔNG KHAI, DÂN CHỦ, KỊP THỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA
I. Nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực trong hoạt động thanh
tra.
Hoạt động thanh tra phải đảm bảo tính chính xác bởi bất kỳ một số liệu, tư
liệu, nhận định nào trong quá trình thanh tra không bảo đảm tính chính xác đều dẫn
đến hậu quả tai hại, thậm chí nghiêm trọng và sẽ dẫn đến việc nhìn nhận, đánh giá
sai đối tượng, từ đó có những quyết định xử lý sai. Vì thế, chỉ đảm bảo chính xác
trong hoạt động thanh tra mới có thể giúp đánh giá đúng thực trạng tình hình, giúp
cơ quan, tổ chức, người vi phạm nhận rõ khuyết điểm của mình và giúp cơ quan
tiến hành thanh tra có những quyết định xử lý đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích Nhà
nước, xã hội cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Muốn đảm bảo tính
chính xác trong hoạt động thanh tra, đòi hỏi các chủ thể thanh tra phải quán triệt
nguyên tắc trung thực, khách quan trong quá trình tác nghiệp của mình; phải thu
thập thông tin đầy đủ nhưng có chọn lọc kỹ càng để loại bỏ những thông tin không
chính xác, không cần thiết gây ảnh hưởng đến kết quả thanh tra.
Hoạt động thanh tra phải đảm bảo tính khách quan, trung thực bởi trong quá
trình tiến hành thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, các thành viên Đoàn thanh tra
nhiều khi chịu áp lực từ nhiều phía, nhiều cá nhân, tổ chức sẽ gây sức ép đối với

thành viên Đoàn thanh tra khiến sự thật bị bóp méo, thiên lệch. Việc bảo đảm
nguyên tắc này sẽ tạo một môi trường làm việc chuyên nghiệp, có trách nhiệm với
một đội ngũ cán bộ có chất lượng và trách nhiệm nghề nghiệp cao hơn. Để đảm bảo
tính khách quan, chủ thể thanh tra phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, tôn trọng sự
thật; phải xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng trên quan điểm lịch sử, cụ thể, biện
chứng, logic.
Theo Hồ Chủ Tịch: “Thái độ của người cán bộ thanh tra phải cẩn thận.
- Nghe không được thiên lệch, nghe một bên, nên nghe người này, nghe người
kia.
- Phải khách quan. Chớ do ý muốn mà suy đoán chủ quan của mình.
- Chống quan liêu: Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn hiểu rõ sự thật ở cơ
quan, ở địa phương nào đấy phải đến tận nơi nghe ngóng, tìm tòi, chịu khó. Quan
liêu sẽ không làm được nhiệm vụ
Phải cẩn thận khách quan, điều tra, nghiên cữu kỹ lưỡng, chịu khó”.

7


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

Sự phản ánh của thanh tra đòi hỏi tính chính xác, khách quan, song không thể
phản ánh một cách đơn giản tình hình vụ việc thực tế, mà sự phản ánh phải mang
tính chắt lọc, được xem xét thông qua những phân tích, đánh giá cùng với những
kiến nghị đề xuất phù hợp
1. Trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra
Nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực được thể hiện ở việc Đoàn
thanh tra hay Thanh tra viên ngay từ khi lập kế hoạch thanh tra, cần phải xác định
rõ mục đích, yêu cầu thanh tra, nội dung thanh tra, đối tượng thanh tra, vấn đề
trọng tâm, phương pháp tiến hành, thời hạn thanh tra. Có như vậy mới đảm bảo tính
khả thi, hợp lý tiết kiệm, hiệu quả, tránh lan man, lạc hướng của kế hoạch.

