Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ ở các trường đại học trên địa bàn thành phố vinh, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.19 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
---------------

HOÀNG THỊ TRANG

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

Chuyên ngành

: Chính trị học

Mã sô

: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐINH TRUNG THÀNH

NGHỆ AN - 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy giáo TS. Đinh Trung Thành
người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, Khoa Giáo dục chính trị,
Phòng Đào tạo Sau đại học, các thầy cô giáo ở trường Đại học Vinh đã hỗ trợ


và tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu các trường Đại học Y
khoa Vinh, Đại học Kinh tế Nghệ An, Đại học Công nghiệp Vinh, các cán bộ,
giảng viên, công nhân viên, các em sinh viên, những người thân trong gia đình
và bạn bè đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu,
khảo sát thực tiễn để tôi hoàn thành luận văn này.

Nghệ An, tháng 5 năm 2015
Học viên
Hoàng Thị Trang


MỤC LỤC
Như vậy, từ khi xuất hiện cho đến nay nội dung của khái niệm dân chủ được chuyển hóa ra
nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Dân chủ có nghĩa chung là quyền lực của người bình dân,
quyền làm chủ xã hội và làm chủ bản thân con người, là quyền làm chủ của nhân dân trong
xã hội. Dân chủ được gắn với ý thức chính trị, gắn với chính quyền của nhân dân, gắn với
tiến trình lịch sử của xã hội loài, là giá trị xã hội nhân văn, đánh dấu những nấc thang tiến
bộ của xã hội loài người trong lịch sử...................................................................................15

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Dân chủ là của quý báu nhất
của nhân dân, là chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội”
[33, tr 249]. Xác định đúng đắn tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân chủ,
trong bất kỳ giai đoạn nào, Đảng và Nhà nước ta đều nhận thức việc thực hành
dân chủ rộng rãi sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, đảm bảo sự thành công của cách
mạng Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa hiện nay, dân chủ hoá đời sống xã hội được Đảng Cộng sản

Việt Nam xác định là một trong những nội dung cốt lõi, đặc biệt là dân chủ hoá
đời sống xã hội từ cơ sở.
Nhằm cụ thể hóa những tư tưởng, quan điểm về phát huy quyền làm chủ
của nhân dân theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong những năm qua
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị quan trọng nhằm
phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân để phát triển kinh tế, ổn định
chính trị, phát triển xã hội như: Ngày 18 tháng 02 năm 1998, Bộ Chính trị đã ra
Chỉ thị số 30 /CT-TƯ về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ngày
08 tháng 9 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 71/NĐ - CP về Quy chế
thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan. Quán triệt Chỉ thị 30 và Nghị
định 71, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 04 về “Quy chế
thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường”. Tất cả các ngành học, bậc


4
học đã quán triệt và tổ chức thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt
động của nhà trường của Bộ Giáo dục và Đào tạo một cách nghiêm túc.
Ở các trường đại học trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, qua khảo sát
thực tế tại trường Đại học Y khoa Vinh, Đại học Kinh tế Nghệ An, Đại học Công
nghiệp Vinh, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30-CT/TW và
Nghị định 71 của Chính phủ, Quyết định 04 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bước
đầu tạo ra không khí dân chủ trong các trường học, góp phần vào việc nâng cao
chất lượng dạy và học. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều cơ quan, đơn vị thuộc
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác, việc triển khai và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở của các trường đại học trên địa bàn ở đây còn chậm hoặc mang tính hình thức,
dẫn đến nội bộ nhà trường mất đoàn kết, phát sinh khiếu kiện ở một số đơn vị.
Điều đó đã ảnh hưởng không tốt tới chất lượng dạy và học, các hoạt động của nhà
trường, đến uy tín của ngành giáo dục đối với xã hội, đối với nhân dân.
Thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ
của cán bộ, giảng viên, sinh viên, công nhân viên trong các trường đại học trên

địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trước yêu cầu “phát triển, nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học công
nghệ và kinh tế tri thức” và thực hiện Nghị quyết trung ương 8 khóa XI về đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế là một đòi hỏi, một yêu cầu cấp bách có ý nghĩa thiết thực và
mang tính thời sự sâu sắc trong giai đoạn hiện nay.
Ngay từ khi Quy chế dân chủ ở cơ sở ra đời cho đến nay đã được sự
quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà hoạt động chính trị, nhiều nhà khoa
học, những người làm công tác lý luận trên nhiều lĩnh vực khác nhau ở
những góc độ, khía cạnh khác nhau với nhiều bài viết, nhiều công trình khoa
học được xuất bản thành sách.


5
Về các bài viết của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước nhấn mạnh ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gồm có: Lê Khả
Phiêu (1998), “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện
thiết chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí cộng sản, số 3; Đỗ Mười (1998), “Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 20; Nông Đức
Mạnh (2004), “Đưa cuộc vận động thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở lên một
bước mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn”, Tạp chí Cộng sản, số 20.
Nhóm các bài viết của các tác giả phân tích, lý giải về yêu cầu, cách thức
tổ chức, biện pháp, con đường để thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở gồm có:
“Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần Quang Nhiếp, Tạp chí Cộng
sản, 1998, số 13; “Một số vấn đề về thực hiện quy chế dân chủ ở xã” của Vũ
Anh Tuấn, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 9, 1998; “Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện thiết chế dân chủ ở nước ta” của Nguyễn Đình Tấn, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, số 10, 1998; “ Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân tộc
Việt Nam” của Trần Bạch Đằng, Tạp chí Cộng sản, số 35, 12/2003; “Thực hiện

