Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN Việt Nam và tác động tới ổn định hệ thống tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.79 KB, 18 trang )

Đề tài:
Hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN Việt Nam
và tác động tới ổn định hệ thống tài chính"
Trong thời từ nay đến 2010, nền kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng
ngày càng hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu hoá, do đó, hệ thống
ngân hang Việt Nam cũng đứng trước yêu cầu hội nhập vào cộng đồng tài
chính khu vực và quốc tế. Thật vậy, quá trình hội nhập toàn cầu hoá kéo
theo sự mở rộng hoạt động thương mại và đầu tư kể cả chiều rộng và chiều
sâu, vì vậy xuất hiện nhu cầu tài trợ thương mại và phân bổ vốn đầu tư cho
các khhu vực kinh tế tham gia vào thương mại và đầu tư quốc tế, và chính
ngành ngân hang chứ không phải ngành kinh tế nào khác đảm nhận vai trò
này.
Những cam kết quốc tế về lộ trình mở cửa thị truờng tài chính, dịch vụ
ngân hang mà Việt Nam đã ký kết tham gia các hiệp định song phương, đa
phưong có hiệu lực như hiện nay, thị trưòng tài chính Việt Nam đã mở cửa
với các mức độ khác nhau từ năm 2006 đối với các nước thuộc khối
ASEAN, từ năm 2008 theo hiệp định thưong mại Việt Nam – Hoa Kỳ, và
tiếp theo là thực hiện những cam kết theo yêu cầu của WTO..
Quá trình hội nhập nói trên tất yếu dẫn đến những thuận lợi cũng như
khó khăn, thách thức trong việc thực hiên chức năng quản lý nhà nước về
tiền tệ, tín dụng của ngân hàng nhà nước(NHNN) nói chung, và hoạt động
thanh tra và giám sát nói riêng. Nổi bật là vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt
động cảu thanh tra sao cho hoạt động có hiệu quả, phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát các TCTD giữ vai trò quan
trọng đối với sức mạnh của một nền kinh tế, trong đó hệ thống ngân hang
đóng vai trò trung gian thanh toán, huy động và phân bổ các nguồn vốn.
Nhiệm vụ hang đầu của thanh tra ngân hang là đảm bảo các hoạt động ngân
hang diễn ra an toàn và vững chắc do lĩnh vực ngân hang chịu tác động rất
1
1


lớn của rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đối với bất kỳ quốc
gia nào, hệ thống TTNH vững mạnh và hiệu qủa cùng với các chính sách
kinh tế vĩ mô phù hợp là những yếu tố then chốt để có được sự ổn định tài
chính. Mặc dù chí phí cho TTNH và hoạt động của nó rất cao nhưng cái giá
phải trả cho sự buồndg lỏng công tác thanh tra, giám sát còn cao hơn rất
nhiều.
1. Tổng quan về thanh tra Ngân hàng.
1.1. Khái niệm.
Hoạt động thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà
nước, là một trong ba yếu tố cấu thành nên sự lãnh đạo, quản lý đó là:Ban
hành quyết định, tổ chức thực hiện quyết định; và thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện quyết định. Thực chất thanh tra là việc xem xét tình hình thực tế
để đánh giá, nhận xét và kết luận phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa xử
lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế
quản lý, tăng cường pháp chế nhà nước, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp
của các cơ quan, tổ chức và công dân, bảo vệ lợi ích quốc gia.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra chuyên về một ngành nào
đó.Khoản 1, điều 50 luật NHNN Việt Nam quy định: TTNN là thanh tra
nhà nước chuyên ngành về ngân hang, được tổ chức thành hệ thống bộ máy
NHNN. Mục đích của thanh tra ngân hang là nhằm góp phần đảm bảo an
toàn các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi
tiền, phục vụ việc thực thi chính sách tiên tệ quốc gia.
1.2. Đ ối tượng của thanh tra Ngân hàng bao gồm:
1.2.1. Tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng:
- Các tổ chức tín dụng nhà nước (bao gồm: Ngân hàng thương mại,
Ngân hàng phát triển, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng chính sách và tổ
chức tín dụng phi ngân hàng);
2
2
- Các tổ chức tín dụng cổ phần của nhà nước và nhân dân (gồm:

Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng phi ngân hàng);
- Các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt
Nam (gồm: tổ chức tín dụng liên doanh; tổ chức tín dụng phi ngân hàng
100% vốn nước ngoài, chi nhánh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam,
văn phòng đại diện của Tổ chức tín dụng nước ngoài đặt tại Việt Nam);
- Các tổ chức tín dụng hợp tác;
1.2.2. Hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải là tổ
chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép.
1.2.3. Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội và cá
nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền tệ, tín dụng
và hoạt động ngân hàng.
1.3. Nội dung hoạt động của Thanh tra ngân hàng:
+ Thực hiện giám sát thường xuyên việc thực hiện các quy chế an
toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng bằng phương pháp giám sát
từ xa theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
+ Tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra, phúc tra trong việc chấp
hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, việc thực hiện các quy
định trong giấy phép hoạt động ngân hàng đối với các đối tượng quy định
tại điểm 2 của Thông tư này và theo quy định của pháp luật về thanh tra.
+ Thẩm tra, xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo liên quan đến tổ chức và
hoạt động ngân hàng; tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
chỉ đạo công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong ngành
ngân hàng.
3
3
+ Phát hiện ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm
quyền; kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về
tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
+ Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Giám đốc chi nhánh

Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố và các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền khác thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về tiền tệ
và hoạt động ngân hàng.
2. Phương thức thanh tra
Trước yêu cầu đổi mới về hoạt động thanh tra ngân hang trong giai đoạn
hiện nay, cùng với việc đổi mới tổ chức, TTNH đang dần dần thay đổi
phương thức hoạt động của mình, từ thanh tra từng vụ việc là chính sang
thực hiện hai phương thức giám sát từ xa và thanh tra rại chỗ, từng bước
kết hợp hai phương thức này thành công nghệ thanh tra hiện đại nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của thanh tra ngân hang.
2.1. Giám sát từ xa
Giám sát từ xa là quá trình thu thập, xử lý số liệu báo cáo của TCTD;
tiến hành phân tích đánh giá tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng, lập
các báo cáo và ra các bản khuyến cáo với TCTD nhằm đảm bảo sự tuân thủ
pháp luật của TCTD, cảnh báo sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra,
có tác động định hướng cho thanh tra tại chỗ, đảm bảo an toàn cho hoạt
động ngân hang. Phương thức GSTX phụ thuộc vào các yếu tố: khuôn khổ
pháp luật, hệ thống kiểm toán, chế độ hạch toán, kỷ luật thông tin báo cáo,
ở từng nước có vận dụng khác nhau về nội dung, về quy mô của phương
thức này. Song có nét chung sau đây:
+ Việc giám sát được thực hiện tại trụ sở của cơ quan giám sát, không
phải trụ sở của TCTD
+ Dựa vào nguồn thông tin từ chế độ thông tin báo cáo theo quy định, từ
số liệu lịch sử và các nguồn thông tin khác.
4
4
+ Xử lý thông tin, phân tích rút ra những nhận xét về thực trạng của
từng TCTD và của cả hệ thống;
+ Việc giám sát đựơc thực hiện liên tục theo các định kỳ ngắn, thường
là hang tháng, hang quý;

+ Các chỉ số phân tích xếp loại đều dựa trên khuôn khổ CAMELS;
+ Các chương trình giám sát đều thực hiện trên mạng máy tính;
+ Giám sát từ xa kết hợp với thanh tra tại chỗ chỉ ra những đơn vị,
những lĩnh vực cần thiết để thanh tra tại chỗ;
Tại Việt Nam công tác GSTX bắt đầu thực hiện từ năm 1991, qua các
năm nghiên cứu củng cố và hoàn thiện chương trình GSTX, ngày
9/11/1999 thống đốc ngân hang nhà nước ban hành quyết định
398/1999/QĐ-NHNN3 về việc ban hành quy chế GSTX đối với các tổ chức
tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
Từ khi quy chế giám sát ra đời, TTNH thực hiện giám sát TCTD theo 2
cấp gồm: Thanh tra NHNN; thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố.
Đối tượng giám sát và nội dung giám sát theo quyết định 398/1999/QĐ-
NHNN3 ngày 9/11/1999 của thống đốc NHNN.
Nội dung giám sát
Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và
phân tích để đánh giá các nội dung sau đây của tổ chức tín dụng:
- Diễn biến về cơ cấu tài sản nợ và tài sản có
- Chất lượng tài sản có.
- Vốn tự có.
- Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh.
- Việc thực hiện quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.
- Các vấn đề liên quan khác.
Việc đánh giá các nội dung trên dựa vào việc phân tích các chỉ số tài chính
củaTCTD. Kết qủa thực hiện các nội dung giám sát có vai trò trong việc
5
5
đánh giá, xếp loại,cácTCTD và đưa ra những cảnh báo cho các TCTD về
những vấn đề quan tâm.
Hiện nay nhiều nước trên thế giới phương thức GSTX đối với các