Để đảm bảo tính chính xác của kế hoạch thanh tra thì nghiên cứu tổng quan vụ
việc thanh tra, thu thập thông tin, hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan để chuẩn bị
xây dựng kế hoạch. Khi tiến hành khảo sát để thu thập thông tin, tài liệu để lập kế
hoạch thanh tra, cần chọn đúng đối tượng để khảo sát đó là đơn vị có lưu giữ những
hồ sơ, tài liệu có liên quan tới nội dung của vấn đề cần thanh tra, không lựa chọn
đơn vị khảo sát một cách tuỳ tiện, thể hiện ý chí chủ quan của người xây dựng kế
hoạch.
Thời gian khảo sát và nơi tiến hành khảo sát cũng cần cụ thể, rõ ràng, ngắn
gọn đảm bảo vừa đủ để thu thập thông tin, tài liệu cần cho việc lập kế hoạch.
2. Trong giai đoạn tiến hành thanh tra
Trong giai đoạn tiến hành thanh tra, nguyên tắc chính xác được thể hiện rõ nét
nhất là trong việc áp dụng các văn bản pháp luật vào việc nhận định, đánh giá
thông tin, tài liệu thu thập được.
Về nguyên tắc khách quan, trung thực: Đây cũng là vấn đề có tính nguyên tắc
cao, nó đảm bảo phản ánh đúng sự thật, không thiên lệch và bóp méo sự thật . Nếu
như tính chính xác nhấn mạnh đến khả năng, năng lực chuyên môn của hoạt động
thanh tra thì tính khách quan, trung thực đòi hỏi người làm công tác thanh tra phải
có quan điểm và thái độ đúng đắn.
Nghiên cứu kỹ càng nội dung báo cáo. Nếu cuộc thanh tra ở diện rộng, có rất
nhiều báo cáo tài liệu mà chủ thể thanh tra không thể nghiên cứu kỹ tất cả thì phải
chọn nội dung báo cáo để nghiên cứu kỹ. Có những vấn đề thuộc nội dung chuyên
môn mà chủ thể thanh tra không tự làm rõ được thì cần hỏi ý kiến của các nhà
chuyên môn.
3. Trong giai đoạn kết thúc thanh tra
- Về nguyên tắc chính xác: Nguyên tắc này thể hiện ở việc Báo cáo, Dự thảo
Kết luận thanh tra đầy đủ và chính xác các nội dung: tài liệu, chứng cứ; kết quả
giám định, thẩm định, kiểm tra hiện trạng; các biện pháp xử lý, căn cứ pháp luật áp
dụng để kết luận, kiến nghị, ý kiến khác nhau của các thành viên Đoàn thanh tra,
8



Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã để xảy ra tham nhũng trong
Báo cáo (nếu có). Bảo đảm tính chính xác trong việc đánh giá việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra; kết luận về nội dung được thanh
tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm; các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã áp
dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý trong Dự thảo kết luận thanh tra.
- Về nguyên tắc khách quan: Trước khi kết thúc thanh tra tại đơn vị, Trưởng
Đoàn thanh tra cần đánh giá tình hình hết sức công tâm, rõ ràng về những vấn đề đã
thanh tra và những vấn đề chưa làm rõ để xác định thời điểm kết thúc thanh tra, hay
cần tiếp tục gia hạn thời gian thanh tra, cần tránh việc cố tình kéo dài cuộc thanh tra
vì sự chủ quan, duy ý chí.
II. Nguyên tắc công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra.
Nguyên tắc công khai, minh bạch là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thanh
tra. Vào những thời điểm thích hợp phải thông báo đầy đủ nội dung thanh tra để
những người có trách nhiệm và có liên quan biết nhằm khuyến khích sự tham gia
của nhân dân và tổ chức vào hoạt động này, góp phần đảm bảo tính chính xác. Việc
công khai bao gồm nhiều vấn đề cụ thể như: công khai quyết định thanh tra, tiếp
xúc công khai đối tượng, công khai kết luận thanh tra… Tùy từng đối tượng, nội
dung mà có hình thức công khai thích hợp, có thể thực hiện trên các phương tiện
thông tin đại chún, có thể trong phạm vi địa phương hoặc hẹp hơn chỉ là trong đơn
vị đối tượng. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định có những thông tin phải giữ bí
mật, có những thông tin không thể công khai rộng rãi, nhất là khi chưa có kết luận
chính thức, chẳng hạn những vấn đề liên quan đến bí mất quốc gia, an ninh quốc
phòng hoặc cấn giữ bí mật người tố cáo để bảo vệ họ.
Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động thanh tra nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, ý kiến phản ánh của các thành viên đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra và
người dân. Trước những vấn đề phức tạp có nhiều ý kiến khác nhau thì người ra