dân chủ ở nước ta hiện nay: Vấn đề đặt ra và giải pháp” của PGS.TS Trần Khắc
Việt, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2004; “Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp
và quá trình mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta” của TS Đoàn Minh
Huấn, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2004; “Dân chủ cơ sở - sự sáng tạo của
Đảng ta” của PGS, TS Nguyễn Chí Mỳ, Tạp chí Cộng sản, số 95, 2005.
Nhóm các bài viết của các tác giả nhằm sơ kết, đánh giá bước đầu quá
trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gồm: “Thực hiện dân chủ ở xã - Mấy
vấn đề đặt ra” của Trần Quang Nhiếp, Tạp chí Cộng sản, số 10, 1999; “Nhìn lại
việc thực hiện thí điểm quy chế dân chủ ở cơ sở” của Đỗ Quang Tuấn, (2000),
Tạp chí Dân vận, số (1-2); “Kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, vấn đề
đặt ra và một số giải pháp” của Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn Lan, Thông tin lý
luận, số 9, 2000.


6
Đặc biệt, có một số công trình đã đăng thành sách, phân tích một cách sâu
sắc, phong phú cả về nội dung lý luận và thực tiễn qua khảo sát các vùng, các
địa phương gồm: Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn của PGS. TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” do PGS. TS Nguyễn Thu Cúc (chủ biên), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh
đồng bằng sông Hồng hiện nay, đề tài Khoa học cấp bộ 2002 - 2003 của TS.
Nguyễn Thị Ngân.
Ngoài ra còn có một số luận văn thạc sỹ cũng đề cập đến việc thực hiện
Quy chế dân chủ cơ sở ở các địa phương như: Luận văn thạc sỹ Triết học
(Chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản khoa học): Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn thành phố Vinh - Những vấn đề đặt ra và giải pháp của tác giả
Phan Văn Bình, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2001;
Luận văn thạc sỹ Chủ nghĩa xã hội khoa học: Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã

trên địa bàn tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp của tác giả Nguyễn Thanh
Sơn, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003; Luận văn
Chính trị học: Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Hà Tĩnh - Thực
trạng và giải pháp của tác giả Hoàng Trung Dũng, bảo vệ tại trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2013.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, tập trung làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ
chức cũng như giải pháp trong quá trình triển khai và thực hiện để nâng cao hiệu
quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở một cách khá sâu sắc.
Bên cạnh đó là những công trình, bài viết nghiên cứu về việc thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở trong các trường học như: Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường trung học phổ thông trên địa bàn Hà


7
Nội hiện nay - Thực trạng và giải pháp của tác giả Nguyễn Thị Xuân Mai bảo vệ
năm 2004; “Từ cuộc vận động dân chủ hóa nhà trường đến Quy chế thực hiện dân
chủ trong hoạt động của nhà trường ở các trường đại học nước ta hiện nay” của đồng
tác giả Đồng Văn Quân, Nguyễn Trường Kháng, Tạp chí Giáo dục, số 87, kỳ 1 - 4,
2008; “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường đại học, cao đẳng hiện
nay” của tác giả Nguyễn Quốc Vinh, Nguyễn Thị Vân, Tạp chí Đại học Công
nghiệp, số 4 - 2010; Luận văn thạc sỹ Quản lý Giáo dục: Giải pháp tăng cường thực
hiện quy chế dân chủ trong các trường trung học cơ sở Thành phố Uông Bí - Tỉnh
Quảng Ninh của tác giả Phạm Anh Tiến bảo vệ năm 2012 tại Đại học Thái Nguyên;
Thực hiện dân chủ trong các trường đại học ở nước ta hiện nay” của TS Đồng
Văn Quân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.
Như vậy, trong thời gian qua đã có một số công trình khoa học, sách, báo, bài viết
của các tác giả đề cập đến vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong trường
học. Tuy nhiên, về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trường đại học trên

địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An cho đến nay chưa có công trình khoa học nào
đề cập đến một cách có hệ thống và toàn diện. Vì những lí do đó, tác giả chọn vấn đề
"Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trường đại học trên địa bàn thành
phố Vinh, tỉnh Nghệ An" làm đề tài cho luận văn thạc sỹ Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất một số phương hướng và
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các
trường đại học trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện nay trước yêu
cầu, nhiệm vụ đổi mới căn bản toàn diện giáo dục.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ ở cơ sở và các quan
điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
trong các trường đại học hiện nay.


8
- Làm rõ tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trường Đại học
trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong những năm qua.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trường đại trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ
An, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục trong thời gian tới.

4. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trường đại
học trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ và điều kiện cho phép, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu,
đánh giá đúng thực trạng việc tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các

trường đại học trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong những năm gần
đây (2010 - 2014) qua khảo sát thực tế tại 3 trường đại học (Đại học y khoa Vinh,
Đại học Kinh tế Nghệ An, Đại học Công nghiệp Vinh).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
được tổng kết trong các văn kiện của Đảng; Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính
trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị định số 29/CP và
Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ về quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường và trong hoạt động của cơ quan; Quyết định 04 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo về việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường
và kế thừa, chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu có
liên quan của một số nhà nghiên cứu đã được công bố.


9
Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
mácxít; kết hợp lý luận với thực tiễn, sử dụng các phương pháp thống kê, điều
tra xã hội học, so sánh chính trị học v.v...
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Góp phần luận chứng căn cứ khoa học của việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở ở các trường đại học trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm thực hiện
có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trường đại học trên địa bàn thành
phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp thêm những cơ sở khoa
học nhằm thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trường đại học trên địa
bàn thành phố Vinh nói riêng và các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh
Nghệ An nói chung.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được trình bày trong 3 chương, 8 tiết.