NHTM được chọn làm phương thức thanh tra chủ yếu. Phương thức này có
tinh tích cực cao vì nó góp phần cảnh báo, phòng ngừa rủi ro với các
NHTM.
2.2. Phương thức thanh tra tại chỗ
- Thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra truyền thống, là việc
thanh tra được tổ chức tại nơi làm việc của đối tượng thanh tra và tại các tổ
chức kinh tế, cá nhân là khách hàng của ngân hàng trên cơ sở kiểm tra xem
xét các văn bản, thông tin chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, quy chế của
ngành; các báo cáo kế toán, thống kê, các chứng từ, tài liệu, sổ sách, hợp
đồng… có liên quan đến hoạt động huy động vốn- sử dụng vốn và công tác
kế toán – tài chính của đối tượng được thanh tra.
2.2.1 Mục tiêu của thanh tra tại chỗ
_ Đánh giá tình hình chấp hành chính sách, pháp luật, các chế độ, thể
lệ của ngành ngân hàng.
_ Giúp các tổ chức tín dụng thấy đựơc mặt tích cực, những mặt hạn
chế còn tồn tại để tiếp tục phát huy những mặt tích cực, khắc phục những
tồn tại và kiến nghị những biện pháp chấn chỉnh, bảo đảm TCTD hoạt động
đúng chính sách, pháp luật chế độ, thể lệ và hoạt động có hiệu quả hơn.
_ Phát hiện những vấn đề mới phát sinh, những quy định chưa hợp lý
để kiến nghị sủa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo quy định hiện hành.
Nội dung của thanh tra tại chỗ
_ Thanh tra nguồn vốn;
_ Thanh tra chất lưọng tín dụng;
_ Thanh tra nghiệp vụ bảo lãnh;
_ Thanh tra hoạt động kinh doanh ngoại tệ;
6
6
_ Thanh tra hùn vốn liên doanh;
_ Thanh tra nghiệp vụ tài chính, kế toán…
Ở Việt Nam hoạt động thanh tra tại chỗ của NHNN đối với NHTM

thực sự được chú trọng từ khi pháp lệnh thanh tra và pháp lệnh ngân hang
ra đời. Trong điều kiện các phương tiện và việc xây dựng các tiêu chí cho
việc giám sát từ xa còn bị hạn chế, các NHTM chưa xây dựng cho mình
được một hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ hữu hiệu thì phương thức
thanh tra, kiểm tra tại chỗ vẫn có vai trò quan trọng trong việc phát hiện sai
phạm va ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hang.
2.3. Xử lý kết quả thanh tra
2.3.1. Xếp hạng các tổ chức tín dụng
Ở Việt Nam việc xếp loại các NHTM cổ phần đã bắt đầu thực
hiện từ năm 1998 theo quyết định số 92/1998/QĐ-NHNN5 ngày 27 tháng 8
năm 1998 cuả thống đốc ngân hang nhà nước. Sau đó để phù hợp với các
quy định hiện hành và tình hình hoạt động của các NHTMCP, ngày
16\4\2004 thống đốc NHNN đã ban hành quyết định sồ 100/2004/QĐ-
NHNN thay cho quyết dinh 92\1998\QĐ-NHNN5 quyết định này đã đưa
việc xếp loại các TCTD VN tương đối gần cách phân loại đánh giá các
NHTM theo tiêu chi CAMELS.
Các chỉ tiêu đánh giá xếp loại theo quyết định trên của NHNN bao
gồm:
_ Vốn tự có
_ Chất lượng hoạt động;
_ Công tác quản trị, kiểm soát, điều hành;
_ Kết quả kinh doanh;
_ Khả năng thanh khoản.
(1) _ Vốn tự có: Mức điểm tối đa là 15 điểm, tối thiểu là -2
Các NHTMCP đạt 10 điểm về vốn tự có phải có đủ các điều kiện
7
7

×