quyết định thanh tra phải nghe các thành viên đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra và
người dân trình bày hết ý kiến.
Ngoài ra, công tác thanh tra phải đảm bảo tính kịp thời, từ việc xây dựng kế
hoạch, ra quyết định thanh tra, tiến hành thanh tra, ra kết luận thanh tra, kiến nghị
xử lý sau thanh tra. Bởi rằng, hoạt động thanh tra phục vụ cho công tác quản lý Nhà
nước. Đây là quá trình diễn ra liên tục, cho nên hoạt động thanh tra cần tiến hành
thường xuyên, kịp thời để có những chấn chỉnh trong hoạt động quản lý, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý.
1. Trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì Kế hoạch thanh tra được gửi
cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức có liên quan. Quy định công khai, minh
bạch nhằm phòng, chống tham nhũng trong ngành Thanh tra, Thông tư số
9


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

05/2011/TT-TTCP ngày 10/01/2011 của Thanh tra Chính phủ, tại Điều 6, đã nêu rõ
hơn: Các cơ quan Thanh tra nhà nước phải “công khai trên phương tiện thông tin
đại chúng, trang thông tin điện tử… kế hoạch thanh tra hàng năm đã được phê
duyệt ngay sau khi người có thẩm quyền ký duyệt, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”. Qua việc thông tin rộng rãi đó, tránh được tình trạng xây dựng kế
hoạch thanh tra thiếu căn cứ, thiếu tính khả thi, tránh việc bỏ sót hay bao che các
hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra, khắc phục hiện tượng chồng
chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra. Đồng thời, cũng tạo điều kiện cho nguời
dân, cơ quan, tổ chức, nhất là các cơ quan báo chí giám sát hoạt động của các cơ
quan thanh tra.
Tuy nhiên, ở đây cũng cần lưu ý là chỉ được công khai những kế hoạch thanh
tra đã được phê duyệt. Kế hoạch thanh tra khi còn trong quá trình dự thảo, chưa
được ký, duyệt thì không được công khai. Bởi vì, theo Điều 8, Thông tư số

05/2011/TT-TTCP ngày 10/01/2011 của Thanh tra Chính phủ quy định về phòng,
chống tham nhũng trong ngành Thanh tra thì “tiết lộ, cung cấp thông tin, tài liệu về
kế hoạch thanh tra khi chưa được phê duyệt” là hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt
động thanh tra.
2. Trong giai đoạn tiến hành thanh tra.
- Về tính công khai: khi tiến hành thanh tra, Đoàn thanh tra phải thông báo
đầy đủ Quyết định thanh tra, nội dung thanh tra cho đối tượng thanh tra biết; công
khai trong việc thu thập hồ sơ, tài liệu (việc cung cấp thông tin, tài liệu được thể
hiện bằng văn bản của cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp hoặc Đoàn thanh tra lập
biên bản về việc cung cấp thông tin, tài liệu); công khai khi tiếp xúc với đối tượng
thanh tra và những người có liên quan ở nơi thanh tra.
Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra năm 2010, đã quy định theo
hướng mở rộng hơn về thành phần tham dự buổi công bố quyết định thanh tra.
Ngoài thành phần bao gồm đại diện lãnh đạo cơ quan chủ trì thanh tra, Đoàn thanh
tra, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra, Luật cho phép
Trưởng đoàn thanh tra trong trường hợp cần thiết, mời đại diện cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan tham dự buổi công bố quyết định thanh tra.
3. Trong giai đoạn kết thúc thanh tra
- Về nguyên tắc công khai: Trong giai đoạn này, tính công khai được thể hiện
ở việc Đoàn thanh tra thông báo kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra với
đối tượng thanh tra (thông qua tổ chức họp với đối tượng thanh tra); công khai về
những đánh giá, kết luận của đoàn sau khi kết thúc thanh tra (thông qua làm việc
trực tiếp với đối tượng thanh tra) để đối tượng thanh tra có cơ hội giải trình, bổ
sung thông tin, tài liệu, chứng cứ. Luật Thanh tra năm 2010 đã quy định rõ ràng, cụ
thể trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc xử lý và chỉ
đạo thực hiện kết luận thanh tra. Song, Luật Thanh tra và Nghị định số
10



Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật chưa có quy định đề cập trực tiếp đến vấn đề công khai
việc xử lý và chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra.
Tại Thông tư số 05/2011/TT-TTCP ngày 10/01/2011 của Thanh tra Chính
phủ quy định về phòng, chống tham nhũng trong ngành Thanh tra cũng chỉ đưa ra
yêu cầu mang tính chất tùy nghi là: Thông báo bằng văn bản đến đối tượng thanh
tra, cơ quan, tổ chức liên quan hoặc công khai trên phương tiện thông tin đại chúng
quyết định xử lý sau thanh tra sau khi người có thẩm quyền ký, duyệt.
- Về nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc dân chủ được thể hiện trong mối quan hệ
giữa các thành viên Đoàn thanh tra với nhau và giữa Đoàn thanh tra với đối tượng
thanh tra khi đưa ra kết luận thanh tra. Đó là việc các thành viên Đoàn thanh tra
thảo luận, đưa ra ý kiến của mình về từng vấn đề cụ thể khi xây dựng báo cáo kết
quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra; ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn
thanh tra với Trưởng đoàn thanh tra về nội dung báo cáo kết quả thanh tra. Với đối
tượng thanh tra, họ có quyền đưa ra quan điểm của mình về những đánh giá, kết
luận của Đoàn thanh tra dựa trên những thông tin, tài liệu, chứng cứ, quy định của
pháp luật và những ý kiến của đối tượng thanh tra phải được thảo luận, xem xét
một cách khách quan, dân chủ.
III. Những tồn tại, hạn chế trong các quy định và việc thực hiện nguyên
tắc chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt
động thanh tra.
1. Những tồn tại, hạn chế.
a) Về nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực.
- Do cơ quan thanh tra các cấp nằm trong hệ thống cơ quan hành chính cùng
cấp nên trong quá trình hoạt động không tránh khỏi có những lúc, những nơi hoạt
động thanh tra bị tác động bởi những cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
làm ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan của hoạt động thanh tra. Trong khi
đó pháp luật hiện hành chưa có những quy định chặt chẽ nhằm hạn chế tối đa được

sự can thiệp này, đảm bảo cho hoạt động thanh tra được thực hiện tuân theo pháp
luật, cụ thể:
+ Chưa có quy định về nội dung, cách thức, thủ tục, thời hạn tiến hành khảo
sát, tiêu chí lựa chọn đối tượng thanh tra trong báo cáo khảo sát.
+ Chưa có quy định về tiêu chí lựa chọn nhân lực phù hợp với nội dung thanh
tra (đảm bảo nguyên tắc khách quan).
+ Việc xử lý thông tin cũng chưa được quy định cụ thể về phương pháp và thủ
tục, chưa có các chuẩn mực cụ thể về nhận định, đánh giá và xử lý các dạng sai
phạm.