10

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
Ở CƠ SỞ TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Khái niệm dân chủ, dân chủ ở cơ sở, dân chủ trong trường học
1.1.1. Khái niệm dân chủ
Từ đầu thế kỷ XX, dân chủ trở thành khái niệm phổ biến nhất của nhân loại
và luôn được các nhà lý luận và hoạt động chính trị - xã hội quan tâm, đề cập.
Ngày nay, không có một tổ chức, phong trào chính trị - xã hội hay một luận
thuyết triết học, chính trị nào lại không đề cập đến vấn đề dân chủ. Lịch sử dân
chủ cho thấy, để đạt tới những giá trị chung, phổ biến, dân chủ gắn liền và phát
triển thông qua các nền dân chủ với tên gọi và giai cấp đại diện khác nhau.
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ thời cổ đại. Người đầu tiên đưa ra khái
niệm dân chủ là nhà sử học, nhà chính trị học người Hy Lạp Hêrôđốt (484 - 425
trước Công nguyên) khi ông xem xét các thể chế chính trị trong lịch sử. Theo
ông, lịch sử đã xuất hiện ba kiểu thể chế chính trị: quân chủ, quý tộc và dân chủ,
trong đó dân chủ là thể chế chính trị do nhân dân nắm quyền lực thông qua con
đường bầu cử. Để chỉ một hiện thực dân chủ đã được thiết lập trên thực tế, trong
ngôn ngữ đã xuất hiện thuật ngữ democratia, nghĩa là quyền lực thuộc về nhân
dân (democratia là từ ghép của hai từ demos là nhân dân, cratos là quyền lực).
Như vậy, với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực để tổ chức, quản lý xã



11
hội, phát triển xã hội, phát triển con người. Với ý nghĩa đó, dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội - nhất là xã hội có giai cấp.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, để tồn tại và phát triển, con người buộc
phải gắn bó với nhau để tạo nên sức mạnh cộng đồng. Và con người, ngay từ
buổi đầu ấy đã sử dụng sức mạnh cộng đồng để thực hiện “quyền sống, quyền tự
do, quyền mưu cầu hạnh phúc”. Do kết quả của quá trình phát triển lực lượng
sản xuất và phân công lao động, xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ
chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất ra đời, cùng với nó là sự xuất hiện
giai cấp và một bộ máy quyền lực đặc biệt thuộc về một số người ra đời - đó là
Nhà nước. Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước đã thừa nhận tham vọng đặc quyền
đứng trên xã hội để giải quyết những vấn đề xã hội. Giai cấp chủ nô nhân danh
xã hội, chiếm đoạt nhà nước, biến nhà nước thành công cụ thực hiện quyền lực
chính trị của mình. Nhà nước chủ nô chính là hình thức, hình thái đầu tiên của
chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp. Dân chủ chủ nô đã đem lại cho loài
người một mô hình về mặt tổ chức và cơ chế vận hành của một thể chế dân chủ.
Theo quy luật phát triển của xã hội loài người, chế độ dân chủ sau phải cao
hơn chế độ dân chủ trước, kiểu nhà nước sau phải tiến bộ hơn kiểu nhà nước
trước. Song, trái lại, kiểu nhà nước phong kiến lại độc đoán chuyên quyền, kết
hợp với thế lực của thần quyền hà hiếp nhân dân nên nhân dân hầu như bị gạt
khỏi cơ chế của quyền lực, bị mất hết quyền lực. C.Mác cho rằng nguyên tắc
duy nhất của chế độ chuyên chế là con người bị mất hết nhân tính. Thiết lập nền
dân chủ tư sản, dưới ngọn cờ dân chủ, giai cấp tư sản đang lên đã nhanh chóng
nắm lấy cơ hội để lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến và tuyên bố về các
quyền tự do, bình đẳng, bác ái, về quyền tự do cá nhân của con người, về các
quyền tự quyết của các dân tộc. Song thực tế trong xã hội tư bản, "chủ nghĩa tự
do" cho toàn xã hội đã bị thay thế bằng chủ nghĩa mất tự do cho giai cấp bị trị.
Do vậy, sự tha hóa quyền lực của nhân dân là tất yếu phổ biến ở các nước tư bản
chủ nghĩa. Đúng như nhận xét của C.Mác: Chế độ bầu cử tự do trong chủ nghĩa