11


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

+ Chưa có quy định về việc tham gia của đối tượng thanh tra trong quá trình
nhận định và đánh giá các sai phạm...
- Cá biệt có Đoàn thanh tra do vụ lợi mà có những kết luận chưa thật đúng,
thật sát với bản chất của vấn cần đề thanh tra; từ đó dẫn đến những kết luận, kiến
nghị không sát, không đúng.
- Việc thực thi Kết luận thanh tra chưa được kiểm soát để đảm bảo tính
nghiêm túc của pháp luật, làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, gây lãng
phí nguồn lực thanh tra và tạo tiền lệ xấu khi thực thi pháp luật.
b) Về nguyên tắc công khai, dân chủ, kịp thời.
- Một số quy định pháp luật về công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra
chưa được làm rõ, như: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì “Tin, tài liệu về
nội dung thanh tra trong quá trình thanh tra khi chưa có kết luận chính thức” là tài
liệu mật. Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày
22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Thanh tra cũng đã nêu rõ: Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh

tra, Thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra nếu tiết lộ thông
tin, tài liệu về nội dung thanh tra trong quá trình thanh tra thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Thông tư số 05/2011/TTTTCP ngày 10/01/2011 của Thanh tra Chính phủ quy định về phòng, chống tham
nhũng trong ngành Thanh tra cũng cấm tiết lộ, cung cấp thông tin, tài liệu về nội
dung kết luận thanh tra khi chưa được người có thẩm quyền ký, duyệt. Như vậy,
pháp luật hiện hành xác định mọi thông tin, tài liệu về nội dung thanh tra trong quá
trình thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra là tài liệu mật
và vì thế không được phép công khai.
Tuy nhiên, để tăng cường công khai, minh bạch, tăng cường sự giám sát đối
với hoạt động thanh tra, bảo đảm cho hoạt động thanh tra được tiến hành khách
quan, chính xác và theo đúng quy định của pháp luật, cần có quy định mở hơn về
vấn đề này. Theo đó, đối với những thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật nhà
nước, bí mật kinh doanh của doanh nghiệp hay những thông tin có thể ảnh hưởng
đến kết quả thanh tra thì không được công khai. Ngoài ra, cần cân nhắc, xem xét
công khai những thông tin phù hợp, không ảnh hưởng đến kết quả thanh tra nhằm
tạo điều kiện cho người dân, cơ quan, tổ chức, nhất là các cơ quan báo chí tiếp cận
thông tin về thanh tra, giám sát hoạt động thanh tra.
- Có nhiều cuộc thanh tra, việc xử lý kết luận thanh tra, ý kiến chỉ đạo thực
hiện kết luận thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước chưa được công
bố rộng rãi trên báo chí, phương tiện thông tin đại chúng theo quy định.

12


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

- Một số vụ việc thanh tra chưa được tiến hành kịp thời đặc biệt là thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo.

2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Nguyên nhân chủ quan
+ Công tác ban hành văn bản hướng dẫn dưới luật còn thiếu và chưa cụ thể
nên chưa tạo cơ sở để nguyên tắc được thể hiện cụ thể bằng các quy định.
+ Công tác chỉ đạo điều hành mới chỉ quan tâm tới những vấn đề định khung
pháp lý, chưa chú ý tới việc cụ thể hóa các quy định mang tính trình tự thủ tục.
+ Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ thanh tra chưa đáp ứng
yêu cầu công tác. Cá biệt có một số cán bộ thanh tra suy thoái phẩm chất đạo đức,
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, tiêu cực vi phạm các nguyên tắc thanh tra.
- Nguyên nhân khách quan
+ Trong quá trình thanh tra đặc biệt là thanh tra các vụ việc sai phạm, đối
tượng thanh tra luôn có xu hướng cố tình che dấu các hành vi sai phạm bằng các
thủ đoạn ngày càng tinh vi gây khó khăn cho Đoàn thanh tra trong việc xác định
tính chính xác, khách quan nội dung vụ việc.
+ Do cơ chế hoạt động của ngành Thanh tra là theo cấp hành chính, tính liên
kết về tổ chức cũng như nghiệp vụ chuyên môn không chặt, do đó hạn chế đến việc
trao đổi cung cấp thông tin, áp dụng pháp luật.

13


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ NGUYÊN TẮC
CHÍNH XÁC, KHÁCH QUAN, TRUNG THỰC, CÔNG KHAI,
DÂN CHỦ, KỊP THỜI TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA
I. Một số giải pháp chung nhằm nâng cao hiệu quả các nguyên tắc trong
hoạt động thanh tra.
1. Nâng cao nhận thức của các cán bộ, thanh tra viên về vai trò, tầm quan

trọng và ý nghĩa của việc thực hiện các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra.
Nâng cao nhận thức của cán bộ, thanh tra viên về các nguyên tắc trong hoạt
động thanh tra trước hết cần nhận thức rõ về: nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn thanh
tra, thanh tra viên và các thành viên đoàn thanh tra, các quy định cụ thể về trình tự,
thủ tục, phương thức, lề lối, quy tắc làm việc… Thực hiện tốt các quy định này
chính là đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả, đúng đắn các quy định về nguyên
tắc trong hoạt động thanh tra, do các quy định này chính là sự cụ thể hóa của các
nguyên tắc. Bên cạnh đó, cần nắm rõ ý nghĩa, vai trò của các nguyên tắc trong từng
giai đoạn cụ thể của hoạt động thanh tra. Do các quy định của pháp luật không thể
dự liệu hết các tình huống có thể xảy ra trong quá trình tiến hành thanh tra, vì vậy
người làm công tác thanh tra phải luôn đánh giá, xử lý các vấn đề cụ thể trên cơ sở
những vấn đề “mang tính nguyên tắc”.
2. Thể chế hóa các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra trong các văn
bản dưới luật.
Các nguyên tắc trong Luật Thanh tra là những khuôn mẫu, khuôn khổ cho các
quy định về hoạt động thanh tra trong các văn bản hướng dẫn Luật Thanh tra, đảm
bảo không có văn bản nào quy định về hoạt động thanh tra vượt ra ngoài khuôn khổ
các nguyên tắc này. Các điều khoản của Luật Thanh tra càng được quy định chi tiết
thì các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra càng được cụ thể hóa. Để nâng cao
hiệu quả thực hiện các nguyên tắc này cần phải thể chế, cụ thể hóa vào trong các
quy định tại các văn bản hướng dẫn Luật như: các nghị định hướng dẫn và quy định
chi tiết, các thông tư hướng dẫn; các quy trình; quy chế thực hiện và giám sát hoạt
động thanh tra. Việc này giúp cho các nguyên tắc được chi tiết, cụ thể hóa, giúp
cho các cán bộ, thanh tra viên tiếp cận được đúng đắn, cụ thể các nội dung của
nguyên tắc, từ đó áp dụng chính xác vào trong hoạt động thanh tra.
3. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trong hoạt động thanh tra
Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra, đòi
hỏi cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của người ra Quyết định thanh tra và
những người có thẩm quyền đối với hoạt động này. Việc tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo giúp cho Đoàn thanh tra, các thành viên Đoàn thanh tra xử lý được những

14


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

khó khăn, vướng mắc về các mặt chuyên môn, nghiệp vụ và đưa ra định hướng xử
lý những vấn đề mới, những nội dung mới,... nhằm đảm bảo sự phù hợp với các
điều kiện khách quan, phù hợp với khuôn khổ chính sách, pháp luật. Có những nội
dung pháp luật chưa điều chỉnh hoặc chưa rõ ràng, việc có sự chỉ đạo, lãnh đạo kịp
thời giúp cho việc xử lý vấn đề được kịp thời, tốt hơn, trên cơ sở bám sát các
nguyên tắc trong hoạt động thanh tra để áp dụng pháp luật.
4. Tăng cường sự giám sát, kiểm tra hoạt động thanh tra
Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra nói chung
và việc thực hiện các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra nói riêng, cần tăng
cường công tác giám sát, kiểm tra của Người ra quyết định thanh tra; Thủ trưởng
cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp thành viên Đoàn thanh tra; cán bộ, công chức
được Người ra quyết định thanh tra cử thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động
Đoàn thanh tra. Bên cạnh đó cũng cần có sự giám sát lại từ phía đối tượng thanh tra
đối với hoạt động của các thành viên Đoàn thanh tra cũng như giám sát từ phía xã
hội, các cơ quan báo chí và người dân nhằm kịp thời tố cáo những tiêu cực, nhũng
nhiễu trong hoạt động của các Đoàn thanh tra để có sự chấn chỉnh, xử lý kịp thời.
5. Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công
tác thanh tra
Bên cạnh sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về thanh tra, cán bộ, thanh tra
viên có vai trò quan trọng, quyết định hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra.
Do đó cần thường xuyên nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ này thông qua các
lớp tập huấn, bổ sung kiến thức định kỳ các chuyên đề phù hợp với lĩnh vực hoạt
động thanh tra, phục vụ cho công tác thanh tra. Bên cạnh đó cần nâng cao ý thức
trách nhiệm, thái độ trong quan hệ với đối tượng thanh tra như thái độ tôn trọng đối
tượng thanh tra, làm việc chuyên nghiệp và công tâm, không vụ lợi.