12
tư bản biến thành "tự do" của nhân dân lựa chọn những người thống trị mình.
Tuyệt nhiên không phải là sự lựa chọn những người đại diện cho lợi ích của bản
thân mình. Theo V.I.Lênin, hình thái chính trị của nhà nước tư sản chính là chế
độ dân chủ tư sản đầy giả dối và cạm bẫy. Dù là hình thức "thiếu thành thực" và
"gian dối", nhưng so với lịch sử nhân loại, dân chủ tư sản cũng đã đạt được bước
tiến dài trên con đường giải phóng cá nhân. Nhưng nó vẫn là nền dân chủ được
xây dựng trên sự tước đoạt dân chủ, tước đoạt quyền tự do chính đáng của các
giai cấp, các tầng lớp khác, nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của giai cấp tư sản. Dân
chủ tư sản vì thế, không thể là mục đích cuối cùng mà loài người hướng tới. Đó
là một trong những nguyên nhân dẫn đến cách mạng vô sản để giải quyết mâu
thuẫn trên bằng việc thiết lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là “Chế độ sẽ
thi hành ngay lập tức những biện pháp nhằm chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ
có thể thi hành những biện pháp tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá huỷ chế độ quan
liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân” [20, tr.135].
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thái dân chủ do nhân dân lao động
thiết lập trong quá trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân thông qua đội tiền phong chính trị của mình là Đảng Cộng sản. Trong
tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết:
“Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự giành lấy chính quyền, phải tự mình
vươn lên thành giai cấp dân tộc” [24, tr. 623], phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa
trực tiếp là giành lấy quyền lực nhà nước và tổ chức quyền lực đã giành được đó
thành nhà nước vô sản, nhà nước dân chủ vô sản, chế độ dân chủ vô sản, một
chế độ dân chủ tiến bộ về mọi mặt, khác về chất so với chế độ dân chủ tư sản.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự thay thế lịch sử đối với chế độ dân
chủ tư sản, là nấc thang mới trên chặng đường phát triển của chế độ dân chủ. Đó
là chế độ chính trị mà những giá trị dân chủ, quyền lực của nhân dân được thể
chế hoá thành pháp luật, thành hệ thống chính trị, thành nguyên tắc, mục tiêu
của sự phát triển. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập và chi phối mọi



13
hoạt động của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, mọi công dân và mọi tổ chức
xã hội đều có khả năng nhận thức và vận dụng các giá trị dân chủ để biến thành
những quy tắc phổ biến trong hoạt động và các mối quan hệ xã hội. Theo C.Mác
chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là “sự tự quy định của nhân dân”, chủ quyền
thuộc về nhân dân. V.I.Lênin cũng viết: “Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều
chế độ dân chủ, lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ
dân chủ cho nhân dân…dân chủ cho tuyệt đại đa số cho nhân dân” [20, tr.107].
V.I.Lênin cũng cho rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho nhân dân
lao động - dân chủ thực sự, theo nghĩa thống nhất giữa các quyền và nghĩa vụ
công dân được quy định trong hiến pháp và pháp luật với sự thực hiện trong
thực tế. Nhà nước có trách nhiệm tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần để
công dân có thể thực hiện quyền theo luật định. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền
dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - tư tưởng. Thực
chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách tích cực, thực sự
bình đẳng và ngày càng rộng rãi của người lao động vào quản lý công việc của
Nhà nước và xã hội.
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga, Nhà nước Xô Viết - chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời. Theo V.I.Lênin: "Chế độ
Xô Viết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nông dân, đồng
thời, nó có nghĩa là sự đoạn tuyệt với chế độ dân chủ tư sản và sự xuất hiện
trong lịch sử thế giới một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế độ dân chủ vô sản
hay là chuyên chính vô sản" [22,tr.184].
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thiết
lập, nhân dân ta từ địa vị nô lệ làm thuê đã trở thành người chủ của đất nước.
Tiếp thu, kế thừa và phát triển những quan điểm của các nhà kinh điển về dân
chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận và lý giải khái niệm dân chủ một cách

đơn giản nhưng hết sức cô đọng, súc tích: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu


14
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của
dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều nơi dân”. Nghị quyết của Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam như một
thành tựu của tư duy đổi mới trở lại với tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”. Do đó, ở nước ta việc
vận dụng đúng đắn những giá trị dân chủ vào đời sống kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội là một trong những điều kiện bảo đảm thắng lợi của công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Dân chủ có ý nghĩa to lớn trong việc phát
huy khả năng sáng tạo, sức mạnh của cộng đồng. Xây dựng môi trường thực thi
và phát triển dân chủ là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với một nước có trình độ
kinh tế thấp kém dựa trên nền nông nghiệp nhỏ và lạc hậu, lại chưa trải qua chế
độ dân chủ tư sản như nước ta. Nhà nước ta từ khi ra đời đến nay, nhất là trong
thời kỳ đổi mới, đã thể hiện được rõ vai trò của mình trong việc làm cho nền dân
chủ từng bước khởi sắc. Dân chủ trong kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác
động mạnh mẽ đến việc giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển,
góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Dân chủ về chính trị có những bước
tiến quan trọng, trong đó phải kể đến quy chế dân chủ cơ sở đã được triển khai
thực hiện tạo chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, bộ máy nhà
nước của nước ta hiện nay hoạt động còn kém hiệu quả, ý thức trách nhiệm của
nhiều cán bộ công quyền chưa cao, nạn hách dịch, cửa quyền gây nhiều phiền hà
và nhiều biểu hiện khác vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, tệ quan liêu, nạn
tham nhũng ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Từ những hạn chế trên, nhà
nước cần phải thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong việc bảo đảm

quyền lực của nhân dân, thông qua việc nghiên cứu tìm tòi những hình thức và


15
cơ chế, thể chế hoá đầy đủ các quyền tự do, dân chủ, tạo điều kiện và khả năng
cho nhân dân tham gia thiết thực vào xây dựng và quản lý nhà nước.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa đòi hỏi nhà nước ta phải thể hiện đúng bản chất của mình là nhà nước
của dân, do dân, vì dân, xác định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực để
phát triển đất nước, thực hiện thành công công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo theo mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với
Chủ nghĩa xã hội”, xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Như vậy, từ khi xuất hiện cho đến nay nội dung của khái niệm dân chủ
được chuyển hóa ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Dân chủ có nghĩa chung là
quyền lực của người bình dân, quyền làm chủ xã hội và làm chủ bản thân con
người, là quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội. Dân chủ được gắn với ý
thức chính trị, gắn với chính quyền của nhân dân, gắn với tiến trình lịch sử của
xã hội loài, là giá trị xã hội nhân văn, đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã
hội loài người trong lịch sử.
1.1.2. Khái niệm dân chủ ở cơ sở
Dân chủ nói chung, dân chủ ở cơ sở nói riêng là nội dung quan trọng của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội sẽ không
có nếu không có dân chủ với hai nghĩa: Thứ nhất, giai cấp vô sản không thể
hoàn thành cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu nó không tự chuẩn bị dân chủ cho
mình thông qua cuộc đấu tranh vì dân chủ. Thứ hai, chủ nghĩa xã hội chiến
thắng sẽ không giữ được thắng lợi và không dẫn đến sự tiêu vong của nhà nước
nếu thiếu thực hiện dân chủ một cách trọn vẹn” [19, tr.28]. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là nền dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân, nền dân chủ rộng
rãi nhất cho nhân dân lao động, là nền dân chủ phát huy tính tự giác, sáng tạo

của quần chúng, của mỗi cá nhân mà theo V.I.Lênin là nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa "cao gấp triệu lần dân chủ tư sản".V.I.Lênin cũng khẳng định: “Toàn thể


16
công dân, không trừ một ai đều phải tham gia vào việc xét xử và quản lý đất
nước, và điều quan trọng đối với chúng ta là thu hút toàn thể những người lao
động, không trừ một ai tham gia vào việc quản lý đất nước” [19, tr.128].
Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mình vừa bằng hình thức gián tiếp thông qua bầu cử các cơ quan, tổ
chức đại diện thực hiện quyền tổ chức và quản lý xã hội, vừa bằng hình thức
trực tiếp, bảo đảm cho nhân dân có quyền tham gia quản lý xã hội một cách thiết
thực và hiệu quả, trước hết là ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”. Sức sống của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng
sản lãnh đạo dựa trên cơ sở thực hiện tốt và kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân
chủ nói trên, từ đó động viên sức mạnh của toàn dân tham gia vào công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc. Theo V.I.Lênin: Không phải chỉ
tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao
trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho "những người đại diện" nhân dân trong
những cơ quan đại diện là đủ. Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở
dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thật sự của quần
chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có "sự giám sát" từ trên, không có
quan lại [21, tr. 336-337].
Nhận rõ bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, ngay từ khi chính quyền
nhân dân mới được thành lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền lực Nhà nước
là của nhân dân. Theo đó, "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh
hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân,
làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia công việc quản lý của
Nhà nước"[28, tr.590]. Người nhấn mạnh việc thực thi dân chủ ở từng địa
phương, từng cơ sở, từng cán bộ, từng người dân, từng công việc cụ thể. Vận

động tất cả lực lượng của mỗi một người dân phải làm cho dân hiểu được quyền
lợi và nghĩa vụ của mình trong vị thế của người làm chủ. Người yêu cầu: "Bất cứ


17
việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân
đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương" [28, tr.698-699].
Thấm nhuần quan điểm của V.I.Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta
chủ trương xây dựng thiết chế dân chủ ở cơ sở. Hệ thống chính quyền ở nước ta
hiện nay gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc), huyện (thị, quận)
và xã (phường) đều vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc cơ
bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả của dân chủ thể hiện trực tiếp
đến nhân dân là ở cấp cơ sở. Đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước có
đi vào cuộc sống hay không tùy thuộc chủ yếu vào sự quán triệt và thực hiện
như thế nào ở cấp cơ sở. Cơ sở xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp v.v.. là nơi
trực tiếp thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, là địa bàn nhân
dân sinh sống, lao động, sản xuất, học tập và công tác, là nơi diễn ra các mối
quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với các cấp ủy Đảng và chính
quyền, cán bộ, đảng viên, công chức điều hành và xử lý công việc hàng ngày.
Nhân dân đòi hỏi được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề
đặt ra ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám sát hoạt động hàng ngày của
cấp ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo. Điều đó có nghĩa là nhân dân có quyền
làm chủ từ cơ sở và ở cơ sở.
Để quá trình dân chủ hóa thực sự đi vào cuộc sống, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6/1997) khẳng
định: khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của
nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách
trực tiếp và rộng rãi nhất. Theo tinh thần Nghị quyết đó, Bộ Chính trị đã ra Chỉ
thị 30CT-TW tháng 2/1998 và Chính phủ đã ban hành Quy chế dân chủ ở xã,

phường, thị trấn, cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đó là những văn bản có
tính chính trị và pháp lý làm cơ sở để mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở xây dựng
và thực hành dân chủ - làm chủ.


18
Như vậy, dân chủ ở cơ sở là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ
của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí nguyện vọng của mình đối với tổ
chức và hoạt động của cơ quan chính quyền ở cơ sở (xuống đến cấp thôn xóm,
đơn vị, cơ quan, nhà máy, xí nghiệp) theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”.
Quy chế dân chủ ở cơ sở là văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, quy định những biện pháp làm chủ trực tiếp của nhân dân ở xã, phường,
cơ quan hành chính và đơn vị doanh nghiệp để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh giữa chính quyền cơ sở với công dân trong việc phải thông tin
kịp thời và công khai những điều nhân dân phải được biết, những điều
nhân dân được bàn để Nhà nước quyết định hoặc nhân dân được quyết
định và những việc nhân dân được giám sát, kiểm tra nhằm phát huy
quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân.
1.1.3. Khái niệm dân chủ ở trường học
Trường học là nơi thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, bồi dưỡng và
phát triển các phẩm chất và năng lực cho công dân về tư tưởng và đạo đức, tri
thức khoa học và kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, giáo dục rèn luyện thể chất
v.v...Giáo dục trong nhà trường là con đường cơ bản nhất, vững bền nhất để hình
thành người lao động có kỹ thuật, có kỷ luật cao đáp ứng những yêu cầu của phát
triển kinh tế - xã hội. Chu Văn An, người được dân ta ngợi ca là bậc "Vạn thế sư
biểu" của giáo dục Việt Nam đã nhận định: "Xem trong sử sách, chưa thấy có
nước nào coi thường sự học mà tiến bộ". Soi lại lịch sử thế giới đều thấy những
nước có nền văn minh, sớm phát triển đều rất coi trọng "sự học", coi đó là nền
tảng phát triển quốc gia. V.I.Lênin khẳng định: “Muốn đổi mới bộ máy nhà