6. Tổng kết thực tiễn, hoàn thiện các quy định về nguyên tắc trong hoạt
động thanh tra
Nhằm làm rõ và áp dụng đúng đắn các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra,
cần thiết luôn có sự tổng kết thực tiễn áp dụng và nghiên cứu hoàn thiện các
nguyên tắc này. Các quy định pháp luật nói chung và các nguyên tắc nói riêng luôn
có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu mới của công tác quản lý nhà nước, mục
đích của hoạt động thanh tra trong từng giai đoạn, trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn.
7. Bổ sung cơ sở vật chất và các điều kiện làm việc cho cán bộ, thành viên
Đoàn thanh tra
Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động thanh tra, cần tạo các điều kiện
về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho các cán bộ trong hoạt động thanh tra.
Việc bổ sung cơ sở vật chất và các trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh tra giúp
cho các cán bộ, thanh tra viên có điều kiện làm việc tốt hơn, hoàn thành nhiệm vụ
15


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

công tác đúng thời gian với chất lượng cao nhất. Bên cạnh việc bổ sung trang thiết
bị, các điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ công tác, cần tập huấn, bổ sung các kiến
thức, kỹ năng vận hành, khai thác, sử dụng các phương tiện được trang bị.
II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các nguyên tắc
trong hoạt động thanh tra.
1. Thường xuyên đẩy mạnh việc tuyên truyền pháp luật về thanh tra qua các
kênh: báo chí, phát thanh truyền hình, các hội thảo, hội nghị, xuất bản ấn phẩm,...
Xây dựng các chuyên mục về tuyên truyền pháp luật về thanh tra trên Báo Thanh
tra, Tạp chí Thanh tra, trên cổng thông tin điện tử của Thanh tra Chính phủ, trên
Trang tin điện tử của Viện Khoa học Thanh tra.
2. Việc thực hiện các nguyên tắc thanh tra có tốt hay không phụ thuộc rất