nước của chúng ta, phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học
tập, hai là học tập, ba là học tập mãi [23, tr. 444].
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hướng tới nền kinh tế tri thức, các
quốc gia hùng mạnh cũng như các quốc gia đang phát triển đều xác định giáo


19
dục là một trong những khâu đột phá quan trọng nhất để vượt qua thách thức
thời đại. Nhật Bản đã từng lấy cải cách giáo dục để trở thành cường quốc tư bản
và hồi sinh từ đống tro tàn sau chiến tranh thế giới thứ hai. Trung Quốc xác định
"khoa giáo hưng quốc" để nổi lên sau hơn 30 năm cải cách mở cửa. Hoa Kỳ
cũng như Nga đều coi giáo dục là chìa khóa để tiếp tục khẳng định vị thế siêu
cường trên thế giới. Tuy nhiên, sự coi trọng giáo dục không chỉ được thể hiện
trong tuyên bố của các nguyên thủ quốc gia, mà nó được hiện sinh vào cơ chế,
chính sách giáo dục, nhằm thiết lập một hệ thống giáo dục mở, tạo cơ hội học
tập suốt đời và giúp mỗi người có thể tự học để làm chủ cuộc sống.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp giáo dục mà chúng ta xây dựng là
một bộ phận cấu thành quan trọng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Sự nghiệp giáo dục này có nhiệm vụ đào tạo ra các thế hệ công dân
trung thành với sự nghiệp cách mạng, có đầy đủ năng lực và bản lĩnh vượt qua
mọi thách thức của thời đại, đưa đất nước tiến lên đuổi kịp trào lưu phát triển
tiến bộ chung của khu vực và quốc tế. Bản chất của nền giáo dục nước ta từ sau
cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nền
giáo dục này luôn gắn bó với những nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Mục đích chung của nền giáo dục ở nước
ta là phấn đấu xây dựng nền giáo dục thực sự của dân, do dân và vì dân. Nền
giáo dục này hướng tới xóa bỏ mọi sự bất bình đẳng về giai cấp, dân tộc và xã
hội, phát huy mọi tiềm năng văn hóa của nhân dân. Đảng và Nhà nước ta xây
dựng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mục tiêu của từng
cấp học gắn với quá trình dân chủ hóa giáo dục, tạo cơ hội để các cá nhân và

cộng đồng có điều kiện học tập và phát triển năng lực của mình.
Quá trình dân chủ hóa giáo dục được thể hiện trong toàn bộ hệ thống giáo dục
cho đến từng cơ sở trường học. Trong trường học, dân chủ được thể hiện ở quyền
và nghĩa vụ của cán bộ, giáo viên, công nhân viên đối với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của nhà trường. Cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong nhà trường phát


20
huy quyền làm chủ của mình theo phương châm: được biết, được bàn, được tham
gia ý kiến, được giám sát kiểm tra mọi mặt hoạt động của nhà trường. Dân chủ gắn
với kỷ cương, việc thực hiện dân chủ phải đảm bảo các nguyên tắc, sự lãnh đạo và
quản lý của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển giáo dục. Trong trường
học, việc thực hiện dân chủ của cán bộ, giáo viên, công nhân viên, của người học
trên cơ sở sự lãnh đạo của chi bộ, sự quản lý của Ban Giám hiệu. Các đoàn thể, tổ
chức trong nhà trường có vai trò to lớn trong việc tham gia, việc thực hiện dân chủ
ở trường học.
Như vậy, dân chủ ở cơ sở trong trường học là việc thực hiện một cách trực
tiếp quyền làm chủ của cán bộ, giáo viên, công nhân viên, thực hiện quyền làm
chủ trực tiếp của người học trong việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của giáo
dục. Dân chủ, thực hành dân chủ - cụ thể ở cơ sở trong trường học là yêu cầu
khách quan và ngày càng bức thiết đối với các tổ chức đảng, chính quyền và
đoàn thể trong nhà trường nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy và học, xây dựng
nền giáo dục thực sự của dân, do dân và vì dân.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về thực hiện dân chủ trong trường học
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong trường học
Trong hệ thống tư tưởng về dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng
“trong trường, cần có dân chủ” là một trong những di sản tinh thần quý báu.
Người đã nhiều lần nhắc nhở các cấp lãnh đạo, thầy giáo, học sinh, sinh viên,
cán bộ phụ trách luôn ý thức về dân chủ và thực hành dân chủ để đưa nhà trường

tiến lên về mọi mặt. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ
Chí Minh đều đặc biệt quan tâm đến việc phát huy dân chủ trong trường học.
Tại lễ khai giảng trường Đại học Nhân dân Việt Nam ngày 19/01/1955, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phát biểu về vấn đề dân chủ trong trường học: “Trong trường,
cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì


21
đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt” [30,
tr.456]. Trong bài “Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan”, Báo Nhân dân, số 176,
Người cho rằng nhà trường “phải thật sự mở rộng dân chủ”, phải phát huy cao
độ dân chủ trong trường học, tạo nên sự đoàn kết nhất trí giữa thầy với thầy,
thầy với trò, trò với trò, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình xã hội để phát triển giáo dục, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục của ta lên những
bước phát triển mới. Người cũng luôn quan tâm đến việc giáo dục ý thức dân
chủ và thực hành dân chủ trong trường học. Hồ Chí Minh là người đã dày công
xây đắp cho nền giáo dục nước nhà, vì vậy, Người đã để lại những quan điểm
mang tính hệ thống về dân chủ trong trường học.
Trước hết là tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong học tập. Bản chất của
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong học tập là “điều gì chưa thông suốt thì
hỏi, bàn cho thông suốt”, phải thật sự tạo ra được một môi trường học tập thật
dân chủ, trong môi trường này thầy và trò cùng nhau thảo luận, đối thoại, giảng
viên cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng sinh viên, bày cho họ
suy nghĩ, cổ động họ tìm tòi, đề nghị. Dân chủ trong học tập theo tư tưởng Hồ
Chí Minh còn phải đảm bảo tốt quan hệ dân chủ giữa thầy và trò “dân chủ
nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải “cá đối bằng đầu”,
trong trao đổi, đối thoại phải trên tinh thần nghiêm túc, công khai, khách quan,
phản ánh sự vật, hiện tượng đúng với thực tiễn xảy ra. Theo Hồ Chí Minh, để
việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường đạt hiệu quả, bản thân sinh
viên, học sinh phải xác định được ý thức làm chủ, ra sức học tập, nghiên cứu,

phát huy tinh thần tự học để xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước,
người chủ của chính cuộc sống của mình.
Song song với dân chủ trong học tập là dân chủ trong công tác quản lý
trường học. Một trong những biện pháp tốt nhất để tác động vào sự phát triển
nhà trường chính là thực hành dân chủ. Nói chuyện với trường Thanh niên lao
động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình ngày 17 tháng 8 năm 1962, Người đã căn dặn


22
thầy giáo và học sinh nhà trường: “Phải bàn bạc dân chủ”. Có công việc gì, ban
phụ trách trường bàn bạc với anh em, làm cho tư tưởng mọi người thông suốt,
động viên mọi người cùng làm, chứ không nên ban phụ trách định kế hoạch rồi
bắt mọi người làm…” [33, tr.589]. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ trong công tác quản lý trường học là “phải bàn bạc dân chủ” vì có
bàn bạc dân chủ mới phát huy được sáng kiến của quần chúng, mới “làm cho tư
tưởng mọi người thông suốt” để cùng làm. Người khẳng định dân chủ là chiếc
“Chìa khóa vạn năng” có thể giúp giải quyết trong những tình huống xấu nhất,
cần thực hành thường xuyên để giúp giải quyết mọi khó khăn trong công tác
quản lý nhà trường, quản lý giáo dục.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong trường học nhắc chúng ta luôn
quán triệt rằng một nền giáo dục mới nhất thiết phải thực hiện tốt dân chủ
mới, một nhà trường phát triển vững mạnh nhất thiết phải có dân chủ và thực
hiện tốt dân chủ. Dân chủ đó nhất thiết phải gắn liền với kỷ cương, vì thế song
song với việc phát huy dân chủ cần nghiêm khắc đối với những trường hợp vi
phạm hoặc mất dân chủ trong hoạt động giáo dục bằng những chế tài nhất định.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện dân chủ ở
cơ sở trong trường học
Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong trường học là một trong những chủ trương
lớn, quan trọng của Đảng và Nhà nước ta nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thực hiện dân chủ trong nhà

trường, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán trong việc xây dựng và phát huy
vai trò làm chủ của cả thầy và trò trong nhà trường, nhất là trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay. Dân chủ trong nhà trường đã được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm thể hiện qua “Cuộc vận động dân chủ hoá nhà trường” với hai nội
dung cơ bản là dân chủ hoá quá trình đào tạo và dân chủ hoá quản lý nhà trường
từ năm 1989.


23
Dân chủ hoá quá trình đào tạo nghĩa là dân chủ hoá các thành tố của quá
trình đào tạo như: mục tiêu, nội dung, phương pháp....trong đó dân chủ hoá quan
hệ giữa hai thành tố thầy và trò là trung tâm, là hạt nhân của quá trình dân chủ
hoá quá trình đào tạo. Đó là thực hiện quyền được học và học được của người
học, quyền được học phải gắn liền với khả năng học được của người học. Không
tạo điều kiện, cơ hội cho người học, được học thì quyền được học chỉ là khẩu
hiệu suông về dân chủ. Vì vậy ta có thể hiểu dân chủ trong giáo dục là một loại
quyền của nhân dân. Để nhân dân có quyền dân chủ thực sự về giáo dục, thì nhà
nước đã thể chế hoá quyền dân chủ về giáo dục thành các quyền cụ thể trong
Hiến pháp, pháp luật Việt Nam như các quyền học tập, quyền nghiên cứu khoa
học, quyền phát minh, sáng chế, cải tiến kĩ thuật trong các lĩnh vực (Điều 35, 59,
60...Hiến pháp 1992), không những mọi người dân được học mà còn được tạo
điều kiện để có trình độ và năng lực nghiên cứu khoa học, tham gia vào lĩnh vực
giáo dục, quản lý giáo dục.
Dân chủ hoá trong quản lý nhà trường nói chung là tạo môi trường dân chủ
để tất cả mọi người đều có quyền tham gia quản lý và giải quyết các công việc
của nhà trường với phạm vi và đối tượng cụ thể. Dân chủ hoá quản lý nhà
trường gắn liền với việc tăng cường quyền tự chủ của nhà trường, tranh thủ các
lực lượng xã hội và tổ chức vào quản lý công việc nhà trường.
Từ khi tiến hành cuộc vận động dân chủ trong toàn ngành với hai nội dung
lớn là dân chủ trong đào tạo và dân chủ trong quản lý nhà trường, quá trình dân