nhiều vào năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thanh tra. Do
đó, cần có biện pháp để nâng cao cái “tâm” và cái tầm của đội ngũ này.
a) Chuẩn hóa tài liệu giảng dạy cho các lớp nghiệp vụ thanh tra viên, thanh tra
viên chính, thanh tra viên cao cấp; Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng định kỳ pháp luật
về thanh tra cho các cán bộ, thanh tra viên, nhất là khi có các văn bản pháp luật mới
liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngành; Mở các lớp đào tạo một số kỹ năng
cho cán bộ thanh tra: kỹ năng giao tiếp xã hội, làm việc theo nhóm, đánh giá, phân
tích…
b) Cần xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng về lương, thưởng, cơ hội học tập,
thăng tiến rõ ràng, minh bạch, tạo động lực làm việc, cống hiến và phấn đấu cho
các cán bộ, thanh tra viên. Nhưng cũng cần có quy định chế tài nghiêm khắc đối
với các cán bộ thanh tra lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi trong quá trình
thanh tra như cố tình nhũng nhiễu hoặc làm sai lệch hồ sơ vụ việc.
3. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Quy chế giám sát, kiểm tra hoạt động Đoàn
thanh tra theo hướng quy định thêm việc giám sát, phản ánh từ phía đối tượng
thanh tra và xã hội đối với hoạt động của Đoàn thanh tra. Bên cạnh đó cần quy định
thêm các chế tài áp dụng trong trường hợp vi phạm các quy định về giám sát, kiểm
tra hoạt động của Đoàn thanh tra.
4. Tổng Thanh tra chỉ đạo các cục, vụ chức năng xây dựng và ban hành kịp
thời các văn bản hướng dẫn Luật Thanh tra, hoàn thiện Quy trình tiến hành một
cuộc thanh tra,... cần bám sát và cụ thể hóa các quy định về nguyên tắc trong hoạt
động thanh tra.
5. Tổ chức tổng kết hoạt động thanh ta theo định kỳ 6 tháng và 1 năm, đánh
giá chất lượng, hiệu quả các cuộc thanh tra.
6. Tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc thực hiện pháp luật
về thanh tra nhằm đảm bảo các quy định pháp luật thanh tra được tuân thủ thực
hiện, các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra được đảm bảo.
16



Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

7. Các cơ quan thanh tra xây dựng cơ chế để đối tượng thanh tra có điều kiện
phản hồi hoặc khiếu nại về thái độ, hành vi của các cán bộ, thành viên Đoàn thanh
tra.
8. Chuẩn hóa trang thiết bị, phương tiện làm việc cho Đoàn thanh tra nhằm
đảm bảo các cán bộ, thanh tra viên được hỗ trợ các phương tiện làm việc phù hợp,
cần thiết trong hoạt động thanh tra
9. Hoàn thiện Quy trình tiến hành một cuộc thanh tra.

17


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

KẾT LUẬN
Các nguyên tắc thanh tra là các nguyên tắc về hoạt động, bảo đảm cho hoạt
động thanh tra đạt được mục đích của nó và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thanh tra.
Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra là những nguyên tắc chung, áp dụng cho
tất cả các giai đoạn của hoạt động thanh tra. Việc thiết kế các nguyên tắc nêu trên
đảm bảo tính thống nhất, xuyên suốt trong việc áp dụng khi tiến hành thanh tra, áp
dụng chung cho cả hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Trong thời gian tới, cùng với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành
Thanh tra, nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra, đòi hỏi cần
quán triệt một cách sâu rộng đến các cán bộ, thanh tra viên về nội dung của các
nguyên tắc cũng như việc áp dụng các nguyên tắc vào trong hoạt động thanh tra.
Bên cạnh đó cần có các nghiên cứu và tổng kết thực tiễn nhằm hoàn thiện hơn nữa
các quy định về nguyên tắc trong hoạt động thanh tra.
Và cuối cùng, các quy định hay nguyên tắc trong hoạt động thanh tra cũng do
con người thực hiện, do vậy muốn chuyển hoá các nguyên tắc, quy định pháp luật

thành hiện thực, hạn chế tối đa các ảnh hưởng của các tác động cá nhân đến các
nguyên tắc thì ngoài việc xây dựng quy trình thanh tra chuẩn, cần thay đổi, phát
triển nhận thức về mục tiêu thanh tra, kết quả thanh tra, thái độ và cảm xúc trong
hoạt động thanh tra nhằm đạt hiệu quả tối đa trong việc thực hiện các nguyên tắc
trong hoạt động thanh tra./.

18


Nguyên tắc chính xac, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động thanh tra

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Giám sát kiểm tra thanh tra Hành chính Nhà nước, năm 2012,
Học viện Hành chính.
2. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, năm 2010, , Phó vụ trưởng Vụ III, Viện khoa học thanh tra.
3. Đặc điểm, vai trò của các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra, năm 2012,
Trần Văn Long - Trưởng Phòng Nghiên cứu Khoa hoc, Viện khoa học Thanh tra.

19



×