chủ hóa và xã hội hóa giáo dục đã đạt được những thành tựu quan trọng, không
khí dân chủ trong trường học đã được cải thiện đáng kể, các hoạt động đào tạo
và quản lý trong trường đã được công khai, dân chủ hơn, nhận thức về dân chủ
của cán bộ, giảng viên, công nhân viên, sinh viên ngày càng nâng cao, hệ thống
văn bản pháp lý về dân chủ ngày càng đầy đủ và phù hợp hơn với tình hình thực
tế của nhà trường, các nội dung và cơ chế thực hiện dân chủ trong nhà trường
cũng ngày càng được thể hiện rõ nét. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc thực hiện dân


24
chủ trong các nhà trường vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là việc thực hiện dân chủ
còn mang tính hình thức, dân chủ mới chỉ được thực hiện từ phía nhà trường
bằng hệ thống văn bản nên mang nặng tính áp đặt hành chính, nhận thức về dân
chủ và thực thi dân chủ của cán bộ, giảng viên, công nhân viên, sinh viên còn
hạn chế, công tác chỉ đạo và kiểm tra giám sát thực hiện dân chủ trong nhà
trường còn nhiều thiếu sót.
Quán triệt Chỉ thị 30 và Nghị quyết 71/1998/NĐ CP của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan,
ngày 1-3-2000, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số
04/2000/QĐ-BGD&ĐT về Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà
trường. Quy chế nêu rõ những “Nguyên tắc thực hiện dân chủ trong nhà trường”:
1. Mở rộng dân chủ phải đảm bảo có sự lãnh đạo của tổ chức Đảng Cộng
sản Việt Nam theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện trách nhiệm của Hiệu
trưởng và phát huy vai trò của các tổ chức, các đoàn thể trong nhà trường.
2. Thực hiện dân chủ trong nhà trường phù hợp với Hiến pháp và pháp luật;
quyền phải đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm; dân chủ phải gắn liền với kỷ luật,
kỷ cương trong nhà trường.
3. Xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng dân chủ, xâm phạm quyền tự
do dân chủ làm ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động của nhà trường.
Thực tiễn đã chứng minh nơi nào thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, nơi

đó cán bộ công chức tự giác làm việc, cơ quan hoạt động có kỷ cương nề nếp.
Việc thực hiện quy chế dân chủ trong trường học đã tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác quản lý vì khi các quy chế, các nội quy nhà trường đã được các thành
viên trong tập thể sư phạm hiểu và tự giác thực hiện sẽ là điều kiện thúc đẩy tổ
chức bộ máy trong nhà trường hoạt động tốt, công tác quản lý của Ban giám
hiệu sẽ đạt hiệu quả cao. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong trường học đã
phát huy tốt nhất quyền làm chủ và huy động tiềm năng trí tuệ của cán bộ, giáo


25
viên, đội ngũ công chức trong nhà trường để xây dựng nhà trường nề nếp, kỷ
cương, đảm bảo cho hoạt động dạy và học đạt chất lượng, hiệu quả mong muốn.
1.3. Nội dung và vai trò của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
trong trường đại học
1.3.1. Những nội dung cơ bản của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở trong trường đại học
Một là: Nâng cao nhận thức về dân chủ của cán bộ, giảng viên, công nhân
viên và sinh viên.
Làm thế nào để cán bộ, giảng viên, công nhân viên và sinh viên thực hiện
được quyền làm chủ của mình? Cán bộ, giảng viên, công nhân viên và sinh viên
chỉ trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, được nhận thức về dân chủ.
Vì vậy, để dân chủ đi vào đời sống nhà trường thì việc nâng cao nhận thức về
dân chủ của cán bộ, giảng viên, công nhân viên và sinh viên trong nhà trường có
vai trò vô cùng quan trọng bởi thực hiện dân chủ không phải là việc riêng của
lãnh đạo mà là nhiệm vụ của mỗi người. Bản thân cán bộ, giảng viên, công nhân
viên và sinh viên phải không ngừng nâng cao về ý thức dân chủ, mặt khác, các
tổ chức, đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ.
Hai là: Dân chủ trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế.
Đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế là nhiệm vụ trọng tâm của
các trường đại học nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nội dung cơ bản của dân chủ hóa trong
đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế yêu cầu lãnh đạo nhà trường,
cán bộ, giảng viên, công nhân viên, sinh viên nghiêm túc thực hiện các nhiệm vụ
của mình theo luật định, đảm bảo công khai các vấn đề về tuyển sinh, quy trình
đào tạo, được biết và được tham gia ý kiến xây dựng nội quy, quy định có liên
quan đến vấn đề đào tạo như nội dung, chương trình, giáo trình, quy trình thi và
kiểm tra, vấn đề đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, học tập, vấn đề
đào tạo theo nhu cầu xã hội, đầu vào, đầu ra, vấn đề đảm bảo công bằng xã


×